Mọi cơ quan nhà nước phải tạo điều kiện thuân lợi cho các đơn vị cơ sở (kinh tế, văn hóa-xã hội.) hoàn thành tốt công việc của mình vì đó chính là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất, trực tiếp phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa - xã hội trực thuộc. VD: đối với những cơ sở kinh tế Nhà nước phải bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp, hướng dẫn về các thủ tục pháp lý. đối với các cơ sở văn hóa - xã hội cần được Nhà nước cung cấp các trang thiết bị cần thiết để hoạt động, tạo những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt động có hiệu quả.
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 22358 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích các đặc điểm của nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong việc vận dụng các nguyên tắc đó trong thực tiễn quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyết các vấn đề của đất nước thông qua các cơ quan nhà nước ở Trung ương hay địa phương tuỳ vào vị trí của mình.
b. Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội
Nhà nước ta tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động có thể tham gia một cách tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Trong các văn bản pháp luật của nhà nước có rất nhiều các quy định liên quan tới vị trí, vai trò, quyền hạn va nghĩa vụ của các tổ chức xã hội trong quản lý hành chính nhà nước nói riêng và quản lý nhà nước nói chung. Điều 9 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) khẳng định: “Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thanh viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”. Các tổ chức xã hội được nhà nước hỗ trợ về vật chất và tinh thần để nhân dân lao động hòan toàn thể hiện được quyền làm chủ của mình thông qua các tổ chức này. Nhân dân lao động thể hiện được sự sáng tạo của mình trong việc quản lý hành chính nhà nước thông qua các tổ chức xã hội, vì thế mà các tổ chức xã hội thu hút đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Đây có thể coi là hình thức hoạt động có ý nghĩa lớn trong việc thúc đẩy và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
c. Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở.
Hoạt động tự quản ở cơ sở trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước của ta từ lâu đã trở thành hoạt động mang tính chất truyền thống. Đây là hoạt động do nhân dân lao động tự thực hiện và chúng có mối liên quan chặt chẽ với các công việc khác của quản lý hành chính nhà nước và quản lý xã hội. Trên thực tế, ở bất kỳ địa phương nào hiện nay đều có hoạt động tự quản bởi lẽ chúng rất gần gũi với đời sống của mỗi công dân như: hoạt động quản lý an ninh trật tự, công tác vệ sinh môi trường, tổ chức đời sống công cộng....Chính trong những hoạt động tự quản này, nhân dân lao động tham gia tích cực, nhiệt tình va cụ thể, bởi vậy, quyền tham gia quản lý hành chính nhà nước và quản lý xã hội thực sự được tôn trọng và đảm bảo thực hiện.
d. Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước.
Điều 53 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) đã quy định công dân có quyền “tham gia quản lý hành chính nhà nước và xã hội, tham gia thao luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Để đảm bảo thực hiện quyền cơ bản này của nhân dân, pháp luật đã quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính nhà nước. Các quyền và nghĩa vụ này của công dân có thể thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội hoặc có thể được chính người dân trực tiếp thực hiện. Sự tham gia trực tiếp đó cũng chính là một hình thức tham gia vào quản lý hành chính nhà nước của nhân dân lao động. Cùng với sự phát triển của xã hội, các quyền và nghĩa vụ của công dân ngày càng được tôn trọng và đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ hơn. Chính vì thế, đây cũng chính là một hình thức quan trọng không thể thiếu để nhân dân lao động có thể phát huy quyền làm chủ của mình đối với nhà nước.
Thực tiễn về tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước của nhân dân:
Người lao động nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà pháp luật quy định có thể tham gia ứng cử vào cơ quan quyền lực nhà nước thông qua con đường bầu cử. Với tư cách là đại biểu Quốc hội, người lao động trực tiếp xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của từng địa phương, trong đó có các vấn đề về quản lý hành chính nhà nước.
Bên cạnh đó, nhân dân lao động có thể tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước khác như toà án, viện kiểm soát… Với tư cách là những cán bộ, công chức, nhân dân lao động sẽ sử dụng một cách trực tiếp quyền lực nhà nước để tiến hành những công việc khác nhau của quản lý hành chính nhà nước thể hiện vai trò làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình.
Ngoài ra, người lao động có thể tham gia gián tiếp vào hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc thực hiện quyền bầu cử để lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước trung ương hay địa phương.
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tập trung dân chủ có tầm quan trọng đặc biệt. Một mặt, nó bảo đảm sự thống nhất ý chí và lợi ích vì những mục đích và nhiệm vụ của toàn xã hội. Và, mặt khác, nó bảo đảm phát huy tính chủ động và sáng tạo của các tổ chức, cá nhân và quần chúng đông đảo trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể, trong những hoàn cảnh và cơ sở cụ thể. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta, vì lẽ đó hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng phải tuân thủ nguyên tắc này. Trên cơ sở nguyên lý chung và nội dung có tính phổ biến của nguyên tắc tập chung dân chủ, cần vận dụng vào tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước tùy theo đặc điểm của những đối tượng quản lý khác nhau (ngành, cấp, lĩnh vực...). Sự quản lý thống nhất của Nhà nước không những không hạn chế mà còn bao hàm và phát huy cao độ tính đa dạng của các ngành, các địa phương, các đơn vị cơ sở. Tính thống nhất ấy còn được tạo thành và giữ vững bởi tính chủ động, sáng tạo và cách mạng của quần chúng nhân dân. Dưới sự quản lý thống nhất và tập trung của Trung ương, Nhà nước phân chia những đơn vị hành chính - lãnh thổ (tỉnh - thành phố, huyện - quận, xã - phường). Nguyên tắc tổ chức đoì hỏi một mặt giữ vững quyền tập trung quản lý những vấn đề cơ bản trong tay Nhà nước ở Trung Ương (Chính phủ, các Bộ); mặt khác, phát huy dân chủ một cách mạnh mẽ, giao đầy đủ quyền và trách nhiệm giải quyết cho cấp nào, nơi nào có điều kiện am hiểu cụ thể nhất.
Sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ là một yêu cầu khách quan của việc “thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” trong điều kiện hiện nay. Những biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện trong năm điểm sau:
a.Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp:
Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân, đó là những cơ quan quyền lực Nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Sau đó, thông qua các cơ quan quyền lực này, các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp được thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. VD: Hội đồng nhân dân có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, phó chủ tịch, và các thành viên khác của ủy ban nhân dân cùng cấp. Bên cạnh đó, cơ quan quyền lực Nhà nước còn có quyền hạn nhất định trong việc sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính cùng cấp. Về hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Phải có những sự phụ thuộc nêu trên mới đảm bảo cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đó cũng chính là bảo đảm yếu tố tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước - cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra.
Tuy nhiên, yếu tố dân chủ vẫn được thể hiện rõ nét thông qua việc cơ quan hành chính nhà nước có quyền chủ động sáng tạo trong quá trình thực hiện Hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực nhà nước. Các cơ quan quyền lực không can thiệp vào hoạt động mà chỉ tạo điều kiện, giúp đỡ, cho ý kiến để các cơ quan hành chính hoàn thành được nhiệm vụ, chức năng của mình.
b.Sự tuân thủ của địa phương đối với Trung ương, của cấp dưới đối với cấp trên:
Muốn đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới, của địa phương thì cần phải tồn tại sự tuân thủ một cách nghiêm túc. Nếu không có sự tuân thủ thực hiện nghiêm túc thì việc buông lỏng sự lãnh đạo, sự quản lý tập trung của trung ương và cấp trên là không tránh khỏi, tiếp đó lại nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Và cần nhấn mạnh rằng sự tuân thủ này fải được thể hiện trên cả hai phương diện: tổ chức & hoạt động. Mặc dù vậy, tuân thủ ở đây không mang tính cứng nhắc, mà nó dựa trên cơ sở pháp luật, tức là chỉ tuân thủ những mệnh lệnh hợp pháp. Trong thực tế, để tránh hiện tượng quan liêu, áp đặt ý chí làm thủ tiêu tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của địa phương và cấp dưới thì cấp trên, trung ương cần lắng nghe, tôn trọng ý kiến, đề xuất của cấp dưới, địa phương.
c.Sự phân cấp quản lý:
Sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả nhất mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước được gọi là sự phân cấp quản lý. Mỗi cấp quản lý có những nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương tiện cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của riêng cấp đó. Trong phạm vi thẩm quyền được giao, mỗi cấp quản lý được quyền tiến hành những công việc nhất định để phát huy sự sáng tạo của mình.
Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ va nó chỉ được thực hiện khi việc phân cấp quản lý đảm bảo những yêu cầu sau đây:
- Việc phân cấp quản lý phải bảo đảm cho Trung ương có quyền quyết định trong những lĩnh vực và những vấn đề quan trọng, chiến lược nhằm phát triển cân đối, hài hòa trong toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của Nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
- Không ngại giao quyền cho các địa phương và đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động tích cực và sáng tạo trong quản lý, bên cạnh đó sẽ tránh được tình trạng Trung ương hay cấp trên quá tải vì các công việc mang tính sự vụ thuộc về chức trách của địa phương và cơ sở.
- Việc phân cấp quản lý phải thật cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định pháp luật. Khi phân cấp quản lý đòi hỏi phải xem xét, đánh giá hết sức kỹ lưỡng để có thể đưa ra những quyết định hợp lý, không mang tính chung chung, tùy tiện. Tất cả các nội dung của việc phân cấp quản lý bao giờ cũng phải được thể hiện trong các văn bản pháp luật của các cấp có thẩm quyền.
d. Sự hướng về cơ sở:
Mọi cơ quan nhà nước phải tạo điều kiện thuân lợi cho các đơn vị cơ sở (kinh tế, văn hóa-xã hội...) hoàn thành tốt công việc của mình vì đó chính là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất, trực tiếp phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa - xã hội trực thuộc. VD: đối với những cơ sở kinh tế Nhà nước phải bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp, hướng dẫn về các thủ tục pháp lý... đối với các cơ sở văn hóa - xã hội cần được Nhà nước cung cấp các trang thiết bị cần thiết để hoạt động, tạo những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt động có hiệu quả.
e. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính ở địa phương:
Các cơ quan hành chính địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều: chiều ngang và chiều dọc. Xét theo chiều ngang là sự phụ thuộc nhất định của các cơ quan hành chính vào các cơ quan quyền lực nhà nước: tức là sự phụ thuộc của ủy ban nhân dân vào hội đồng nhân dân cùng cấp (VD: UBND phải chịu sự giám sát trực tiếp của HĐND...). Xét theo chiều dọc là sự phụ thuộc nhất định của cơ quan hành chính địa phương với các cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp: như giữa UBND cấp tỉnh với Chính phủ, UBND cấp huyện với cấp tỉnh, cấp xã với cấp huyện.
Mỗi chiều phụ thuộc lại có tính chất, chức năng riêng của nó. Chiều phụ thuộc ngang tạo điều kiện giúp cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ cấp trên đã bàn giao. Chiều phụ thuộc dọc là để tập trung quyền lực nhà nước giúp cấp trên chỉ đạo hoạt động cấp dưới, tạo thành một hoạt động thống nhất.
Trong thời gian qua, bộ máy hành chính Nhà nước ta còn quá cồng kềnh, có nhiều khâu trung gian và đầu mối không cần thiết, chức năng và thẩm quyền chưa được xác định thật sự chính xác và hợp lý, các hình thức và phương pháp hoạt động còn nghèo nàn, lạc hậu, đội ngũ cán bộ quản lý non kém, hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính thấp, pháp chế trong quản lý không nghiêm. Vì vậy cần nhấn mạnh rằng, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước theo đúng tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng ta phụ thuộc lớn vào trình độ phát triển kinh tế - chính trị, khoa học - kỹ thuật, nên pháp luật và pháp chế, truyền thống văn hóa lịch sử, trình độ giáo dục của đội ngũ viên chức Nhà nước, ý thức và dân trí của công dân.
4. Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc
Các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam có quyền bình đẳng với nhau trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Nguyên tắc đó được đề cập đến trong cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam… Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”. Và được xác định tại Điều 5 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001): “Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”. Đó là nền móng cho việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc trong quản lý hành chính nhà nước.
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc thể hiện trong công tác đào tạo và sử dụng cán bộ. Nhà nước có các chính sách ưu tiên đối với con em các dân tộc ít người, động viên, khuyến khích về tinh thần để họ tích cực học tập nâng cao trình độ về mọi mặt. Nhà nước bao giờ cũng dành một tỷ lệ nhất định số cán bộ, công chức là người dân tộc trong biên chế các cơ quan nhà nước. Thực tế, trong số đại biểu Quốc hội các khoá, đại biểu là người dân tộc thiểu số luôn chiếm một tỷ lệ nhất định (Quốc hội khoá XI có 79 đại biểu là người dân tộc thiểu số, Quốc hội khoá XII có 87 đại biểu là người dân tộc thiểu số). Nhà nước có chính sách khuyến khích đối với những người tình nguyện phục vụ ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo… Chính sách ưu tiên của Nhà nước trong công tác cán bộ ở khu vực miền núi biên giới và hải đảo còn thể hiện ở việc quy định chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với cán bộ, công chức làm việc ở khu vực này. Điều 10 Pháp lệnh Cán bộ, công chức quy định: “Cán bộ, công chức làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo hoặc làm việc trong các nghành nghề độc hại nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi do Chính phủ quy định”.
Thứ hai, nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc được biểu hiện trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội. Nhà nước luôn quan tâm đến việc đưa ra các giải pháp về kinh tế, văn hoá - xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số như đầu tư xây dựng các công trình quan trọng về kinh tế, quốc phòng để khai thác những tiềm năng kinh tế, xoá bỏ từng bước sự chênh lệch giữa các vùng; đưa ra chính sách đúng đắn đối với những người đi xây dựng vùng kinh tế mới, có kế hoạch và thường xuyên tổ chức điều động phân bố lao động tới các vùng dân tộc thiểu số. Trên thực tế, Nhà nước ta đã có những chính sách đối với phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội, từng bước xoá đói giảm nghèo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số như:
+ Quyết định số 01/2008/QĐ-UBDT ngày 11/01/2008 của Uỷ ban dân tộc về việc phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn thuộc xã khu vực II vào diện đầu tư của chương trình 135 giai đoạn II. Quyết định phê duyệt 3149 thôn đặc biệt khó khăn thuộc 1140 xã khu vực II vào diện hỗ trợ đầu tư của chương trình 135 giai đoạn II. Cũng theo Quyết định, từ nay đến năm 2010, Uỷ ban nhân dân các tỉnh có nhiệm vụ cân đối nguồn vốn bổ sung từ ngân sách Trung ưong để phân bổ cho các thôn bản khó khăn của các xã khu vực II đều được đầu tư theo đúng kế hoạnh và mục tiêu của Chương trình.
+ Theo Quyết định 198/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo sống phân tán ở vùng cao, núi đá, khu vực khó khăn về nguồn nước sinh hoạt sẽ được ngân sách trung ương hỗ trợ 6 triệu đồng/1 hộ để làm nhà ở.
5. Nguyên tắc pháp chế XHCN
Trong quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước sử dụng pháp luật với tính chất là một phương tiện quan trọng để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, phương tiện này chỉ thực sự phát huy vai trò, tác dụng khi nó được tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm chỉnh trên thực tế. Vì vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa với nội dung là sự tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đã trở thành một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước. Điều 12 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước có nghĩa là phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu sau, cụ thể:
a. Trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật: Nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động này đòi hỏi:
- Các văn bản pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước phải được ban hành đúng thẩm quyền. Pháp luật quy định cho mỗi chủ thể quản lý hành chính nhà nước có những thẩm quyền nhất định để giải quyết các công việc khác nhau của quản lý hành chính nhà nước. Yêu cầu này buộc các chủ thể quản lý hành chính khi xem xét và nghiên cứu hệ thống pháp luật hiện hành để xem mình có thẩm quyền quyết định công việc đó hay không. Việc cơ quan, địa phương này giải quyết, can thiệp vào công việc của cơ quan, địa phương khác, ngành này giải quyết công việc của ngành khác, địa phương vi phạm thẩm quyền của trung ương và ngược lại, đều là những việc làm vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước.
- Các văn bản pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước phải có nội dung hợp pháp và thống nhất. Các văn bản dùng để ban hành các quy định áp dụng trong quản lý hành chính nhà nước phải đảm bảo phù hợp với các văn bản pháp luật của chue thể quản lý hành chính nhà nước ở cấp trên và các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp ban hành. Các văn bản dùng để giải quyết các công việc cụ thể của quản lý hành chính nhà nước phải có nội dung phù hợp với pháp luật, hình thành trên cơ sở pháp luật và để thi hành hay chỉ đạo thực hiện pháp luật.
- Các văn bản pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước phải ban hành đúng tên gọi và hình thức được pháp luật quy định. Thực tế, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội thông qua ngày 12/11/1996 đã xác định cụ thể vầ tên gọi và hình thức các loại văn bản quy phạm pháp luật mà các chủ thể coa thẩm quyền được phép ban hành trong hoạt động của mình.
- Các văn bản trong quản lý hành chính nhà nước phải được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
b. Trong hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật
Tổ chức thực hiện pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước thực chất là hoạt động tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật do chủ thể quản lý hành chính nhà nước ban hành. Thông qua các công việc cụ thể mà hoạt động này đảm bảo cho pháp luật trở thành hiện thực trong thực tiễn quản lý hành chính nàh nước. Đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi:
- Triệt để tôn trọng các văn bản pháp luật về thẩm quyền và nội dung ban hành. Tình trạng lạm quyền, không tuân thủ các nghĩa vụ được pháp luật quy định phải được loại trừ khỏi hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
- Hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được thực hiện một cách nghiêm ngặt, theo đúng các quy định của pháp luật, để bảo đảm pháp luật được thi hành một cach nghiêm chỉnh và thống nhất.
- Phải xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước. Các cơ quan như: Cơ quan có thẩm quyền cử phạt vi phạm hành chính, cơ quan làm công tác xét xử… có trách nhiệm phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước.
Trên thực tế, nguyên tắc này đã được ứng dụng, thực hiện khá triệt để cụ thể: trong hoạt động khiếu nại tố cáo, Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14/02/2008 về việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định hành chính liên quan đến hoạt động kinh doanh, đời sống nhân dân.
Nội dung phản ánh kiến nghị là những vướng mắc cụ thể trong thực hiện quy định hành chính do hành vi chậm trễ, gây phiền hà hoặc không thực hiện, thực hiện không đúng quy định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của cán bộ công chức; sự không phù hợp của quy định hành chính với thực tế; sự không đồng bộ, không thống nhất của các quy định hành chính... hoặc các sáng kiến ban hành mới quy định hành chính liên quan đến hoạt động kinh doanh, đời sống nhân dân.
Các phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính được thực hiện thông qua một trong ba hình thức: Văn bản, điện thoại, phiếu lấy ý kiến.
Cơ quan tiếp nhận phản ánh, kiến nghị (Văn phòng Chính phủ, Văn phòng các Bộ, Văn phòng UBND cấp tỉnh) bố trí cán bộ, công chức hoặc bộ phận thực hiện, đồng thời lắp đặt số điện thoại chuyên dùng, kết nối mạng máy tính điện tử và thiết lập địa chỉ website, email tiếp nhận phản ánh, kiến nghị.
Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm công khai địa chỉ cơ quan, địa chỉ thư tín, số điện thoại chuyên dùng... thực hiện việc tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ (Website Chính phủ) hoặc Trang tin điện tử do Thủ tướng chính phủ chỉ định. Tương tự như vậy, Văn phòng các Bộ, Văn phòng UBND cấp tỉnh có trách nhiệm công khai địa chỉ cơ quan, địa chỉ thư tín... trên Cổng thông tin điện tử, Trang tin điện tử của Bộ, cơ quan mình và niêm yết công khai tại trụ sở các cơ quan hành chính trực thuộc.
Các phản ánh, kiến nghị phải được các cơ quan chức năng liên quan giải quyết dứt điểm, công khai, minh bạch, hợp lý. Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm tổ chức công khai kết quả xử lý phản ánh, kiến nghị qua các hình thức: Đăng tải trên Cổng thông tin hoặc Trang tin điện tử của cơ quan; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; gửi công văn thông báo cho cá nhân, tổ chức có phản ánh, kiến nghị.
Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính liên quan đến hoạt động, kinh doanh, đời sống nhân dân.
PHẦN HAI:
CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC - KỸ THUẬT
LÝ LUẬN VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỂ VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
6. Nguyên tắc quản lí theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương.
Ngành là một phạm trù chỉ tổng thể những đơn vị, tổ chức sản xuất – kinh doanh có cùng cơ cấu kinh tế - kĩ thuật hay các tổ chức, đơn vị hoạt động với mucjh đích giống nhau. Ngoài ra, ngành là một “hệ thống cơ quan Nhà nước từ trung ương tới địa phương”.
Cùng với sự phát triển của xã hội là việc chuyên môn hóa các hoạt động của con người trong đời sống xã hội. Đây là cơ sở kết quả của việc phân chia các hoạt động của xã hội thành các ngành khác nhau.
Có sự phân chia lĩnh vực hoạt động của xã hội thành các ngành tất yếu dẫn đến việc thực hiện hoạt động quản lý theo nhành.
- Quản lý theo ngành là hoạt động quản lý các đơn vị, tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội có cùng cơ cấu kinh tế - kĩ thuật hoặc hoạt động với mục đích giông nhau nhằm làm cho hoạt động các tổ chức, đơn vị này phát triển một cách đồng bộ, nhịp nhàng, đáp ứng được yêu cầu của nhà nước và xã hội.
Trong điều kiện khối lượng các công việc quản lý ngành cùng chiều và mang tính phức tạp thì đòi hỏi sự chuyên môn hóa khác nhau của các chủ thể trong hoạt động quản lý ngành. Chính điều này làm nảy sinh nhu cầu quản lý theo chức năng (quản lý theo lĩnh vực)
- Quản lý theo chức năng là quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn nhất định của quản lý hành chính nhà nước như kế hoạch, tài chính, giá cả, khoa học, công nghệ, lao động, nội vụ, quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế, tổ chức và công vụ.
Cơ quan quản lý theo chức năng là cơ quan quản lý một lĩnh vực chuyên môn hay một nhóm lĩnh vực chuyên môn có liên quan với nhau.
Hoạt động quản lý theo ngành và theo chức năng được thực hiện với các hình thức và quy mô khác nhau, có thể trên phạm vi toàn quốc, trên từng địa phương, hay vùng lãnh thổ.
Tổ chức đứng ra thực hiện quản lý theo ngành và theo chức năng là các Bộ, cơ quan nganh Bộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích các đặc điểm của nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong việc vận dụng các nguyê.doc