Tiểu luận Phân tích bài nghiên cứu - Creative climate and learning organization factors: their contribution towards innovation

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

Nội dung 2

I – Mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu của đề tài 2

1. Mục tiêu nghiên cứu 2

2. Câu hỏi nghiên cứu 2

II – Mô hình lý thuyết của đề tài 3

III – Xác định độ tin cậy thống kê của các biến tiềm ẩn bằng các yếu tố thành phần 4

IV – Những cơ sở lý thuyết để thiết lập mô hình lý thuyết của đề tài 7

V – Giải thích những kết quả xử lý thống kê trong việc kiểm định các câu hỏi nghiên cứu 9

1. Mối quan hệ giữa môi trường sáng tạo với sự đổi mới 9

2. Mối quan hệ giữa các khía cạnh của tổ chức học hỏi với sự đổi mới 9

3. So sánh giữa môi trường sáng tạo, văn hóa học hỏi và sự đổi mới giữa các tổ chức địa phương và các tổ chức đa quốc gia 10

4. So sánh giữa môi trường sáng tạo, văn hóa học hỏi và sự đổi mới giữa 3 vị trí nghề nghiệp trong một tổ chức và quy mô của tổ chức 11

5. Mối tương quan giữa nhân tố môi trường sáng tạo và văn hóa học hỏi trên tổng thể các tổ chức 11

6. Mối tương quan giữa nhân tố môi trường sáng tạo và văn hóa học hỏi trong tổ chức địa phương và tổ chức đa quốc gia 12

7. Kết quả của phân tích nhân tố Post hoc đến cấu trúc của sự đổi mới 13

8. Kết quả của phân tích nhân tố Post hoc về tổ chức học hỏi và các khía cạnh của sự đổi mới 13

VI – Những phát hiện mới, hạn chế của đề tài cũng như những đề xuất về những đề tài nghiên cứu mới để giải quyết những hạn chế này 14

1. Phát hiện mới của đề tài 14

2. Hạn chế 16

3. Đề xuất nghiên cứu mới 16

Phần kết luận 17

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích bài nghiên cứu - Creative climate and learning organization factors: their contribution towards innovation, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào? II - Mô hình lý thuyết của đề tài thử thách/động lực tự do ý tưởng hỗ trợ sinh động/năng động khôi hài/hài hước các cuộc tranh luận tin tưởng/cởi mở mâu thuẫn rủi ro ý tưởng thời gian môi trường sáng tạo liên tục học hỏi đối thoại và yêu cầu học tập theo nhóm hệ thống nhúng sự ủy quyền kết nối hệ thống cung cấp lãnh đạo tổ chức học hỏi đổi mới tổ chức III – Xác định độ tin cậy thống kê của các biến tiềm ẩn bằng các yếu tố thành phần Biến tiềm ẩn thường là các khái niệm nghiên cứu trong ngành khoa học xã hội. Để đo lường các biến này chúng ta thường dùng một tập biến quan sát hay biến đo lường, tập biến quan sát này được gọi là thang đo và trong bài báo này biến tiềm ẩn là khám phá tác động của 2 nhân tố độc lập là môi trường sáng tạo và văn hóa học hỏi trong sự đổi mới diễn ra một cách riêng rẽ và đồng thời với nhau. Các biến tiềm ẩn này được đo lường bằng các yếu tố thành phần (các biến quan sát hay các biến đo lường) ở trong bài báo này dùng thang đo likert và các biến quan sát hay các yếu tố thành phần là: bao gồm bốn thành phần. Phần thứ nhất bao gồm tổng số 50 items, có báo cáo liên quan đến nhận thức của người trả lời về môi trường sáng tạo. Phần thứ hai có chứa các items đo lường nhận thức của người trả lời đến việc học hỏi các khía cạnh văn hóa. Có 43 items bao gồm bảy khía cạnh. Phần thứ ba có những items đo lường nhận thức của người trả lời của mức độ đổi mới. Cấu trúc này có tổng số 32 items. Cuối cùng, phần thứ tư là tìm kiếm thông tin tiểu sử của người trả lời. Phần đo lường các nhân tố môi trường sáng tạo trong tổ chức là một bảng câu hỏi môi trường sáng tạo (Creative climate questionnaire - CCQ) được phát triển bởi Ekvall và cộng sự (1983). Mười nhân tố của CCQ là: (1) thử thách / động lực; (2) tự do; (3) ý tưởng hỗ trợ; (4) sinh động / tính năng động; (5) khôi hài / hài hước; (6) các cuộc tranh luận; (7) tin tưởng / cởi mở; (8) mâu thuẫn; (9) rủi ro, và (10) ý tưởng thời gian. Các items trong các báo cáo đó yêu cầu người trả lời phải xác định mức độ của sự trình bày là đúng đối với môi trường sáng tạo đang xảy ra trong tổ chức đó. Thang đo đo lường thể hiện trong mỗi báo cáo được chia từ 0 đến 3. Điểm "0" thể hiện cho một mức độ tương đương "không áp dụng cho tất cả", "1" thể hiện "có thể áp dụng cho một số mức độ", "2" thể hiện "có thể áp dụng được" và "3" thể hiện "áp dụng đối với mức độ cao”. Phần đo lường các khía cạnh của bảng câu hỏi về tổ chức học hỏi (dimensions of learning organization questionnaire - DLOQ) được phát triển bởi Watkins và Marsick (1996). Bảy khía cạnh của tổ chức học tập với các items có liên quan là: (1) liên tục học hỏi; (2) đối thoại và yêu cầu; (3) học tập theo nhóm; (4) hệ thống nhúng; (5) sự ủy quyền; (6) kết nối hệ thống; và (7) cung cấp lãnh đạo. Tổng cộng có 43 items cho bảy khía cạnh. Trong những items này, công cụ yêu cầu để người trả lời xác định mức độ mà báo cáo này phản ánh việc tiếp cận trong tổ chức. Mỗi câu được đo lường theo mức từ 1-6 với "1" là "gần như không bao giờ" đến "6" là "gần như luôn luôn". Phần thứ ba tập trung vào sự đổi mới và có hai phần chính là: (1) TI (chuyển giao công nghệ, và phổ biến của đổi mới) (2) sự đổi mới tổ chức tập trung vào yếu tố cơ bản của TQM và chương trình đảm bảo chất lượng như chứng nhận ISO 9000. Có 32 items nằm trong hai phần này. 32 items có trong hai phần đổi mới công nghệ (TI) (24 items) và đổi mới tổ chức (8 items) đã được phát triển cho nghiên cứu này dựa trên các hướng dẫn được cung cấp bởi OECD (1997) và MASTIC (1996). Các báo cáo yêu cầu người trả lời xác định mức độ của báo cáo này là đúng. Tất cả các items có thang đo đánh giá từ 1-6. Phần đo lường các khía cạnh của bảng câu hỏi về tổ chức học hỏi (dimensions of learning organization questionnaire - DLOQ) được phát triển bởi Watkins và Marsick (1996). Bảy khía cạnh của tổ chức học tập với các items có liên quan là: (1) liên tục học hỏi; (2) đối thoại và yêu cầu; (3) học tập theo nhóm; (4) hệ thống nhúng; (5) sự ủy quyền; (6) kết nối hệ thống; và (7) cung cấp lãnh đạo. Tổng cộng có 43 items cho bảy khía cạnh. Trong items này, công cụ yêu cầu để người trả lời xác định mức độ mà báo cáo này phản ánh việc tiếp cận trong tổ chức. Mỗi câu được đo lường theo mức từ 1-6 với "1" là "gần như không bao giờ" đến "6" là "gần như luôn luôn". Phần cuối của bảng câu hỏi có thông tin về tiểu sử của người trả lời. Điều này bao gồm giới tính, năm sinh, loại công việc, nền tảng giáo dục, nhiệm kỳ làm việc với tổ chức, và thời gian hoạt động từ khi thành lập của tổ chức và quy mô nhân lực của tổ chức. Phần này có tám items. Đánh giá độ tin cậy của thang đo Độ tin cậy thường dùng nhất là tính nhất quán nội tại nói lên mối quan hệ của các biến quan sát trong cùng một thang đo. Hay nói các khác các biến quan sát cùng đo lường một khái niệm nghiên cứu nên hệ số tương quan giữa chúng phải cao. Độ tin cậy thường dùng nhất đó là hệ số Cronbach alpha và Cronbach alpha >= 0.6 là thang đo có thể chấp nhập được về mặt độ tin cậy. Kết quả là: Các ước tính đáng tin cậy cho mười nhân tố của bảng câu hỏi về môi trường sáng tạo (CCQ) và mỗi cái trong bảy khía cạnh của bảng câu hỏi của tổ chức nghiên cứu được dựa trên các thử nghiệm thí điểm. Các ước tính ban đầu của bảng câu hỏi về môi trường sáng tạo (CCQ) đã được xác định bởi Ekvall (1996). Hệ số Cronbach dành cho mỗi nhân tố bảng câu hỏi môi trường sáng tạo (CCQ) đã đạt được từ các thử nghiệm thí điểm trong các nghiên cứu hiện tại là thách thức/động lực (0,78), tự do (0,68), ý tưởng hỗ trợ (0,83), sự sinh động/sự năng động (0,76), tính khôi hài/hài hước (0,74), cuộc tranh luận (0,78), tin tưởng/cởi mở (0,55), chấp nhận rủi ro (0,68), ý tưởng thời gian (0,72), và sự xung đột (0,61). Độ tin cậy tổng thể cho 50 thành phần của bảng câu hỏi môi trường sáng tạo là 0,94. Các ước tính đáng tin cậy của 7 mức độ trong các khía cạnh của bảng câu hỏi về tổ chức học hỏi là liên tục học hỏi (0,83), đối thoại/hỏi đáp (0,89), học tập theo nhóm (0,87), hệ thống nhúng (0,81), kết nối hệ thống (0,88), ủy quyền (0,90), lãnh đạo chiến lược (0,92). Độ tin cậy tổng thể của biến tổ chức học hỏi là 0,97. Các ước tính đáng tin cậy tổng thể cho việc đổi mới toàn diện là 0,98. Ba cấu trúc đã chứng minh luôn đáng tin cậy với tất cả các quy mô trên các khuyến nghị 0,70 (Nunally, 1978). Như vậy, việc đo lường các biến tiềm ẩn bằng các yếu tố thành phần có đủ độ tin cậy thống kê. IV - Những cơ sở lý thuyết để thiết lập mô hình lý thuyết của đề tài Tạo được một môi trường làm việc sáng tạo gắn liền với một văn hóa làm việc thích hợp trong một tổ chức sẽ nâng cao sức mạnh của tổ chức. Ý tưởng này đã được đặt lên hàng đầu trong giữa thập niên 1980 và cuối thập niên 1990 bởi một số nhà trí thức như Ekvall (1983), Ekvall và Tangeberg Anderson (1986), Zain (1995), Zain và Rickards (1996) và Amabile và Conti (1999). Môi trường tổ chức được xem là một yếu tố của tổ chức, một sự kết hợp của thái độ, cảm xúc, và hành vi tạo nên đặc trưng của tổ chức và tồn tại độc lập với nhận thức và hiểu biết của các thành viên trong tổ chức (Ekvall, 1996, p.105). Nó được quan niệm như một thực tế của tổ chức trong một nhận thức “khách quan”. Mặt khác, sự sáng tạo là một quá trình tư duy giúp tạo ra các ý tưởng (Majaro, 1992). Nghiên cứu về sự đổi mới cũng xác định một số yếu tố về con người, xã hội, và văn hóa đóng vai trò quyết định trong hiệu quả đổi mới ở cấp tổ chức (OECD, 1997). Các yếu tố này theo OECD (1997) hầu hết tập trung quanh việc học hỏi, việc học tập trong tổ chức (truyền dạy kiến thức rộng rãi đến các cá nhân chủ chốt) là rất quan trọng cho khả năng đổi mới của một tổ chức. Cuối những năm 1990, ý tưởng học hỏi ở cấp độ tổ chức và quản lý tri thức đã liên kết với sự cách tân (Argyris and Schon, 1978; Drucker, 1988; Garvin, 1993; Nonaka và Takeuchil, 1995; Watkins và Marsick, 1996). Dòng nghiên cứu này được gọi là phương pháp tân Schumpeterian, có nguồn gốc từ các nhà học thức trước như: Polyanyi (1966) and Nonaka (1991), người xem xét cách đổi mới trong sự tương tác giữa cơ hội thị trường và nền tảng tri thức và năng lực của tổ chức. Một tổ chức học hỏi là một hệ thống có khả năng thay đổi và yêu cầu các thành viên phải thích ứng với sự thay đổi bằng cách học hỏi. Tổ chức học hỏi là nơi mà học tập và làm việc kết hợp với nhau có hệ thống và liên tục nhằm hỗ trợ cho sự cải tiến không ngừng; việc học tập phải thực hiện ở mọi cấp độ trong tổ chức, cá nhân, nhóm, và toàn cầu (Watkins, 1996, p.91). Mặt khác, sự đổi mới là một quá trình tạo ra sản phẩm thương mại (hay dịch vụ) từ các phát minh. Bao gồm cả đổi mới công nghệ và phi công nghệ. Đổi mới phi công nghệ được thảo luận trong các nghiên cứu hiện nay tập trung vào đổi mới trong tổ chức, nó được bao gồm cùng với đổi mới công nghệ (TI) vì đổi mới trong tổ chức xảy ra như một phần của TI, theo Damanpour và Evans trích dẫn bởi Van de Ven và Angle (1989). Ngoài ra, để đo lường các yếu tố môi trường sáng tạo trong tổ chức, nghiên cứu này sử dụng Bảng câu hỏi về môi trường sáng tạo (Creative climate questionnaire - CCQ) được phát triển bởi Ekvall et al. (1983). Và để đo lường việc học hỏi các khía cạnh của tổ chức, nghiên cứu này sử dụng Bảng câu hỏi đo lường kích thước của tổ chức học tập (Dimensions of learning organization questionnaire - DLOQ) được phát triển bởi Watkins và Marsick (1996). Để đo lường nhận thức của người trả lời về mức độ đổi mới xây dựng đề tài dựa vào các hướng dẫn của OECD (1997) và Mastic (1996) về sự đổi mới: TI (technological transfer, and diffusion of innovation) bao gồm 2 yếu tố: Chuyển giao công nghệ Phổ biến sự đổi mới (2) Tổ chức sáng tạo tập trung vào yếu tố cơ bản của TQM và chất lượng đảm bảo chương trình như chứng nhận ISO 9000. V - Giải thích những kết quả xử lý thống kê trong việc kiểm định các câu hỏi nghiên cứu Những tổ chức được lấy làm mẫu khác nhau về ngành kinh doanh chủ yếu (từ sản xuất, truyền thông, tài chính và bảo hiểm, tư vấn, bất động sản, giáo dục, và kỹ thuật…), quy mô tổ chức và trạng thái hoạt động. Có mười ba tổ chức là sở hữu địa phương (được đăng ký) trong khi số còn lại là các tổ chức đa quốc gia gọi tắt là MNCs (Nhật, Pháp, Mỹ và Anh sở hữu). Ba loại hình tổ chức đó là quy mô nhỏ với số lượng nhân viên từ một trăm trở xuống, quy mô lớn số lượng nhân viên từ 1.000 đến dưới 1.999 và quy mô rất lớn từ trên 2.000 nhân viên. Loại hình còn lại là quy mô vừa với số lượng nhân viên từ 100 đến 1000. Theo thống kê từ 259 nguồn, 52.5% là nam giới, 47.5% còn lại là nữ giới. Ở những tổ chức MNCs, 39 hoặc 49.4% là nam giới, 40 hoặc 50.6% là nữ giới, trong khi ở những tổ chức địa phương, 97 hoặc 53.9% là nữ, 83 hoặc 46.1% là nam. Ngoài quy mô mẫu là 259, hơn 1% hoặc chỉ dưới 2 người trả lời câu hỏi nằm trong độ tuổi hơn 51, số còn lại nhỏ dưới 50 tuổi. Hầu hết một nửa trong số người điều tra (46,3%) là những người có thâm niên làm việc dưới 5 năm. Hơn một nửa trong số được điều tra (52,1%) có bằng cử nhân và bằng cấp trên cử nhân. Mối quan hệ giữa môi trường sáng tạo và sự đổi mới: Từ sự phân tích quan hệ tương quan đã thực hiện, nó đã được quan sát rằng mỗi nhân tố trong mười nhân tố của những biến môi trường sáng tạo có một mức ý nghĩa đáng kể (p < 0.05) nhưng lại liên quan rất ít đến sự đổi mới (r < 0,4), trong đó nhân tố “Thử thách” có mối liên hệ mật thiết nhất (r = 0,475). Mối tương quan tổng thể của biến môi trường sáng tạo là r = 0,473. Khi các nhân tố của sự đổi mới đi xuống thì nó được tìm thấy chỉ với 35% mức ý nghĩa đóng góp vào sự đổi mới đã được tính toán bởi nhân tố môi trường sáng tạo. Kết quả trả lời cho câu hỏi nghiên cứu thứ 1 (RQ1). Mối quan hệ giữa các khía cạnh của tổ chức học hỏi với sự đổi mới: RQ2 thể hiện rằng trong 7 khía cạnh có mối quan hệ với sự đổi mới từ mức trung bình (r > 0.5) đến mức cao (r > 0.7). Khi các khía cạnh của tổ chức học hỏi thụt lùi so với sự đổi mới, nó được quan sát rằng có khoảng 57% trong đóng góp dẫn đến sự đổi mới được ghi nhận là từ những khía cạnh của việc học hỏi. Như một sự kiểm tra và cân bằng, phân tích nhân tố Post hoc dùng phương pháp xoay Varimax được tiến hành liên quan đến 43 items của biến tổ chức học hỏi (7 khía cạnh) và 32 items (3 cấu trúc) trong cấu trúc sự đổi mới để quan sát liệu rằng mối tương quan sâu sắc giữa hai biến số (r = 0.733) có tác động đến những items của những biến số khác có bản chất thật sự tương tự với nhau. Phương pháp phân tích nhân tố chỉ ra rằng có 32 items của cấu trúc đổi mới được tập hợp thành hai thành phần, không nghi ngờ gì, đổi mới công nghệ - TI (Sự chuyển giao công nghệ và phổ biến sự đổi mới) và sự đổi mới trong tổ chức. Trong 43 items của biến tổ chức học hỏi thuộc vào 7 thành phần khác nhau nhưng mỗi thành phần lại có số lượng những items khác nhau (chi tiết của việc phân tích được cung cấp trong phần phụ lục). Một nghiên cứu nhân tố tương tự đã chỉ rõ sự liên quan của 50 items trong bảng câu hỏi về môi trường sáng tạo (CCQ) và 32 items của bảng câu hỏi về sự đổi mới và những phát hiện đã chỉ ra rằng có 50 items của CCQ thuộc những thành phần khác trong hai thành phần của những items về sự đổi mới. Cùng lúc đó, 93 items (43 items của biến tổ chức học hỏi (LO) và 50 items của các biến CCQ) được phân tích lại bằng cách sử dụng phương pháp phân tích nhân tố để tiến hành quan sát nhóm các items, liệu có sự tương đồng trong 93 items đó không. Kết quả từ những phân tích sử dụng phương pháp xoay Varimax với Kaiser Normalization cho thấy 43 items được tập hợp thành một thành phần lớn trong khi 50 items của CCQ được tập hợp thành một thành phần lớn khác. Vì vậy, từ nghiên cứu ta suy ra có 43 items LO và 53 items CCQ không tương tự nhau và không có mối liên hệ mật thiết với nhau. So sánh giữa môi trường sáng tạo, văn hoá học hỏi và sự đổi mới giữa các tổ chức địa phương và các tổ chức đa quốc gia Phép phân tích kiểm định T loại 3 được tiến hành so sánh giữa nhận thức của các thành viên về môi trường sáng tạo của tổ chức giữa các tổ chức địa phương và các tổ chức đa quốc gia, nhận thức của các thành viên về tổ chức học hỏi giữa các tổ chức địa phương và các tổ chức đa quốc gia, nhận thức của họ về sự đổi mới giữa các tổ chức địa phương và các tổ chức đa quốc gia. Các kết quả đã chỉ ra rằng không có sự khác biệt đáng kể nào trong nhận thức về môi trường sáng tạo (P = 0.266). Tương tự không có sự khác biệt nào được quan sát trong nhận thức của các thành viên về văn hóa học hỏi (P = 0.753) cũng như trong sự đổi mới (P = 0.934) giữa các tổ chức địa phương và các tổ chức đa quốc gia. Điều này chỉ ra rằng môi trường sáng tạo, văn hoá học hỏi và sự đổi mới trong các công ty địa phương đều nhiều hơn hoặc ít hơn như nhau giữa các tổ chức đa quốc gia. Kết quả trả lời cho câu hỏi nghiên cứu thứ 3 (RQ3). So sánh giữa môi trường sáng tạo, văn hoá học hỏi và sự đổi mới giữa 3 vị trí nghề nghiệp trong 1 tổ chức và quy mô của tổ chức Phân tích Two ANOVAs được tiến hành. Một là để xác định sự khác biệt đáng kể về nhận thức giữa 3 nhóm nhân viên có vị trí nghề nghiệp khác nhau ví dụ như nhận thức của những nhân viên cấp cao, nhân viên cấp trung và những nhân viên bình thường về môi trường sáng tạo, văn hoá học hỏi và sự đổi mới. Một phân tích khác cũng được đưa ra để xác định sự khác biệt đáng kể về nhận thức của các thành viên về môi trường sáng tạo, văn hoá học hỏi và sự cách tân giữa các tổ chức có quy mô nhỏ, vừa, lớn và rất lớn. Kết quả từ các phân tích cho thấy rằng không có sự khác biệt đáng kể nào trong nhận thức về môi trường sáng tạo giữa 3 nhóm nhân viên có vị trí nghề nghiệp khác nhau (P = 0.545), tổ chức học hỏi (p = 0.267) và trong sự đổi mới (P = 0.793). Tương tự cũng không có sự khác biệt đáng kể nào trong nhận thức của các thành viên về môi trường sáng tạo (P = 0.332), văn hoá học hỏi (P = 0.347) và trong sự đổi mứi (P = 0.703) trong các tổ chức có quy mô nhỏ, trung bình, lớn và các công ty đại chúng Kết quả từ phân tích ANOVAs đã chỉ ra rằng môi trường sáng tạo, văn hoá học hỏi và sự đổi mới được nhận thức như nhau giữa 3 nhóm nhân viên có vị trí công việc khác nhau tức là nhận thức của các thành viên ở mỗi vị trí nghề nghiệp của tổ chức về môi trường sáng tạo, văn hoá học hỏi và sự đổi mới là như nhau. Tương tự nhận thức của tất cả những thành viên trong các tổ chức nhỏ, vừa, lớn, và rất lớn về môi trường sáng tạo, văn hoá học hỏi và sự đổi mới dường như là giống nhau. Kết quả này trả lời cho câu hỏi nghiên cứu RQ4 và RQ5. Mối tương quan giữa nhân tố môi trường sáng tạo và văn hóa học hỏi trên tổng thể các tổ chức: Trong việc giải quyết câu hỏi RQ6 - RQ9, phép phân tích hồi quy bội được tiến hành. Phép phân tích hồi quy được tiến hành liên quan cả sự hình thành của các biến độc lập và 17 nhân tố của chúng để xác định sự tham gia cấu trúc nên cả 2 biến trong những phương sai được quan sát trong sự đổi mới. Phép phân tích cho thấy rằng 17 nhân tố cùng nhau đóng góp đáng kể trong 58.5% (R2 = 0.585, F = 19.980, P = 0.000) lên phương sai được quan sát trong sự đổi mới, trả lời cho câu hỏi nghiên cứu RQ6. Kết quả được đưa ra ở Bảng I và II. Ba nhân tố từ tổ chức học hỏi được nhận diện như những nhân tố có tính dự báo cao. Phép phân tích hồi quy bội bậc thang đã từng bước thể hiện kết quả trên. Kết quả tương tự đã thu được khi một kỳ vọng của hồi quy bội được tiến hành ở 3 nhân tố và được nhận diện trong lệnh phân cấp là “Hệ thống nhúng” (β = 6.120, P = 0.000), “kết nối hệ thống” (β = 0.313, P = 0.000) và “việc học hỏi liên tục” (β = 0.125, P = 0.035). Với kết luận trên, phương trình hồi quy cho mô hình đầy đủ đã thu được. Sử dụng kết quả của phép hồi quy bội bậc thang, phương trình của mô hình thu được là: Sự đổi mới = 29.370 + 2.055 (Hệ thống nhúng) + 1.608 (Sự kết nối hệ thống) + + 0.622 (Việc học hỏi liên tục). Xác định xem có phải mô hình thu nhỏ có tốt như mô hình đẩy đủ hay không, 3 nhân tố có tính dự báo cao cùng với 10 nhân tố của môi trường năng động được hồi quy cùng với biến đổi mới. Kết luận cho thấy rằng 13 nhân tố cũng đóng góp bằng 58% (R2 = 0.58, F= 26.005, P = 0.000) cho sự giải thích của những phương sai được quan sát trong sự đổi mới. Kiểm định cũng được tiến hành đến việc khẳng định rằng mô hình thu nhỏ cũng hiệu quả như mô hình đầy đủ. Đây là kết quả của câu hỏi nghiên cứu RQ7. Mối tương quan giữa nhân tố môi trường sáng tạo và văn hóa học hỏi trong tổ chức địa phương và tổ chức đa quốc gia. Phép phân tích hồi quy thứ 3 theo sau phép hồi quy thứ 4 được tiến hành để quyết định quy mô đóng góp của cả 2 biến độc lập đến việc giải thích các phương sai được quan sát trong sự đổi mới cho 13 tổ chức địa phương và 5 tổ chức đa quốc gia, đúng như mong đợi. Nó đã chỉ ra rằng 60.2% của các nhân tố đã có sự đóng góp đáng kể để giải thích những phương sai được quan sát trong sự đổi mới đối với các tổ chức địa phương (R2 = 0.602, F= 14.472, P = 0.000) và 67.6% ở tổ chức đa quốc gia (R2 = 0.676, F= 7.476, P = 0.000). Kết quả được thể hiện ở Bảng III và IV, đúng như kỳ vọng. Nhân tố “Sự kết nối hệ thống” (β = 0.045, P = 0.000) theo sau “Hệ thống nhúng” (β = 2.961, P = 0.004) cho thấy tính dự báo cao trong sự đổi mới ở các tổ chức địa phương, trong khi đó “Chiến lược lãnh đạo” (β = 0.422, P = 0.007) theo sau bởi “Học hỏi nhóm” (β = 0.338, P = 0.044) cho thấy tính dự báo cao trong sự đổi mới ở các tổ chức đa quốc gia. Thêm vào đó, có 2 nhân tố môi trường sáng tạo cũng tác động là “Thử thách” (β = 0.302, P = 0.037) và “Những cuộc tranh luận” (β = 0.287, P = 0.046). Một điều khá thú vị là không có một nhân tố môi trường sáng tạo nào ảnh hưởng đến sự đổi mới trong các tổ chức địa phương nhưng ở tổ chức đa quốc thì tình hình cân bằng hơn. Các công ty đa quốc gia cung cấp môi trường thử thách cho các thành viên của họ và điều này cho thấy rằng họ cung cấp đầy đủ cơ hội cho các thành viên để phát hiện ra nhiều giải pháp mới và các thành viên trao đổi, phản ứng tích cực đến môi trường này (Ekwall, 1996). Những thành viên này về bản chất sẽ được trọng thưởng bởi nhu cầu tìm kiếm những thành tựu. Môi trường của “Những cuộc tranh luận” được dự kiến ảnh hưởng tích cực đến “Học hỏi nhóm” và dĩ nhiên điều này đã được thể hiện thông qua những kiểm nghiệm ở trên. Nói theo cách khác, môi trường của “Những cuộc tranh luận” dường như xảy ra đồng thời với “Học hỏi nhóm” nó liên quan đến việc nắm vững các bài đối thoại thực hành và thảo luận. Đây là tính năng phổ biến cho sự đổi mới. Đây là kết quả của câu hỏi nghiên cứu RQ8 và RQ9. Kết quả của phân tích nhân tố Post hoc đến cấu trúc của sự đổi mới (Phụ lục 1) Trong 19 yếu tố thành phần ban đầu được đưa để giải thích cho biến (nhân tố) chuyển giao công nghệ, sau phép trích nhân tố (principal component analysis), đã có 6 yếu tố thành phần dịch chuyển sang giải thích cho biến sự phổ biến của đổi mới. Còn các yếu tố thành phần của biến phổ biến của sự đổi mới và sự đổi mới tổ chức vẫn giải thích cho các biến này như cũ. Kết quả của phân tích nhân tố Post hoc về tổ chức học hỏi và các khía cạnh của sự đổi mới (N = 259) (Phụ lục 2) Trước khi thực hiện phân tích, ta có 43 items chia thành 7 khía cạnh của sự đổi mới, nhưng sau phép phân tích, số khía cạnh đã được nâng lên là 8 yếu tố thành phần (đó là các yếu tố sau : 1, 3, 6, 7, 8, 9, 10 và 11). Trong đó, ta có thể đặt tên cho các yếu tố thành phần này thành các nhân tố như sau: Nhân tố thứ nhất: Có 16 yếu tố thành phần tác động, trong đó thành phần “Yêu cầu đối thoại” và sự điều hành chiếm tỷ trọng chủ yếu, đặc biệt năm yếu tố thuộc thành phần “yêu cầu đối thoại” có hệ số tải cao nhất. Do đó ta đặt tên cho nhân tố này là “Yêu cầu đối thoại”. Nhân tố thứ hai: Có 16 yếu tố thành phần tác động, trong đó yếu tố thuộc thành phần sự ủy quyền và kết nối hệ thống chiếm tỷ trọng chủ yếu, đặc biệt hai yếu tố thuộc thành phần sự ủy quyền và sự điều hành có hệ số tải cao nhất. Do đó ta đặt tên cho nhân tố này là “Ủy quyền và điều hành”. Nhân tố thứ ba và nhân tố thứ tư có cấu trúc yếu tố thành phần giống nhau đều là học tập cá nhân, nên đặt tên cho nhân tố này là “học tập cá nhân”, nhưng do hệ số tải khác nhau, ta chọn nhân tố thứ ba là học tập cá nhân cấp 1 và nhân tố thứ tư là học tập cá nhân cấp 2. Nhân tố thứ năm: Có 1 yếu tố thành phần là làm việc nhóm tác động. Do đó ta đặt tên cho nhân tố này là “Làm việc theo nhóm”. Nhân tố thứ sáu: Có 2 yếu tố thành phần tác động, đó là 2 yếu tố thuộc thành phần “kết nối hệ thống”. Do đó ta đặt tên cho nhân tố này là “kết nối hệ thống”. Nhân tố thứ bảy: Có 2 yếu tố thành phần tác động, đó là 2 yếu tố thuộc thành phần “Hệ thống nhúng” và “làm việc nhóm”. Trong đó biến thuộc thành phần hệ thống nhúng có hệ số tải lớn hơn. Do đó ta đặt tên cho nhân tố này là “Hệ thống nhúng”. Ngoài ra, bảng kết quả còn cho thấy, 32 items của cấu trúc đổi mới đã được đưa vào 3 yếu tố thành phần (đó là yếu tố 2, 4 và 5) mà trước đó, hai yếu tố chuyển giao công nghệ và phổ biến đổi mới nằm trong đổi mới công nghệ thì sau khi thực hiện phép trích Principal Component Analysis, ta thấy 2 yếu tố thành phần này được tách ra riêng biệt cùng với yếu tố đổi mới tổ chức tạo nên 3 nhân tố của cấu trúc đổi mới là : chuyển giao công nghệ, đổi mới tổ chức và sự phổ biến của đổi mới. VI - Những phát hiện mới, hạn chế của đề tài cũng như những đề xuất về những đề tài nghiên cứu mới để giải quyết những hạn chế này Phát hiện mới của đề tài Tóm lại, có thể kết luận rằng việc nghiên cứu đặc biệt này, biến tổ chức học hỏi với 7 khía cạnh của nó để tạo nhiều đóng góp quan trọng đối với việc giải thích sự đổi mới hơn so với 10 nhân tố môi trường sáng tạo trong tổ chức. Tuy nhiên có một số lượng đóng góp đáng kể từ các nhân tố môi trường sáng tạo đối với sự đổi mới, khoảng 35% khi phân tích hồi qui bội được thực hiện riêng lẻ chỉ liên quan đến các nhân tố môi trường. Điều này cho thấy có số lượng chắc chắn là sự sáng tạo trong những người tham gia hiện có đã đóng góp vào sự đổi mới. Sự sáng tạo này chủ yếu phát sinh là do có môi trường thử thách (thách thức) và môi trường của niềm tin và sự cởi mở (tin tưởng) hiện diện trong các công ty. Môi trường của các thách thức và động lực đã cung cấp sự tham gia nhiệt tình của các thành viên trong công ty vào quá trình hoạt động và mục tiêu như những gì Ekvall (1996) đã mô tả. Cho nhân viên cơ hội tìm thấy và giải quyết các vấn đề thách thức và thực hiện các giải pháp, thực chất là phần thưởng cho những thành tích của họ. Môi trường của lòng tin và sự cởi mở tạo nên sự cảm giác an toàn trong mối quan hệ giữa mọi người trong tổ chức dám đưa ra ý tưởng và ý kiến trong sự hiện diện ở mức độ tin tưởng cao (Ekvall,1996). Còn 8 yếu tố còn lại của môi trường sáng tạo (bao gồm : tự do, ý tưởng hỗ trợ, sự năng đông, tính hài hước, cuộc tranh luận, chấp nhận rủi ro, mâu thuẫn và ý tưởng thời gian) thiếu ảnh hưởng đến sự đổi mới trong các tổ chức được lấy làm mẫu, cụ thể là các tổ chức địa phương. Những khía cạnh học hỏi của “hệ thống nhúng”, “ hệ thống kết nối” và “liên tục học tập” cũng được xác định như là khả năng dự đoán cao trong hoạt động đổi mới xảy ra bên trong tổ chức cũng như so với bốn nhân tố học hỏi khác (đó là đối thoại và yêu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNoi dung.doc
  • docBia.doc
  • docMuc luc - TLthamkhao.doc
Tài liệu liên quan