Theo quy định tại hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ xung năm 2001, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, luật ban hành VBQPPL năm 2008 và nghị định chính phủ số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 về kiểm tra xử lí VBQPPL thì chủ thể có thẩm quyền bãi bỏ VBPL khiếm khuyết bao gồm:
- Quốc hội có quyền bãi bỏ VBPL của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Ủy ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền bãi bỏ nghị quyết sai trái của HĐND cấp tỉnh.
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3455 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích các biện pháp xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết và đưa ra những bình luận về từng biện pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I ) ĐẶT VẤN ĐỀ:
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu quản lí xã hội bằng pháp luật ngày càng cao thì yêu cầu với các VBPL được ban hành phải hoàn thiện là điều tất yếu. Vì vậy việc xử lí các VBPL khiếm khuyết càng trở nên quan trọng và cần thiết. Trong bài viết dưới đây tôi xin phân tích các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết và đưa ra những bình luận về từng biện pháp :
II ) GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1) Một số khái niệm:
1.1 khái niệm VBPL
VBPL là những văn bản được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định, chứa đựng ý chí của nhà nước nhằm đạt được mục tiêu quản lí và được nhà nước đảm bảo thực hiện.
1.2 Khái niệm VBPL khiếm khuyết:
VBPL khiếm khuyết được hiểu là văn bản pháp luật “còn thiếu sót, chưa hoàn chỉnh” không đảm bảo về chất lượng mà nhà nước yêu cầu.(giáo trình XDVBPL- trường Đại học Luật Hà Nội, trang 265 ).
1.3 Khái niệm Xử lí VBPL khiếm khuyết:
Xử lí VBPL khiếm khuyết là hoạt động chủa cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền trong việc ra phán quyết đối với những văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Các hình thức xử lí VBPL khiếm khuyết bao gồm: biện pháp hủy bỏ, biện pháp bãi bỏ, đình chỉ thi hành, tạm đình chỉ thi hành, sửa đổi, bổ xung. ( điều 9 luật BHVBQPPL năm 2008)
2) Những khiếm khuyết của VBPL:
Trên cơ sở những yêu cầu về chất lượng của VBPL (yêu cầu về tính hợp hiến, hợp pháp, khả thi… của VBPL), có thể xác định VBPL khiếm khuyết là văn bản có một trong những biểu hiện sau đây:
- Các VBPL không đáp ứng được yêu cầu về chính trị: đó là các VBPL ( chủ yếu là các VBQPPL) có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của đảng. Các VBPL có nội dung không phù hợp với ý chí và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính trị.
- các VBPL không đáp ứng yêu cầu về pháp lí bao gồm:
+ VBPL vi phạm thẩm quyền ban hành: VBPL vi phạm thẩm quyền bao gồm vi phạm thẩm quyền về nội dung và vi phạm thẩm quyền về hình thức:
· VBPL vi phạm thẩm quyền về hình thức là văn bản có tên gọi không đúng theo quy định của pháp luật hiện hành hoặc sử dụng không đúng vai trò của văn bản đối với công việc được giải quyết.
· VBPL vi phạm thẩm quyền về nội dung là văn bản mà chủ thể ban hành sử dụng để giải quyết công việc không thuộc thẩm quyền do pháp luật quy định với chủ thể đó.
+ VBPL có nội dung trái với quy định của pháp luật: là những văn bản có nội dung là những quy phạm hoặc những mệnh lệnh không đúng với pháp luật hiện hành. Các biểu hiện về sự trái pháp luật trong nội dung của VBPL:
· VBPL không viện dẫn hoặc viện dẫn sai những văn bản làm cơ sở pháp lí của văn bản đó.
· Nội dung VBQPPL của cấp dưới trái với nội dung VBQPPL của cấp trên; văn bản hành chính có các quy định mang tính quy phạm trái với các QPPL hiện hành.
· Các VBADPL hoặc các văn bản hành chính có nội dung trái với quy định của VBQPPL.
· Các mệnh lệnh trong văn bản hành chính không đúng với những mệnh lệnh trong văn bản áp dụng pháp luật mà nó tổ chức thực hiện.
+ VBPL có nội dung không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia.
+Văn bản pháp luật có sự vi phạm các quy định về thể thức và thủ tục ban hành biểu hiện:
· VBPL thiếu những đề mục cần thiết hoặc được trình bày các đề mục không đúng quy định của pháp luật.
· VBPL có thể có sự vi phạm về thủ tục trong việc ban hành VBQPPL hoặc không thực hiện những thủ tục là cơ sở để xác định tính hợp pháp cho VBADPL.
- VBPL không đáp ứng được yêu cầu về khoa học bao gồm:
+ VBPL có nội dung không phù hợp với thực trạng và quy luật vận động của đời sống xã hội.
+ VBPL có sự khiếm khuyết về kĩ thuật pháp lí.
3) Các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết:
Pháp luật tuy không có điều khoản nào quy định trực tiếp các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết, tuy nhiên thông qua quy định tại điều 27 nghị định 40/2010/NĐ-CP ngày12/04/2010 về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật và quy định tại điều 9 luật ban hành VBQPPL năm 2008 chúng ta có thể hiểu các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết bao gồm: biện pháp hủy bỏ, biện pháp bãi bỏ, đình chỉ thi hành, tạm đình chỉ thi hành, sửa đổi, bổ xung.
Điều 27 nghị định 40/2010/NĐ-CP quy định: “Các hình thức xử lý văn bản trái pháp luật gồm:
1. Đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản;
2. Hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản.”
Điều 9 luật ban hành VBQPPL năm 2008 quy định: “ Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật” ( đọc luật ban hành VBQPPL năm 2008)
Như vậy theo quy định của pháp luật : dựa vào tính chất, mức độ khiếm khuyết của VBPL và bản chất của mỗi biện pháp xử lí, chủ thể có thẩm quyền lựa chọn một trong các biện pháp dưới đây để xử lí VBPL khiếm khuyết:
3.1) Biện pháp hủy bỏ:
a) Khái niệm:
Hủy bỏ là ra quyết định làm mất hiệu lực cả về trước của một văn bản pháp lí kể từ khi văn bản đó được ban hành.( Đọc từ điển pháp luật- Hành chính Pháp_Việt trang 32)
Hủy bỏ VBPL là hình thức xử lí nhằm phủ nhận hoàn toàn hiệu lực pháp lí của VBPL kể từ thời điểm văn bản đó được ban hành.
b) Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng:
Hủy bỏ là biện pháp xử lí được áp dụng với toàn bộ hoặc một phần VBPL bao gồm cả VBQPPL,VBADPL và văn bản hành chính có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng như: một phần hoặc toàn bộ văn bản đó được ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật từ thời điểm văn bản được ban hành.(khoản 1 điều 29 nghị định 40/2010/NĐ-CP)
Áp dụng biện pháp hủy bỏ toàn bộ văn bản đối với trường hợp văn bản có thể thức và nội dung như văn bản quy phạm pháp luật do người không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành;
Áp dụng biện pháp hủy bỏ một phần VBPL thường là hủy bỏ các quy phạm pháp luật trong văn bản do người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành nhưng không đúng hình thức văn bản theo quy định của pháp luật; các quy phạm pháp luật trong văn bản do người không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành.
c) Hậu quả pháp lí của VBPL bị hủy bỏ:
VBPL bị hủy bỏ sẽ hết hiệu lực pháp luật kể từ khi văn bản đó được quy định là có hiệu lực pháp lí . Điều đó có nghĩa là nhà nước hoàn toàn không thừa nhận giá trị pháp lí của văn bản bị hủy bỏ ở mọi thời điểm, cho dù trên thực tế trước khi bị hủy bỏ nó đã từng được coi là có hiệu lực và có thể đã được thi hành.
Nếu văn bản bị hủy bỏ là VBADPL thì pháp luật còn quy định trách nhiệm bồi thường , bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản theo quy định tại bộ luật Dân sự năm 2005 nếu có thiệt hại xảy ra trên thực tế do việc thực hiện VBADPL trái pháp luật đó. Ngoài ra tại điều 34 nghị định Chính phủ số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 đã quy định cụ thể về việc Xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật, trong đó chủ thể ban hành VBPL khiếm khuyết tùy vào tính chất mức độ còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự.
d) Chủ thể có thẩm quyền hủy bỏ VBPL khiếm khuyết:
Theo quy định tại hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ xung năm 2001, các luạt về tổ chức bộ máy nhà nước, luật ban hành VBQPPL năm 2008 và nghị định chính phủ số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 về kiểm tra xử lí VBQPPL thì chủ thể có thẩm quyền hủy bỏ VBPL khiếm khuyết bao gồm:
- Uỷ ban thường vụ quốc hội có quyền hủy bỏ VBPL của Chính Phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái pháp lệnh, nghị quyết của UBTV Quốc hội;
- Tòa án nhân dân cấp trên có quyền hủy bỏ văn bản áp dụng pháp luật do tòa án nhân dân cấp dưới ban hành nếu có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Tòa án hành chính có quyền hủy bỏ VBADPL của cơ quan hành chính nhà nước trong một số loại việc do pháp luật quy định.
- Cơ quan nhà nước ra quyết định hủy bỏ VBPL khiếm khuyết do chính mình ban hành, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác về chủ thể có thẩm quyền xử lí văn bản đó.
e) Nhận xét:
Hủy bỏ VBPL là một biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết đã được pháp luật quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau, nhìn chung các quy định này khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên trong vấn đề quy định về trách nhiệm của chủ thể ban hành VBPL bị hủy bỏ còn có một số điểm chưa hợp lí đó là: việc quy định trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành VBPL bị hủy bỏ chỉ được xác định với VBADPL. Nếu VBPL bị hủy bỏ là VBQPPL và văn bản hành chính thì pháp luật không quy định về trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn chủa chủ thể ban hành, đây là một điểm bất hợp lí. Trên thực tế khi một văn bản QPPL sai trái được áp dụng vào cuộc sống nó sẽ gây ảnh hưởng xấu trên diện rộng và có thể gây hậu quả nghiêm trọng hơn là một VBADPL chính vì vậy tôi cho rằng cần quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với cả VBQPPL và văn bản hành chính.
3.2 Biện pháp bãi bỏ:
a) Khái niệm:
Bãi bỏ là “ bỏ đi, không thi hành nữa” (Đọc từ điển từ điển tiếng việt thông dụng năm 1995 trang 41)
Bãi bỏ VBPL là hình thức xử lí nhằm chấm dứt hiệu lực pháp lí của một VBPL đang được thi hành trên thực tế kể từ thời điểm văn bản đó bị bãi bỏ.
b) Đối tượng áp dụng và trường hợp áp dụng:
Đối tượng áp dụng biện pháp bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản là các VBQPPL có một trong các dấu hiệu khiếm khuyết đã nêu tại phần 2) ở trên.
Hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản làm căn cứ ban hành văn bản được kiểm tra đã được thay thế bằng văn bản khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, dẫn đến nội dung của văn bản không còn phù hợp với pháp luật hiện hành hoặc tình hình kinh tế - xã hội thay đổi.( khoản 2 điều 29 nghị định Chính phủ 40/2010/NĐ-CP)
c) Hậu quả pháp lí của VBPL bị bãi bỏ:
Văn bản pháp luật bị bãi bỏ chỉ mất hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản xử lí nó có hiệu lực pháp luật. Như vậy pháp luật vẫn thừa nhận giá trị pháp lí của văn bản pháp luật bị bãi bỏ trước khi văn bản xử lí văn bản đó có hiệu lực pháp lí. Do vậy VBPL bị bãi bỏ không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành VBPL sai trái đó.
d) Chủ thể có thẩm quyền bãi bỏ VBPL:
Theo quy định tại hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ xung năm 2001, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, luật ban hành VBQPPL năm 2008 và nghị định chính phủ số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/04/2010 về kiểm tra xử lí VBQPPL thì chủ thể có thẩm quyền bãi bỏ VBPL khiếm khuyết bao gồm:
- Quốc hội có quyền bãi bỏ VBPL của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Ủy ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền bãi bỏ nghị quyết sai trái của HĐND cấp tỉnh.
- Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chỉ thị của UBND và chủ tịch UBND trái với Hiến pháp , luật và các VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên.
- HĐND cấp tỉnh có thẩm quyền bãi bỏ quyết định, chỉ thị của UBND cùng cấp và nghị quyết của HĐND cấp huyện. Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền bãi bỏ những VBPL sai trái của các cơ quan trực thuộc UBND tỉnh và quyết định, chỉ thị của UBND cấp huyện. Đề nghị HĐND cùng cấp xem xét bãi bỏ nghị quyết của HĐND cấp huyện.
- HĐND cấp huyện có quyền bãi bỏ quyết định, chỉ thị của UBND cùng cấp và nghị quyết của HĐND cấp xã. Chủ tịch UBND huyện có quyền bãi bỏ những văn bản sai trái của các cơ quan trực thuộc UBND huyện và quyết định, chỉ thị của UBND cấp xã. Đề nghị HĐND cùng cấp xem xét bãi bỏ nghị quyết của HĐND cấp xã
- Cơ quan nhà nước ra quyết định bãi bỏ VBPL khiếm khuyết do chính mình ban hành, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác về chủ thể có thẩm quyền xử lí văn bản đó.
e) Nhận xét:
Các quy định của pháp luật về bãi bỏ VBPL khiếm khuyết được quy định trong nhiều văn bản pháp luật tuy nhiên chưa có văn bản pháp luật nào quy định một cách đầy đủ và rõ ràng và phân biêt giữa biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ VBPL. Chính vì tình trạng pháp luật quy định chung chung dẫn tới các cơ quan nhà nước khi xử lí VBPL tùy nghi lựa chọn một trong hai biện pháp này thậm chí còn sử dụng chưa nhất quán.Mặc dù tại điều 29 nghị dịnh Chính phủ số 40/2010/NĐ-CP đã có sự tách riêng giữa biện pháp bãi bỏ và hủy bỏ VBPL nhưng mới chỉ nêu được sự khác nhau về trường hợp áp dụng mà thôi. Chính vì vậy tôi mong rằng sẽ sớm có những quy định cụ thể và chi tiết hơn về biện pháp bãi bỏ VBPL để phân biệt với biện pháp hủy bỏ VBPL.
3.3 Biện pháp thay thế:
a) Khái niệm:
Thay thế là dùng một cái mới thay cho một cái cũ.
Thay thế VBPL là dùng một văn bản pháp luật mới thay thế cho một VBPL cũ không còn phù hợp.
b) Trường hợp áp dụng và đối tượng áp dụng:
Biện pháp thay thế được áp dụng với VBPL có dấu hiệu khiếm khuyết( không có vi phạm pháp luật). Thay thế được áp dụng trong trường hợp nội dung của VBPL không còn phù hợp với thực tiễn, không phù hợp với đường lối của Đảng.
c) Hậu quả pháp lí của VBPL bị thay thế:
VBPL bị thay thế hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản mới được ban hành hết hiệu lực.
d) Chủ thể có thẩm quyền thay thế VBPL:
Thẩm quyền thay thế VBPL chỉ thuộc về cơ quan đã ban hành văn bản đó.
e) Nhận xét:
Thay thế là biện pháp xử lí VBPL được sử dụng khá phổ biến hiện nay tuy nhiên pháp luật chưa có một quy định riêng nào về biện pháp này, mà chỉ được quy định cùng các biện pháp khác tại điều 9 luật ban hành VBQPPL 2008.
3.4) Biện pháp đình chỉ thi hành:
a) Khái niệm:
Đình chỉ thi hành là dừng lại không thi hành nữa.
Đình chỉ thi hành VBPL là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định dừng thực hiện, làm mất hiệu lực của VBPL một cách tạm thời
b) Trường hợp áp dụng và đối tượng áp dụng:
Đình chỉ việc thi hành (một phần hoặc toàn bộ văn bản) áp dụng đối với văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Hình thức đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp nội dung trái pháp luật đó nếu chưa được sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ kịp thời và nếu tiếp tục thực hiện thì có thể gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Quyết định đình chỉ việc thi hành VBQPPL phải được đăng Công báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
c) Hậu quả pháp lí của biện pháp đình chỉ thi hành:
Khác với các hình thức xử lý khác, đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản không làm chấm dứt hiệu lực pháp lý của văn bản/quy định bị đình chỉ, mà chỉ làm ngưng hiệu lực pháp lý của nó cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan, người có thẩm quyền. Đây như là một “biện pháp khẩn cấp tạm thời” để làm nhưng hiệu lực pháp lý của các quy định trái pháp luật. Sau khi đình chỉ việc thi hành văn bản, tuỳ theo tính chất, mức độ sai trái của văn bản, cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng một trong các biện pháp xử lý đối với văn bản trái pháp luật.
d) Chủ thể có thẩm quyền đình chỉ thi hành VBPL:
Theo quy định tại Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Nghị định số 40/2010/NĐ-CP thì thẩm quyền đình chỉ VBQPPL của HĐND, UBND được quy định tương đối rộng, cụ thể:
-Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền đình chỉ VBQPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh;
-Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền đình chỉ VBQPPL của UBND cấp tỉnh liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ; Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền đình chỉ VBQPPL của UBND cấp tỉnh liên quan đến lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp hoặc liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực;
- Chủ tịch UBND có thẩm quyền đình chỉ VBQPPL của HĐND, UBND cấp dưới trực tiếp. Như vậy, đối với VBQPPL của UBND thì người có thẩm quyền đình chỉ cũng đồng thời là người có thẩm quyền ra quyết định xử lý văn bản trái pháp luật; còn đối với VBQPPL của HĐND thì người có thẩm quyền đình chỉ (Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND) không có thẩm quyền xử lý văn bản trái pháp luật, mà phải trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (trường hợp người ra quyết định đình chỉ là Thủ tướng Chính phủ), trình HĐND cùng cấp (trường hợp người ra quyết định đình chỉ là Chủ tịch UBND) ra quyết định xử lý.
3.5) Biện pháp tạm đình chỉ thi hành:
a) Đối tượng áp dụng và thường hợp áp dụng:
Tạm đình chỉ thi hành là biện pháp xử lí được áp dụng đối với các VBADPL trong một số trường hợp nhất định.
Các trường hợp áp dụng biện pháp tạm đình chỉ bao gồm:
- Trường hợp thứ nhất:Chủ thể không có thẩm quyền xử lí VBADPL nhưng có cơ sở cho rằng VBPL đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật nên quyết định tạm dừng thi hành để chờ cấp có thẩm quyền xử lí.
- Trường hợp thứ hai: khi có cơ sở cho rằng việc thi hành VBPL có thể gây cản trở hoạt động công quyền thì chủ thể có thẩm quyền quyết định việc tạm dừng thi hành văn bản trong thời gian nhất định để hoạt động công quyền được diễn ra thuận lợi.
b) Hậu quả pháp lí:
VBPL bị tạm đình chỉ làm ngưng hiệu lực pháp lý của nó cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan, người có thẩm quyền.
VBPL bị tạm đình chỉ theo trường hợp thứ nhất hết hiệu lực khi cấp có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ, bãi bỏ; tiếp thục có hiệu lực khi cấp trên có thẩm quyền tuyên bố không bãi bỏ, hủy bỏ văn bản đó.
VBPL bị tạm đình chỉ theo trường hợp hai sẽ tiếp tục có hiệu lực khi người ra quyết định tạm đình chỉ ra văn bản bãi bỏ việc tạm đình chỉ.
c) Nhận xét:
Nhận thấy biện pháp ‘tạm đình chỉ thi hành’ chỉ là một phần của biện ‘pháp đình chỉ thi hành’ vì vậy việc tách riêng hai biện pháp là không hợp lí, nên hợp nhất hai biện pháp để việc áp dụng vào xử lí VBPL thuận tiện hơn.
3.6 biện pháp sửa đổi, bổ xung:
a) Khái niệm:
Sửa đổi VBPL là việc ra văn bản để làm thay đổi một phần nội dung VBPL hiện hành trong khi vẫn giữ nghuyên những nội dung khác.
Bổ xung VBPL là việc ra văn bản để thêm vào nội dung VBPL những quy định mới trong khi vẫn giữ nguyên nội dung vốn có của VBPL đó.
b) Đối tượng và trường hợp áp dụng:
Sửa đổi bổ xung là biện pháp được áp dụng với các VBPL( bao gồm VBQPPL, VBADPL và văn bản hành chính) khi tính chất và mức độ khiếm khuyết của văn bản rất nhỏ.
Biện pháp sửa đổi được áp dụng với VBADPL trong trường hợp tại thời điểm ban hành thì văn bản đó đúng thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung, có nội dung phù hợp với các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, với tình hình kinh tế - xã hội địa phương. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện thì có một số nội dung của văn bản không còn phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên mới được ban hành hoặc không còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và cần phải có quy định khác thay các nội dung không còn phù hợp đó.
Biện pháp bổ sung được áp dụng trong trường hợp VBQPPL phù hợp với VBQPPL có hiệu lực pháp lý cao hơn, phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương, tuy nhiên, nội dung của văn bản chưa đầy đủ, rõ ràng, chưa toàn diện... nên cần thiết phải có quy định thêm để cho việc quy định trong VBQPPL được rõ ràng, toàn diện hơn, hiệu quả thi hành cao hơn.
c) Hậu quả pháp lí:
Sau khi sửa đổi thì văn bản bị sửa đổi vẫn tiếp tục có hiệu lực, chỉ có những điều, khoản bị sửa đổi là hết hiệu lực và được thay bằng các quy định mới của văn bản sửa đổi. Văn bản sửa đổi phải xác định rõ điều, khoản, nội dung trong văn bản bị sửa đổi. Thời điểm có hiệu lực thi hành của văn bản sửa đổi phải đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Một văn bản có thể sửa đổi nhiều VBPL khác nhau.
Khác với hình thức “sửa đổi” là thay một số quy định cũ bằng quy định mới do không còn phù hợp, thì hình thức “bổ sung” không làm mất đi bất cứ quy định nào của văn bản bị bổ sung, mà thêm vào một số quy định cho toàn diện hơn. Chính vì vậy bổ xung không làm mất hiệu lực của VBPL được bổ xung, nhưng nó làm phát sinh hiệu lực của phần bổ xung.
d) Chủ thể có thẩm quyền:
Cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung là cơ quan đã ban hành VBQPPL đó.
e) Nhận xét:
Biện pháp sửa đổi, bổ xung VBPL là một hình thức được áp dụng phổ biến, đây là cách thức được sử dụng chủ yếu cho các VBPL có chứa các QPPL ở dạng điều khoản và có phạm vi tác động rộng. Tuy nhiên trong quy định của pháp luật, khái niệm “sửa đổi” và “bổ sung” thường hay đi liền với nhau, tuy nhiên cần phân biệt khi nào thì dùng khái niệm nào, khi nào có thể dùng cả 2 khái niệm (trường hợp chỉ “sửa đổi”, “bổ sung” hoặc vừa “sửa đổi”, vừa “bổ sung”). Hiện nay pháp luật đã quy định tại luật BHVBQPPL năm 2008 cho phép sử dụng một văn bản để sửa đổi, bổ sung nhiều VBPL khác nhau. Đây là một điểm mới đáng mừng, giúp cho việc sửa đổi, bổ xung VBPL đỡ mất thời gian hơn, giảm kinh phí và những thủ tục không cần thiết.
III) KẾT LUẬN:
Các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết đã góp phần rất lớn vào công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam . Mong rằng trong thời gian tới pháp luật sẽ quy định cụ thể và chi tiết hơn nữa, để các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết có thể phát huy tốt hơn vai trò và ý nghĩa của mình hướng tới một hệ thống pháp luật có tính pháp điển hóa cao.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- q31.doc