Tiểu luận Phân tích bản trường ca Ô Đi Xê của Home qua đó so sánh với bản trường ca I li át

Hai thiên trường ca “I li át” và “Ô đi xê” đã tạo ra bức tranh rộng lớn phản ánh hiện thực của đời sống Hy Lạp trong giai đoạn chuyển tiếp từ xã hội dã man sang xã hội văn minh. Tuy nhiên ở mỗi tác phẩm, hiện thực có màu sắc lịch sử riêng. Trường ca “I li át” phản ánh cuộc chiến trinh của quân Hy Lạp đi đánh thành Tơ-roa ở tiểu á đó là tái hiện những hoạt động khám phá của người Hy Lạp trên vùng biển E-giê. Thực tế lịch sử của cuộc trinh phạt của nhà nước Misen cuối thế kỷ II đã là cơ sở cho bản anh hùng ca bất tử. Với “Ô đi xê” thì khác, hiện thực bản trường ca này phản ánh là thời kỳ lịch sử Hy Lạp khi mà các cuộc chiến tranh cướp bóc vùng E-giê không còn nữa là người Hy Lạp đã ổn định cuộc sống đang có nhu cầu cần tìm hiểu thế giới xung quanh. Nhu cầu ấy gắn liền với sự phát triển kinh tế, giao lưu mậu dịch, cải tiến công cụ sản xuất, mở rộng đất đai của xã hội đang trên đà phát triển để rời bỏ ngôi nhà chế độ thị tộc sang ngưỡng cửa của thời đại văn minh.

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5307 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích bản trường ca Ô Đi Xê của Home qua đó so sánh với bản trường ca I li át, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA SƯ PHẠM VĂN TIỂU LUẬN GIỮA KỲ Môn: Văn học Phương tây Đề tài: Phân tích bản trường ca “Ô Đi Xê” của Home qua đó so sánh với bản trường ca “I li át” Giảng viên : Lê Nguyên Long Sinh viên thực hiện : Phạm Thu Diệu Lớp : K51-SP-Văn Hà Nội -2007 Nếu đối với “I li át” chúng ta như được sống lại với tuổi thơ thường ham thích những câu chuyện đánh nhau hoang đường kì diệu. Chúng ta như được sống lại với cái không khí chiến trận hư, thực của trí tuệ con người cổ xưa. Đây là những dũng sĩ có sức mạnh siêu phàm, kia là những cuộc giao tranh rung trời chuyển đất, thế giới thần thánh và thế giới con người giao hóa với nhau, thần cũng như người hăng say chiến đấu, hăng say lập chiến công và giúp con người lập nên những chiến công rực rỡ hào hùng. “I li át” một bản anh hùng ca chiến trận - một bản anh hùng ca ngợi sức mạnh và lòng dũng cảm của người anh hùng trong chiến trận: thời ở “Ô đi xê” có một cái gì đó nhẹ nhàng, yên bình ở đây không có tiếng gươm khua, ngựa hí không có cảnh đoàn quân giáp trận sôi sục hận thù. Thế giới thần thánh cũng không còn náo động tất cả, bận tâm đến số mệnh và thắng bại của cuộc chiến tranh của thế giới loài người để rồi xảy ra bất hòa, tranh chấp. ở đây chỉ có An quan tâm đến số phận của Uy-li-xơ và gia đình của chàng mà thôi. Mỗi bản trường ca đều hiện lên một nét đẹp riêng của những người anh hùng, không chờ có sự hăng say, sức mạnh và lòng dũng cảm như A - kintrong“I li át” mà tính chất anh hùng còn thể hiện ở sự thông minh lanh lợi, khéo léo của Uy - li - xơtrong“Ôdi se”. Bởi vậy theo tôi nhận định của nhà phê bình Sinclau b wis khi ông cố gắng đối lập “Ôdissey” và “I li át”. “Hành động của những thiên anh hùng ca nói chung và cụ thể là của những nhân vật anh hùng coi thì có ý nghĩa quyết định trong việc tạo nên sự biến đổi thế giới. Chẳng hạn hành động tham chiến của A chi lees có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của Hilạp và troy, theo một nghĩa nào đấy đối với nhân loại, trong khi ấy sự trở về nhà hoặc không trở về nhà của Uy-li-xơ thì chẳng tạo nên sự biến đổi lớn lao như vậy. Từ đó ông cho rằng tác phẩm Ôdisscy, không có tính chất anh hùng ca”. Điều đó là không đúng. Trước hết, đề tài của “I liat” và “Ô đi xê” đều rút ra từ “truyền thuyết về cuộc chiến tranh thành Tơ roa”, một cuộc chiến tranh có thật xảy ra vào thế kỉ XII trước công nghuyên. Truyền thuyết về cuộc chiến tranh này được hình thành vào thời kì nền văn hóa Mixen suy tàn, và thông qua vai trò của các aet, nó được kết hợp hòa đồng với những chuyện thần thoại làm tăng thêm vẻ đẹp hào hùng của sự kiện lịch sử. Trước Hô me có nhiều bản trường ca nói về cuộc chiến tranh Tơ roa được lưu truyền trong dân gian thành một hệ bài ca, một hệ sử thi mà ngày nay không còn lưu lại. Trường ca của Hô me ra đời trên cơ sở truyền thuyết về cuộc chiến tranh này, đã phản ánh một giai đoạn lịch sử đã qua, oanh liệt và rực rỡ của nền văn hóa Mixen, nền văn hóa đã in dấu bước đường viễn chinh đầy khí phách anh hùng của các bộ lạc Hi Lạp đối với vùng Tiểu á. Bởi thế tính chất anh hùng ca từ nó đã có ở trong hai bản trường ca “I li át” và “Ô đi xê” rồi. Vậy “Ô đi xê” phải là bản anh hùng ca. Khác với “I li át” - bản anh hùng ca chiến trận của thời kì chiến tranh bộ tộc, thời kì chiến tranh là “một phương tiện kiếm lợi thông thường” thì “Ô đi xê” lại là bản anh hùng ca của cuộc sống hòa bình phản ánh thời kì người Hi lạp đã ổn định và đem hết tâm sức của mình ra để xây dựng một cuộc sống hòa bình, hạnh phúc. Với cùng chung nguồn gốc đề tài, nhà thơ có dụng ý để cho “Ô đi xê” như là một sự tiếp nối của “I li át”. Bởi chủ đề của tác phẩm là “sự trở về” quê hương của Uy-li-xơ sau 10 năm tham gia chiến tranh thành Tơ roa. Chủ đề ấy được tác giả giới thiệu qua những câu mở đầu của bản trường ca. “Hỡi các nữ thi thần, hãy ca lên về người anh hùng mưu trí, sau khi dùng mưu kế triệt hạ thành Tơ Roa thiêng liêng, đã đi phiêu bạt nhiều nơi đặt chân lên nhiều đô thị của nhiều giống người và am hiểu trí tuệ của họ, về người anh hùng đã trải qua với bao lo âu trên bao biển cả để chiến đấu cho sự sống còn của mình và đưa những người bạn đồng hành trở về… Hỡi các nữ thần con gái của Rơt, xin hãy kể cho chúng tôi nghe một trong những chiến công của chàng”. Ngay mở đầu bản trường ca ta đã nhận thấy rằng Uy-li-xơ là một người anh hùng thực thụ. Chàng không những chiến thắng trên chiến trường Tơ roa mà chàng còn chiến thắng, chinh phục tất cả những mảnh đất mà chàng đặt chân tới. Điều đó chẳng phải là sự thay đổi lịch sử ư? Phải chăng chính sự thông minh mưu trí của Uy-li-xơ mà các vùng đất có thể chưa từng biết đến của người Hi Lạp cổ đại dần được khám phá. Hành động đó có thể coi là hành động của một người anh hùng. Con đường hồi hương của Uy-li-xơ đầy gian khổ hiểm nguy. Tuy nhiên với trí tuệ sánh ngang thần Dớt của Uy-li-xơ và sức mạnh lý tưởng, đó là lòng yêu quê hương, yêu gia đình tha thiết. Đó là mối tình chung thủy sắt son với quê hương, với gia đình vợ con Uy-li-xơ đã tự hào kể cho An - ki - nô- ốt; “Nhà tôi ở I-ta-cô như một tổ chim nằm dưới chân núi Nê ri tơ rừng cây xào xạc, có hình thể đẹp đẽ. Chung quanh là những hòn đảo Đu - lu - ki ông và Xa mê và đảo Dăng-tơ rừng cây rậm rạp quây quần… Dẫu có được lầu son gác tía nhưng sống chung với những người không quen biết, xa quê hương, xa họ hàng thân thiết thì cũng chẳng sung sướng nỗi gì… (IX, 20 - 35). - “Ô đi xê”. Tình yêu quê hương, gia đình, lòng thủy chung của người anh hùng mưu kế thật là đáng khâm phục. Suốt bảy năm trời bị nữ thần Ca- líp - xô con của thần At-Lát giam giữ dụ dỗ song Uy-li-xơ vẫn không sao quên được gia đình quê hương. Mặc cho đảo Ô - Ghi - Đi là nơi đất lành cảnh đẹp. Ca líp xơ là nữ thần bất tử, trẻ đẹp suốt đời thiết tha yêu mến chàng và muốn cùng chàng kết duyên trăm năm nhưng Uy-li-xơ vẫn trước sau như một chỉ muốn trở về quê hương, gia đình, chỉ mong muốn có một ngày kia được nhìn thấy những làn khói bốc lên từ mảnh đất quê hương”. Trong những ngày bị nữ thần Ca lip xô giam giữ ở đảo Ô -Ghi - Đi chàng “bỏ mặc cuộc đời êm dịu mất đi trong những than khóc vì không trở lại được quê nhà”. Hình ảnh người anh hùng Uy-li-xơ nhớ quê hương, gia đình day dứt “ngồi trên những tảng ở bờ biển, đăm chiêu nhìn biển khơi không sinh nở mà nước mắt tuôn trào” - quả là cảm động và đẹp đẽ ! Sự thương nhớ quê hương gia đình đã thôi thúc Uy-li-xơ tìm đường trở về quê nhà. Trong suốt cuộc hành trình lênh đênh, phiêu bạt trên mặt biển, sức mạnh của cái “trí tuệ sánh ngang thần Dớt” của Uy-li-xơ biểu hiện ra như một sức mạnh của một ý chí kiên định, một đầu óc sáng suốt, tinh khôn và một nghị lực khác thường. Chính cái sức mạnh của trí tuệ, của ý chí, của nghị lực đó đã thay cho đôi thần mã xăng tốt của Ba li ốt đã thay cho bộ áo giáp, vũ khí và chiếc khiên của thần thợ rèn Hê-pha-i xtốt. Để cho chàng dũng sĩ Uy-li-xơ chiến thắng mọi kẻ thù trong cuộc hành trình trở về quê hương của mình. Chiến công của Uy-li-xơ thoát khỏi hang gã khổng lồ Pô- li- phun là chiến công của trí tuệ của sự khôn ngoan mưu trí - điều mà chúng ta khó có thể tìm thấy trong nhân vật A-Khin. Qua cách đối đãi lúc đầu của Po- Li-Phun, Uy-li-xơ đã đề phòng ngay. Chàng nói dối Po-li-phun thuyền mình bị gió bão làm vỡ, kế đến khi gã khổng lồ bắt hai thủy thủ của Uy-li-xơ ăn thịt thì lòng chàng vừa hoang mang vừa căm tức chỉ muốn nhân lúc hắn ngủ tới đâm chết hắn cho hả dạ. Song giết Po-li-phun làm gì ? Nếu giết Po- li-phun mà tảng đá lớn chặm cửa hang không vần ra được khác nào tự giết mình!. Vấn đề không không phải giết Po-li-phun mà là ra khỏi hang. Nhưng bằng cách nào bài toán thật khó giải. Vậy mà chàng Uy-li-xơ đã làm được. Chàng đã chọc mù mắt tên khổng lồ và rồi nhờ trí thống minh, chàng đã làm được. Trí tuệ của Uy-li-xơ còn giúp chàng vượt qua được những hòn đảo của những nàng tiên Xi-re-nơ. Đây là những nàng tiên nửa người nửa cá ngồi trong một đồng cỏ xung quanh chất đống xương người trắng xóa và da thịt người hôi thối. Xi-re-nơ có tiếng hát mê hồn quyến rũ. Ai nghe được tiếng hát này là lao đầu xuống biển bơi vào đảo, vợ con người ấy sẽ vĩnh viễn không thấy ngày người chồng, người cha thân yêu của mình trở về. Đối với tiếng hát này Uy-li-xơ đã lấy sáp ong gắn vào tai anh em thủy còn mình thì ra lệnh cho anh em trói chặt vào cột buồm, nhờ thế Uy-li-xơ vẫn nghe được tiếng hát tuyệt diệu của Xi-re-nơ. Thuyền Uy-li-xơ đi vào eo biển có hai con quái vật Ka-rit-đo và Xi-ki-la rồi lại đến hòn đảo Tơ-ri-na-kie nơi có những đàn bò, đàn cừu béo mập của Hê-li-ốt. Sau bao nhiêu khó khăn nguy hiểm từ lúc ở thành Tơ-roa trở về, đoàn thuyền của Uy-li-xơ mất dần mất mòn cho đến cuối cùng chỉ còn một mình Uy-li-xơ sống sót và trôi vào đảo Ô-ghi-đi của Ka-líp-xô. Sau 7 năm trời bị giam giữ Uy-li-xơ lại rơi vào cảnh ngộ cũ. Bè của Uy-li-xơ lênh đênh trên biển 17 ngày đến ngày thứ 18 gặp thần Po-đe-đi-ông. Và chiếc bè đã bị thần làm lật “Thần dồn mây và cầm đinh ba đảo lộn biển lên và…” một con sóng to cuộn dâng đổ xuồng Uy-li-xơ …” (V, 314-332). Nữ thần I-nô con gái Cát-mốt thấy cảnh ngộ của Uy-li-xơ động lòng thương bèn biến thấy hải âu bay đậu vào bè Uy-li-xơ và khuyên nhủ. Nữ thần cho Uy-li-xơ một khăn thần để chàng vượt sóng to gió cả vào đất liền nhưng Uy-li-xơ không tin ngay vào lời khuyên nhủ của thần, chàng suy ngĩ “thật bất hạnh cho ta lại một cạm bẫy nữa mà một vị thần nào đã chăng khi bảo ta phải rời bỏ chiếc bè này…” (V. 355 - 375). Và Uy-li-xơ đã bơi hai ngày hai đêm, hai ngày như thế cho đến ngày thứ ba biển yên sóng lặng, khi nữ thần Rạng Đông có những búp tóc xoăn xinh đẹp hiện ra thì cũng là lúc Uy-li-xơ nhìn thấy đất liền. Vậy là hai lần Uy-li-xơ chiến thắng giông tố , chiến thắng thiên nhiên trong một hoàn cảnh đơn độc, cái chết và sự sống chỉ còn ranh giới rất mỏng manh. Thế nhưng những niềm hy vọng mong manh le lói ấy lại trở thành ánh bình minh tươi sáng của chàng. Một nhà văn Pháp Pa-xcan của thế kỷ XVII có nói: “… con người chỉ là một cây sậy bấy yếu nhất của thiên nhiên, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ…”. Quả vậy trước biển khơi mênh mông sóng gió ngút ngàn, Uy-li-xơ chỉ là một cây sậy bấy yếu ớt. Nhưng cây sậy này lại không bị thiên nhiên đè bẹp bởi một lẽ giản dị mà kì diệu: nó là con người, là Uy-li-xơ một cây sậy bấy biết suy nghĩ. Gần 3000 năm trước nhân loại đã chứng minh cái chân lý ấy qua Uy-li-xơ, 3000 năm sau chân lý ấy lại một lần nữa được chứng minh qua Ga-ga-rin, Te-ret-xcova… chiến thắng sự bao la vô cùng vô tận của vũ trụ. Lý trí, nghị lực, đầu óc thông minh sáng suốt và tình cảm tha thiết yêu quê hương, yêu gia đình đã cứu sống Uy-li-xơ trong suốt cuộc hành trình trở về trên mặt biển. Những điều đó khiến Uy-li-xơ một lần nữa chiến thắng trong cuộc chiến tranh cuối cùng với bọn cầu hôn để được đoàn tụ gia đình, xây dựng hạnh phúc khôi phục lại quyền thế và trật tự của mình ở đảo I-ta-cô. Quá trình trở về quê hương Hy lạp của Uy-li-xơ đã trải qua biết bao thăng trầm khổ ải, không phải ai cũng làm được, bởi vậy đó là sự ca ngợi sức mạnh của ý chí và nghị lực của con người trước gian nan hiểm nguy, trắc trở. Bản trường ca đề cao và biểu dương lòng yêu gia đình, yêu quê hương đất nước của Uy-li-xơ coi đó là một lý tưởng thiêng liêng cao quý mà con người cần phải có và cần bảo vệ. Chiến trường ở đây là đại dương mênh mông với sóng cả gió to, với những xứ sở xa lạ đầy sức quyến rũ và nguy hiểm. Chiến công ở đây không phải là trong các cuộc giao đấu đánh ngã được địch thủ, cướp được vũ khí đồng và áo giáp đồng. Chiến công ở đây là con người phải vượt qua được khó khăn nguy hiểm, hoặc cám dỗ trước sức mạnh thiên nhiên để trở về với quê hương, gia đình. Vũ khí ở đây trong cuộc giao đấu này. Con người chỉ có trái tim và khối óc và trước hết là trái tim và khối óc. Uy-li-xơ nhân vật chính của bản trường ca là sự thể hiện tập trung nhất, cao đẹp nhất cái lý tưởng ấy. Quan niệm ấy về chiến công và người anh hùng. Những chiến công với sự mưu trí, đi phiêu bạt khắp góc bể chân trời, chịu nhiều đau khổ nhưng biết nhiều xứ sở xa lạ và cuối cùng được trở về đoàn tụ gia đình ấy đã làm nên một bản anh hùng ca “Ô đi xê” thật tuyệt vời. Qua bản anh hùng ca này còn thể hiện một khát vọng của con người Hy Lạp cổ đại muốn thoát khỏi thời đại dã man để bước vào thời đại văn minh. Nếu trong “I li át” ước mơ và khát vọng đó là chiến trận và chiến công, cướp bóc và chiến lợi phẩm thì trong “Ô đi xê” ước mơ và khát vọng đó là cuộc sống văn minh trong hòa bình và lao động, trong hạnh phúc của cải vật chất dồi dào mà tình nghĩa giữa người với người càng nồng thắm. Đó chẳng phải là sự thay đổi gắn liền với lịch sử dân tộc hay sao? Bởi thế “Ô đi xê” đã trở thành một bản anh hùng ca của nhân loại. Ta hãy nhìn lại dưới góc độ so sánh 2 tác phẩm: Khác với trường ca “I li át” mô tả chiến trận và ca ngợi chiến công của những người anh hùng chiến trận, “Ô đi xê” của Hô me là thiên anh hùng ca thuật lại cuộc hành trình trở về quê hương của Uy-li-xơ và ca ngợi trí tuệ tuyệt vời cũng như nghị lực vô song của người anh hùng trên mặt biển. Thế giới của “I li át” là thế giới của những cuộc hội chiến nơi chiến trường đẫm máu nảy lửa. Thế giới của “Ô đi xê” là mặt biển mênh mông với vô vàn gian nguy hiểm trở và những xứ sở xa lạ đầy bí ẩn. Vì vậy cho nên mục đích của người anh hùng chiến trận là lập nên những chiến công hiển hách để ghi lại công danh muôn thuở và đem lại sự vinh quang cho bộ tộc. Còn mục đích của Uy-li-xơ đó là làm sao vượt qua được hiểm nghèo để trở về quê hương, xum họp với gia đình. Bởi vậy trong suốt 10 năm lênh đênh trên mặt biển, lang thang nơi đất khách quê người, trí tuệ và nghị lực vô song đã giúp cho người anh hùng Uy-li-xơ chiến thắng tất cả mọi thử thách ghê gớm để rồi cuối cùng chàng đã đạt được mục đích cao đẹp của mình. Nhân vật Uy-li-xơ vì thế mang trong mình lý thưởng thẩm mỹ của thời đại và trở thành một hình tượng tuyệt vời, thời kỳ Hy lạp xây dựng cuộc sống hòa bình, mở rộng việc giao lưu đường biển và đi tìm những vùng đất đai mới để giao lưu. Đó là thời kỳ tài năng chiến trận đã được thay thế bằng trí thông minh, kinh nghiệm sống và những hiểu biết thực tế những vùng đất xa lạ mà người anh hùng đã đặt chân đến đã tái hiện lại quá trình: “Di dân của người Hy Lạp sang những vùng Địa Trung Hải” vào thế kỷ thứ VIII TCN như nhà Sử học Ni ki po rốp đã nhận định. Chính điều này làm cho hình tượng Uy-li-xơ trở thành “Hình tượng nhân vật điển hình của thời kỳ Hy Lạp đã trinh phục những đất đai để di dân” (Đại Bách khoa Toàn thư Liên Xô). Hai thiên trường ca “I li át” và “Ô đi xê” đã tạo ra bức tranh rộng lớn phản ánh hiện thực của đời sống Hy Lạp trong giai đoạn chuyển tiếp từ xã hội dã man sang xã hội văn minh. Tuy nhiên ở mỗi tác phẩm, hiện thực có màu sắc lịch sử riêng. Trường ca “I li át” phản ánh cuộc chiến trinh của quân Hy Lạp đi đánh thành Tơ-roa ở tiểu á đó là tái hiện những hoạt động khám phá của người Hy Lạp trên vùng biển E-giê. Thực tế lịch sử của cuộc trinh phạt của nhà nước Misen cuối thế kỷ II đã là cơ sở cho bản anh hùng ca bất tử. Với “Ô đi xê” thì khác, hiện thực bản trường ca này phản ánh là thời kỳ lịch sử Hy Lạp khi mà các cuộc chiến tranh cướp bóc vùng E-giê không còn nữa là người Hy Lạp đã ổn định cuộc sống đang có nhu cầu cần tìm hiểu thế giới xung quanh. Nhu cầu ấy gắn liền với sự phát triển kinh tế, giao lưu mậu dịch, cải tiến công cụ sản xuất, mở rộng đất đai… của xã hội đang trên đà phát triển để rời bỏ ngôi nhà chế độ thị tộc sang ngưỡng cửa của thời đại văn minh. Nêu ở “I li át” bàn đến cơ sở của chế độ sở hữu tài sản thì trong “Ô đi xê” ông nhấn mạnh tới một bước phát triển của vấn đề này. Theo Ni-ki-fô-rốp thì giai đoạn di cư sang những vùng phía tây Địa Trung Hải của người Hi-lạp xảy ra vào thế kỷ thứ 8 TCN. Trường ca “Ô đi xê” đã báo hiệu con đường phát triển ấy và đã dựng lên hình ảnh của những con người tiên phong trong sự nghiệp ấy và tiêu biểu là Uy-li-xơ. Trong khi mô tả cuộc hành trình của Uy-li-xơ từ Tơ-roa trở về đảo I-tác Hô me đã vẽ lên một cách cụ thể đầy đủ bức tranh về Địa Trung Hải ở thời đại ông. Bởi vì nếu cuộc phiêu lưu Me-ne-lát giúp ta biết phía đông Địa Trung Hải thì cuộc phiêu bạt của Uy-li-xơ cho ta biết về phía Tây Địa Trung Hải (theo Vich-to-be-ra) phải chăng trường ca “Ô đi xê” đã phản ánh một sự thực lịch sử hiển nhiên: Người Hi-lạp thời kỳ này đã là chủ vùng Địa Trung Hải trước đó còn nằm trong tay các nhà hàng hải phương Đông như Ai Cập. Phê-ni-xi … Quan hệ xã hội so với “I li át” được biểu hiện trong “Ô đi xê” như một bước phát triển lớn. Bước đầu của sự phân hóa giai cấp trong “I li át” được phản ảnh đầy đủ hơn trong “Ô đi xê”. Trong trường ca “I li át” quyền lực của cá nhân phần nào vẫn còn bị quyền lực tập thể chi phối. Trong “Ô đi xê” mối quan hệ xã hội không hoàn toàn như vậy nữa. Khi trở về xum họp gia đình Uy-li-xơ - nhà vua đảo I-tác, sau khi trưng phạt bọn cầu hôn, chàng đã sai con mình treo cổ 12 nữ tì trong gia đình vì những cô gái này đã tư thông với bọn cầu hôn, cha con Uy-li-xơ còn chừng phạt Me-lăng-xiô kẻ đã tiếp tay cho bọn cầu hôn chống lại chủ, một cách cực kỳ dã man. “Quyền lực ông chủ quyết định tất cả đối với cuộc sống người nô lệ, mạng sống của người bị trị phụ thuộc vào kẻ thống trị”. Và vai trò của người đàn ông đã được đề cao hơn hẳn người phụ nữ và “sự thống trị đầu tiên của giai cấp tương ứng với sự thống trị của người đàn ông với đàn bà” (Ăng ghen). Như vậy cùng với A-kin nhân vật Uy-li-xơ là sự bổ sung tạo nên cai hoàn chỉnh, toàn vẹn của người Hy Lạp thời đại anh hùng có tài năng chiến trận để chiến thắng và có lòng quả cảm mưu trí … để xông pha nơi sóng gió làm giàu cho mình. ở “I li át” nhân vật này cũng đã nổi bật trong hàng tướng lĩnh Hy-Lạp và là “tai họa” của quân Tơ-roa. Nếu A-kin là anh hùng vị tướng, có người mẹ là nữ thần, ở chàng có cái gì đó là siêu nhân thì Uy-li-xơ hoàn toàn là người trần tục, và được Hô-me xây dựng như một con người lý tưởng của Hy-lạp, có khi sẽ là biểu tượng lý tưởng của con người sẽ vươn lên làm chủ tất cả, chiến thắng mọi trở ngại . Chính vì vậy phải đến “Ô đi xê”, nhân vật Uy-li-xơ mới bộc lộ hết cái “trí tuệ sáng tựa thần linh” của mình cũng như những phẩm chất khác của chàng. Với trí tuệ sáng suốt, nghị lực phi thường, lòng dũng cảm cao độ mà Uy-li-xơ - người anh hùng thời đại đã trở về quê hương, xum họp gia đình. Chàng Uy-li-xơ đã chiến thắng tất cả hiểm nguy đở trở về điều này đã làm cho “Ô đi xê” trở thành một bài ca trước hết là để ca ngợi trí tuệ và nghị lực tuyệt vời của một con người trinh phục biển cả, nó còn là bài thơ dào dạt trữ tình mạnh mẽ, thể hiện khát vọng mãnh liệt của con người muốn khám phá trinh phục thế giới của Hy-lạp thời đại Hô-me. Uy-li-xơ không những là người anh hùng đại diện cho trí tuệ, lòng dũng cảm kiên định mà chàng còn là biểu tượng của những tình cảm cao quý đẹp đẽ của người Hy-lap thời Hô-me. Thứ tình cảm cao quý đó là gì? là tình cảm yêu quê hương, tình cảm vợ chồng chung thủy son sắt, lòng hiếu khách, tình thương đối với người nghèo khổ, tình chủ tớ sâu nặng, tình phụ tử … tất cả những tình cảm cao đẹp ấy được thể hiện qua quá trình Uy-li-xơ từ Tơ-roa trở về I-tác và xum họp với gia đình, chàng đã từng đến những nơi cảnh vật và con người quyến rũ mê hồn, nó như một thứ “thuốc lú” làm người ta mất gốc. Nhưng với Uy-li-xơ “chỉ có quê hương là đẹp hơn cả”. Bởi vậy chàng đã vượt qua để đạt được mong ước cao đẹp sâu thẳm trong trái tim mình. Sự kết thúc trong hai trường ca “I li át” và “Ô đi xê” có sự khác biệt. ở “I li át” là sự kết thúc của bản trường ca chiến trận là cảnh đau thương tang tóc, chia lìa, còn kết thúc của “Ô đi xê” là niềm vui, sự xum họp hạnh phúc. Chính ở điểm này đã tạo nên giá trị nhân đạo to lớn cho “Ô đi xê” - Một giá trị nhân đạo mà không phải ở bản trường ca nào cũng có. Khép lại vấn đề bàn luận tôi xin khẳng định một điều rằng “Ô đi xê” là bản trường ca có tính chất anh hùng ca rõ rệt. Nó là bản anh hùng ca về cuộc sống hòa bình, về ước mơ khát vọng cao đẹp của con đường. Bản anh hùng ca ấy sẽ mãi mãi tồn tại với dư âm trong trẻo, với giá trị đích thực vốn có của nó và sẽ không bao giờ bị lớp bụi thời gian làm phai nhạt trong tâm hồn độc giả.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVHDOCS 64.doc