MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương I: : Phân tích cam kết của Việt Nam với WTO về dịch vụ phân phối.
1.1. Nội dung cam kết của Việt Nam đối với ngành dịch vụ phân phối khi gia nhập WTO.
1.1.1. Cam kết chung của ngành dịch vụ.
1.1.2. Cam kết của ngành dịch vụ phân phối.
1.1.2.1. Các mặt hàng nước ngoài được phép phân phối tại Việt Nam
1.1.2.2. Phân phối qua mạng hoặc dưới các hình thức thương mại điện tử khác.
1.1.2.3. Góp vốn trong liên doanh và thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
1.1.2.4. Kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT).
1.1.2.5. Dịch vụ nhượng quyền thương mại.
1.2. Đánh giá nội dung cam kết
Chương 2: Đánh giá tác động của việc thực hiện cam kết với ngành dịch vụ phân phối của nước ta.
2.1. Ngành dịch vụ phân phối của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO.
2.1.1. Thời kì trước khi gia nhập WTO.
2.1.2. Thời kì sau khi gia nhập WTO.
2.2. Đánh giá tác động của việc thực hiện những cam kết khi gia nhập.
Chương 3: Kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển ngành dịch vụ phân phối trong điều kiện hội nhập.
3.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước.
3.2. Đối với doanh nghiệp.
C. KẾT LUẬN
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3194 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích cam kết của Việt Nam với WTO về dịch vụ phân phối và đánh giá tác động của những cam kết này với dịch vụ phân phối ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền cho tất cả các mặt hàng thuộc danh mục hạn chế có lộ trình.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phân phối (thông qua dịch vụ đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ) máy kéo, phương tiện cơ giới, ô tô con và xe máy.
Kể từ ngày 11/1/2010, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam.
1.1.2.2. Phân phối qua mạng hoặc dưới các hình thức thương mại điện tử khác
Ngoài ra, ta cũng cho phép việc bán hàng qua mạng từ nước ngoài vào Việt Nam, việc bán hàng này liên quan tới việc phân phối qua phương thức 1 (cung cấp qua biên giới). Việc phân phối qua phương thức này có thể được thực hiện dưới dạng mua, bán hàng hóa qua mạng hoặc đặt hàng qua thư. Tuy nhiên, đối với phương thức này, ta chỉ cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài được bán các loại hàng hoá sau:
- Các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân;
- Các chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc vì mục đích thương mại.
- Đối với các sản phẩm khác, việc bán hàng qua mạng sẽ tuân thủ các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
Phân phối qua mạng hoặc các hình thức thương mại điện tử khác được coi là cung cấp dịch vụ qua biên giới nếu như bên cung cấp dịch vụ và bên nhận dịch vụ không ở trong cùng một quốc gia.
Cam kết chỉ áp dụng đối với việc nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bán hàng từ nước ngoài vào Việt Nam thông qua mạng Internet hoặc các hình thức thương mại điện tử khác. Trong trường hợp này, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vẫn ở tại nước ngoài, không di chuyển vào Việt Nam để thành lập hiện diện thươngmại như chi nhánh hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.2.3. Góp vốn trong liên doanh và thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Theo nội dung cam kết, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được thành lập liên doanh với tỷ lệ góp vốn của phía nước ngoài không vượt quá 49% ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Đến 1/1/2008, họ được quyền tham gia vốn trong liên doanh ở bất kỳ tỷ lệ nào nhỏ hơn 100%. Đến 1/1/2009, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được phép thành lập.
1.1.2.4. Kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT).
Theo cam kết, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài sẽ được thành lập một cơ sở bán lẻ tại Việt Nam. Để thành lập cơ sở bán lẻ từ thứ hai trở đi (ngoài cơ sở thứ nhất), họ phải xin phép cơ quan có thẩm quyền. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào một số tiêu chí như số lượng các nhà cung cấp dịch vụ đang hiện diện tại một khu vực địa lý, sự ổn định của thị trường và quy mô địa lý để quyết định có cho phép mở thêm điểm bán lẻ hay không.
Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài và công ty có vốn góp của nước ngoài dưới hình thức mua cổ phần. Do vậy, nếu doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực phân phối bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, họ có thể bị coi là nhà cung cấp dịch vụ có yếu tố nước ngoài và phải chịu hạn chế về kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT) dù trước khi bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp không bị ràng buộc bởi hạn chế này.
1.1.2.5. Dịch vụ nhượng quyền thương mại.
Theo nội dung cam kết, ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài sẽ được phép thành lập liên doanh với tỷ lệ góp vốn của nước ngoài không vượt quá 49%. Đến 01/01/2008, họ được phép góp vốn vào công ty liên doanh với tỷ lệ bất kỳ và tới 01/01/2009 sẽ được quyền thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để hoạt động trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại. Điểm đáng lưu ý là các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài còn được phép thành lập chi nhánh để cung cấp dịch vụ nhượng quyền thương mại từ ngày 1/1/2010 với điều kiện trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam. Danh mục các mặt hàng hạn chế tạm thời không áp dụng đối với lĩnh vực nhượng quyền thương mại. Danh mục các mặt hàng hạn chế lâu dài vẫn được áp dụng.
1.2. Đánh giá nội dung cam kết
Cam kết của ta trong WTO là phù hợp với định hướng phát triển ngành phân phối và thậm chí còn chặt hơn thực tiễn mở cửa ngành dịch vụ này ở trong nước.
Trước khi gia nhập WTO, trên thực tế ta đã cho phép các doanh nghiệp phân phối nước ngoài được thiết lập liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ta đã cho phép một số tập đoàn phân phối lớn thành lập siêu thị 100% vốn nước ngoài và mở hàng loạt các siêu thị tại các tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Tới cuối năm 2006 trên thị trường Việt Nam đã xuất hiện nhiều tập đoàn phân phối lớn của thế giới như: Metro Cash & Carry (Đức) với 6 siêu thị hoạt động tại TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ. BigC có các siêu thị đang hoạt động tại TP.HCM, Hà Nội và Hải Phòng. Tập đoàn bán lẻ Parkson (Malaysia) ở TP.HCM. Bên cạnh đó, Tập đoàn Dairy Farm (Singapore) cũng nộp đơn xin thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, Lotte (Hàn Quốc) cũng vào VN thông qua hình thức liên doanh.
Khi ta gia nhập WTO, các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp phép trước đó (kể cả các doanh nghiệp, siêu thị 100% vốn đầu tư nước ngoài) sẽ tiếp tục được hoạt động với các điều kiện như đã quy định trong giấy phép. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ phải tuân thủ các cam kết trong WTO đối với dịch vụ phân phối. Điều đó cũng là một bước đảm bảo cho các doanh nghiệp trong nước trong quá trình hội nhập.
Cam kết mang tính bảo hộ thị trường dịch vụ phân phối trong nước:
Việc hạn chế các mặt hàng được phân phối nhằm bảo đảm an nình quốc gia cũng như an toàn trong nước. Nhưng việc hạn chế các mặt hàng như dược phẩm, dầu thô, gạo cho thấy một phần bảo hộ của nhà nước. Đây là những nhóm ngành thiết yếu của nền hinh tế xã hội, việc hạn chế phân phối như trong cam kết đảm bảo việc nhà nước quản lý và điều tiết được dòng sản phẩm này trên thị trường.
Xét trong ngắn hạn, việc hạn chế có một số mặt hàng trong ngắn hạn, bao gồm các sản phẩm công nghiệp, một phần nhằm tạo thời gian cho các doanh nghiệp trong nước có bước phát triển, chuẩn bị đương đầu với thách thức khi mở cửa toàn bộ thị trường.
Việc thực hiện các quy định của ENT thực chất đã hạn chế một phần lớn việc xâm nhập thị trường của các doanh nghiệp phân phối nước ngoài. Bơi việc thực hiện đầy đủ các quy định của nhà nước để mở đại lý tiếp theo rất phức tạp. Hơn nữa, việc có mở hay không không phụ thuộc vào cơ chế thị trường, mà phụ thuộc vào quyết định của cơ quan chủ quản.
Chương 2:
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN CAM KẾT VỚI NGÀNH DỊCH VỤ PHÂN PHỐI CỦA NƯỚC TA.
2.1. Ngành dịch vụ phân phối của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO.
Thời kì trước khi gia nhập WTO.
Theo số liệu của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương), trong giai đoạn 2001-2005 doanh thu bán lẻ thị trường Việt Nam tăng bình quân 18%/năm, cao gấp khoảng 2 lần so với mức tăng trưởng bình quân GDP cùng kỳ. Tuy nhiên, hệ thống phân phối của ta vẫn chưa phất triển và còn thô sơ. Theo số liệu thống kê tại thời điểm cuối năm 2006 thì hàng hóa đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối hiện đại(trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn..) mới chỉ chiếm khoảng 10%, 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng. Chúng ta có thể thấy sự yếu kém trong dịch vụ phân phối của Việt Nam như sau:
Chất lượng dịch vụ thấp hạn chế sức cạnh tranh
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng chất lượng dịch vụ của Việt Nam còn thấp. Chiến lược cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ trong hầu hết các lĩnh vực dịch vụ chủ yếu dựa vào giá thay vì chất lượng dịch vụ. Rào cản chủ yếu của việc cung cấp dịch vụ chất lượng ở Việt Nam là sự hiểu biết hạn chế của khách hàng về các yếu tố tạo thành chất lượng dịch vụ và lợi thế cạnh tranh có được từ việc mua các dịch vụ chất lượng.
Trong lĩnh vực dịch vụ phân phối, việc tiêu thụ những mặt hàng sản xuất được trong nước còn rất khó khăn, chưa giải phóng được năng lực sản xuất. Sự hạn chế về tiêu thụ hàng Việt Nam cũng do chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam còn khá lạc hậu, thô sơ và yếu kém.
Cũng tương tự như việc hình thành tác phong công nghiệp, trong lĩnh vực dịch vụ phân phối, Việt Nam còn điểm yếu ở thái độ phục vụ, văn minh thương nghiệp. Việc chuyển biến dần từ hình thức phân phối truyền thống sang hiện đại không chỉ gói gọn ở việc hình thành các cơ sở hạ tầng thương mại mà còn ở thái độ, tư duy của người bán, người phục vụ, chính sách bán hàng, sự trung thực, uy tín trong mua bán…
Chưa tạo đà cho khu vực sản xuất.
Mặc dù khu vực dịch vụ của Việt Nam đang trở thành một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế, tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP vẫn khiêm tốn và ít thay đổi trong gần một thập kỷ qua. Hiện nay, lĩnh vực dịch vụ chiếm 38-39% GDP, thấp hơn tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP của nhiều nền kinh tế đang chuyển đổi và các nền kinh tế ở Đông Nam Á (cụ thể là Singapore, Phi-lip-pin, Thái Lan, Cam-pu-chia, Malaysia và In-đô-nê-xia).
Trong khu vực dịch vụ, các dịch vụ phục vụ nhu cầu cuối cùng như dịch vụ phân phối, khách sạn và nhà hàng, du lịch chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và tổng lực lượng lao động. Ngược lại, các dịch vụ trung gian có giá trị gia tăng cao và đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế chưa được phát triển đúng mức và chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Hơn nữa, dịch vụ phân phối mới tiếp cận theo hướng đáp ứng nhu cầu thị trường, chưa tạo đươc việc gợi mở tiêu dùng cho khách hàng, thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm thúc đẩy sản xuất.
Tình hình trên đây cho thấy những yếu kém xét cả từ phía doanh nghiệp và Nhà nước, từ góc độ chiến lược kinh doanh và môi trường kinh doanh. Đây là một trong những dấu hiệu “cảnh báo”, nếu không có những giải pháp tăng cường hiệu quả hơn, nền kinh tế Việt Nam vẫn có nguy cơ tiếp tục bị tụt hậu xa hơn và ảnh hưởng đến phát triển bền vững trong dài hạn.
Thời kì sau khi gia nhập WTO.
Sau hơn 3 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực phân phối nói chung và lĩnh vực bán lẻ nói riêng. Tuy là một thị trường quy mô nhỏ nhưng lại có tốc độ phát triển nhanh, tiềm năng lớn, chính trị ổn định, cơ cấu dân số trẻ, Việt Nam có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Đến hết năm 2009, Việt Nam có 446 siêu thị (tăng 62 siêu thị so với năm 2008) trong đó doanh nghiệp FDI có 21 siêu thị, doanh nghiệp trong nước có 425 siêu thị (Doanh thu FDI bán lẻ chỉ chiếm 4-5% doanh thu bản lẻ toàn quốc). Nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu của nước ngoài như Metro Cash & Carry (Đức), Big C của Bourbon (Pháp), Parkson thuộc tập đoàn Lion (Malaysia), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Lotte (Hàn Quốc)... đã có mặt ở nước ta. Mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam liên tục tăng cao qua các thời kỳ: 1996-2000: 10,75%/năm, 2001-2005: 18,3%, 2006-2008: 25%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội 6 tháng đầu năm 2010 đạt 747,4 nghìn tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2009. Đồng thời, Việt Nam liên tục được xếp thứ hạng cao về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ (GRDI). Theo A.T. Kearney (hãng tư vấn Mỹ), năm 2007 Việt Nam xếp thứ 4/7 nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, năm 2008 vượt lên đứng đầu.
Việt Nam được coi là một trong những thị trường nhiều tiềm năng nhất đối với các nhà đầu tư trên thế giới về phân phối, đặc biệt là bán lẻ. Việt Nam đứng thứ 6 trong bảng xếp loại Chỉ số Phát triển bán lẻ toàn cầu 2009 của A.T. Kearney (GRDI). Nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đều chung một nhận định Việt Nam là một thị trường phát triển nhanh nhất trong khu vực châu Á, có sức hấp dẫn cao; với quy mô thị trường tương đối lớn và còn nhiều dư địa để khai thác, đang được định vị là điểm đến chiến lược trong con mắt các nhà đầu tư quốc tế trong lĩnh vực phát triển chuỗi cung ứng toàn cầu.
Hệ thống bán lẻ là huyết mạch lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế, vậy thực tế 3 năm sau khi gia nhập WTO của hệ thống bán lẻ ở VN như sau:
Các doanh nghiệp nước ngoài.
- Nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Metro, Big C, Parkson, Lotte Mart…đã xin phép mở các siêu thị bán buôn, bán lẻ ở Việt nam, trước khi Việt nam gia nhập WTO. Các doanh nghiệp này đều phát triển thành chuỗi các siêu thị, Parkson có chuỗi 4 siêu thị tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng; Big C có chuỗi 10 siêu thị tại Việt nam (kể cả Big C ở Vinh sắp khai trương). Lotte chuẩn bị khai trương siêu thị thứ 2 tại thành phố Hồ Chí Minh. Các doanh nghiệp nước ngoài có thể phát triển thành chuỗi siêu thị theo nhiều cách khác nhau: Sau khi mở điểm bán lẻ thứ nhất, xin phép mở chi nhánh ở một thành phố khác, hoặc liên doanh với một doanh nghiệp Việt nam với tỷ lệ góp vốn dưới 49% sau đó mua mại cổ phần của doanh nghiệp Việt nam để trở thành doanh nghiệp có đa số vốn đầu tư nước ngoài. Hầu hết các siêu thị này đều được cấp phép trước ngày 1/1//2009, sau ngày 1/1/2009 chưa có thêm doanh nghiệp nước ngoài nào vào Việt nam, nguyên nhân do:
+ Tại thời điểm này do suy thoái kinh tế toàn cầu các doanh nghiệp nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn chưa phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
+ Việt nam chỉ cho phép mở một điểm bán hàng, từ điểm thứ 2 phải thoả mãn ENT mà các doanh nghiệp nước ngoài cho rằng phải được phép mở một chuỗi các điểm bán hàng mới mở rộng được kinh doanh và có lãi.
+ Thủ tục hành chính, đặc biệt thủ tục cấp phép của Việt nam còn phức tạp, các tiêu chí của ENT còn chưa cụ thể, có thể giải thích theo nhiều cách khác nhau, phụ thuộc nhiều vào chủ quan của cơ quan cấp phép. Điều kiện tìm mặt bằng kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, chi phí thuê mặt bằng ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí minh, Hà nội còn cao.
- Các siêu thị của doanh nghiệp nước ngoài tập trung ở các thành phố lớn như Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng, Đà nẵng, Cần thơ, Biên hoà, chiếm từ 3-5% doanh thu bán lẻ của thành phố. Hầu hết các siêu thị có quy mô lớn, mặt bằng kinh doanh trên 10 ngàn m2, siêu thị Big C Đồng nai, năm 2009 doanh thu là 594 tỷ VNĐ thu hút 8.000 lượt khách hàng, đáp ứng nhu cầu cho tập khách hàng có mức thu nhập trung bình và cao.
- Các siêu thị của các doanh nghiệp nước ngoài có đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là hệ thống logistics, hệ thống tin học, Metro đã chi 20-25 triệu euro trang bị cho hệ thống kho lạnh, xe chuyên dụng, thiết bị kiểm tra, bảo quản hàng hóa theo tiêu chuẩn, chi gần 800.000 euro cho huấn luyện.
- Các siêu thị nước ngoài có hệ thống cung cấp hàng hóa đa dạng, đặc biệt là hàng nhập khẩu(do hệ thống siêu thị nước ngoài cung cấp), siêu thị Lotte Mart Thành phố Hồ Chí Minh có trên 20 ngàn mặt hàng kinh doanh, đồng thời áp dụng kỹ thuật kinh doanh hiện đại, có các chương trình khuyến mại, bán hàng độc đáo để thu hút khách hàng, có hệ thống quản lý bán hàng tốt giảm được lượng hàng mất và hàng tồn kho. Tuy nhiên một số siêu thị còn vi phạm các quy định của nhà nước về mặt hàng kinh doanh như rựơu, thuốc lá, gạo ( rươu, thuốc lá theo cam kết doanh nghiệp nước ngoài không được phép kinh doanh muốn kinh doanh phải có giấy phép riêng, bán gạo phải mua gạo từ một doanh nghiệp nhà nước).
Các doanh nghiệp trong nước.
- Các đơn vị trong nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần, các doanh nghiệp tư nhân và hộ cá thể, kinh doanh theo hình thức siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng bách hoá, cửa hàng tiện ích, ki ốt bán hàng, chợ truyền thống và bao phủ trong toàn quốc, siêu thị của các doanh nghiệp trong nước không những phân bố ở các thành phố lớn trực thuộc trung ương, mà còn ở các thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh đáp ứng cho toàn bộ các tập khách hàng, không những làm nhiệm vụ kinh doanh mà còn làm nhiệm vụ chính trị như chương trình bình ổn giá, chương trình phục vụ miền núi…
- Hệ thống phân phối trong nước đã có sự chuẩn bị cho quá trình mở cửa và được phát triển mạnh mẽ. Ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006 có 73 siêu thị, năm 2008 là 81 siêu thị, tỷ lệ siêu thị hạng 1 tăng từ 48% lên 50,6%, siêu thị hạng 2 tăng từ 22% lên 25,9%, siêu thị hạng 3 giẩm từ 30% xuống còn 23,5%; Tỷ lệ Trung tân thương mại hạng 1 tăng từ 105 lên 13%, hạng 2 tăng từ 10% lên 13%, hạng 3 giảm từ 81% xuống còn 74%. Có nhiều chuỗi siêu thị có uy tín như Coop. Mart, Hpro, Phú thái, Satra, Maximark.., Coop. Mart có 45 siêu thị trong toàn quốc.
- Các siêu thị trong nước thường có quy mô không lớn, siêu thị Coop. Mart Biên hoà, năm 2009 có doanh thu 206 tỷ VND, thu hút 1.500 lượt khách hàng [5], nhưng chiếm những vị trí trung tâm, gần khu dân cư, thuận lợi thương mại và giao thông, am hiểu thói quen mua hàng của người Việt nam do đó có khả năng cạnh tranh. Theo số liệu điều tra người tiên dùng thực phẩm 2008, AGROINFO, chuỗi siêu thi Coop. Mart được người tiêu dùng đánh giá cao về các tiêu chí giá cả cạnh tranh, thanh toán nhanh gọn, gần nhà và thuận tiện giao thông so với các tập đoàn nước ngoài như Mtro và Big C, có 90,3% người hỏi cho rằng Coop. Mart mua sắm gần nhà và 77,6% cho rằng thuận tiện giao thông; 41,8% cho rằng nhân viên nhiệt tình, thân thiện; 50% cho rằng thủ tục thanh toán nhanh gọn.
- Doanh nghiệp trong nước thiếu mặt bằng kinh doanh, chi phí giải phóng mặt bằng cao, nguồn vốn còn thiếu, cơ sở hạ tầng thấp, đặc biệt là hệ thống logicstics, hệ thống tin học, kỹ thuật kinh doanh còn hạn chế, chất lượng dịch vụ còn thấp, quy mô nhỏ khó khăn trong quan hệ với các nguồn cung cấp, mức lương thấp hơn các doanh nghiệp nước ngoài, mức lương của nhân viên bán hàng ở các siêu thị trong nước thường thấp hơn từ 10-20%, mức lương của nhón trưởng có thể thấp hơn từ 2-4 lần so với các siêu thị nước ngoài, do đó một số nguồn nhân lực có chất lượng cao chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Thực tế cho thấy, sau hơn một năm mở cửa hoàn toàn cho các doanh nghiệp bán lẻ 100% vốn nước ngoài, các tập đoàn bán lẻ quốc tế đã không ồ ạt xâm nhập thị trường Việt Nam như dự đoán.
2.2. Đánh giá tác động của việc thực hiện những cam kết khi gia nhập.
Có thể nói các cam kết WTO đã thay đổi cách thức quản lý và điều chỉnh dịch vụ phân phối tại Việt Nam. Các bên liên quan, kể cả các nhà hoạch định chính sách và các doanh nghiệp, có những nhận định trái ngược về tác động của các cam kết này. Trên thực tế, các cam kết WTO tác động theo những hướng sau:
Trước hết, để tuân thủ các cam kết WTO, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, sửa đổi, bổ sung hoặc thậm chí thay thế các văn bản lạc hậu. Các văn bản chủ yếu điều chỉnh hoạt động của các nhà phân phối nước ngoài tại Việt Nam như Nghị định23/NĐ-CP, Thông tư 10/TT-BTM hoặc Thông tư 05/TT-BCT nêu trên đã góp phần làm cho các quy định đối với lĩnh vực phân phối trở nên minh bạch và phù hợp hơn với các chuẩn mực của WTO. Cơ chế cấp giấy phép trong lĩnh vực phân phối trên theo từng trường hợp đã được thay thế bằng phương thức minh bạch và có tiêu chí rõ ràng hơn.
Vai trò của Bộ Công Thương được tăng cường trong quy trình cấp giấy phép cho các nhà phân phối nước ngoài. Trước khi Nghị định 23/NĐ-CP có hiệu lực, việc cấp giấy phép đầu tư trong lĩnh vực phân phối do Sở Kế hoạch và Đầu tư (DPI) hoặc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (trong trường hợp dự án quy mô lớn) thực hiện, không cần lấy ý kiến của Bộ Thương mại (trước đây). Nghị định 23 đòi hỏi cơ quan cấp phép đầu tư chỉ được cấp giấy phép cho nhà phân phối nước ngoài sau khi có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của Bộ Công Thương. Xét từ góc độ nhà quản lý, Chính phủ Việt Nam đã quản lý lĩnh vực phân phối một cách hiệu quả hơn, đảm bảo việc cấp phép trong các tỉnh, thành phố nhất quán với quy hoạch quốc gia về lĩnh vực phân phối.
Các cam kết WTO tạo ra áp lực lớn đối với các nhà quản lý trong việc đảm bảo tuân thủ các cam kết WTO. Rõ ràng là theo các cam kết của Việt Nam trong biểu cam kết dịch vụ, cụ thể là về lĩnh vực phân phối, các nhà quản lý của Việt Nam phải làm rõ các hạn chế đối với nhà phân phối nước ngoài, cụ thể là kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT). Việc đề ra các tiêu chí cho ENT đảm bảo hiệu quả bảo hộ theo lộ trình đối với các nhà phân phối trong nước đông thời tạo thuận lợi cho việc thực thi các cam kết WTO rõ ràng không phải chuyện dễ.
Hội nhập và mở cửa thị trường là một xu hướng tất yếu trong điều kiện hiện nay. Mở cửa thị trường sẽ có những tác động tích cực và tác động tiêu cực đến hoạt động thương mại. Mức độ tác động phụ thuộc vào mức độ mở cửa thị trường. Theo nguyên tắc hoạt động của WTO thì các nước phát triển có mức độ mở cửa thị trường cao hơn và tốc độ nhanh hơn, còn các nước đang và chậm phát triển có mức độ mở cửa thị trường thấp hơn và tốc độ chậm hơn.
Về mở cửa lĩnh vực phân phối bán lẻ ở Việt nam được đánh giá là phù hợp. Mở cửa thị trường có các tác động tích cực và tiêu cực đến hệ thống bán lẻ của Việt nam.
Các tác động tích cực.
- Tạo ra một phong cách phục vụ văn minh hiện đại trong hệ thống bán lẻ Việt nam.
Khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào hệ thống bán lẻ Việt nam, các doanh nghiệp chỉ được phép mở một điển bán lẻ, còn từ điểm thứ 2 sẽ được xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế. Vì thế hầu hết các doanh nghiệp có xu hướng đầu tư các siêu thị lớn, đáp ứng cho nhu cầu mua sắm có chất lượng cao của người tiêu dùng. Đây là các siêu có quy mô lớn, mặt hàng đa dạng phong phú, áp dụng các phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong cung cấp dịch vụ bán lẻ, phong cách phục vụ mới lạ, tạo nên sự văn minh hiện đại trong phục vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng phong phú và ngày càng nâng cao của người tiêu dùng. Qua khảo sát siêu thị Big C ở Hải phòng, Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng nai, trong các ngày nghỉ, ngày tết, ngày lễ đã thu hút một lượng khách hàng lớn đến tham quan và mua sắm.
- Học tập được kinh nghiệm quản lý trong hệ thống bán lẻ hiện đại.
Các siêu thị bán buôn, bán lẻ của các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt nam như Metro, Big C, Parkson, Lotte là những siêu thị áp dụng các công nghệ quản lý và kinh doanh hiện đại, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác và cung cấp nguồn hàng, chương trình quảng cáo khuyến mại, hệ thống logicstics, quản trị nhân sự, kỹ thuật bán hàng…đây là các vấn đề có tính then chốt trong hoạt động của siêu thị mà các doanh nghiệp Việt nam còn nhiều hạn chế. Giám đốc Big C Hải phòng cho rằng hệ thống Big C có phương pháp khai thác nguồn hàng và cung cấp hàng hóa cũng như các chương trình khuyến mại, bán hàng rất linh hoạt, hiệu quả, tạo ra các mặt hàng, các dịch vụ khách hàng rất độc đáo với chi phí thấp và cạnh tranh có tác dụng thu hút khách hàng, tăng doanh số bán hàng và rất đáng để các siêu thị khác học tập
- Tạo động lực nâng cao khả năng cạnh tranh cho các nhà bán lẻ Việt nam.
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong dịch vụ bán lẻ nói riêng để phát triển phải tạo động lực cạnh tranh và cạnh tranh công bằng. Các siêu thị nước ngoài với các ưu điểm có tính nổi trội là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của các siêu thị, các chuỗi cửa hàng tiện ích của các doanh nghiệp Việt nam. Để tồn tại, các doanh nghiệp buộc phải tự hoàn thiện mình, nâng cao khả năng cạnh tranh , đây là động lực để các doanh nghiệp phát triển
- Làm đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ trên thị trường.
Các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài thường cung cấp dịch vụ có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu bậc cao của thị trường. Các doanh nghiệp Việt nam chủ yếu cung cấp các hình thức bán lẻ truyền thống, các chuỗi cửa hàng tiện ích, các siêu thị có chất lượng dịch vụ bậc trung. Sự có mặt của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài đã làm đa dạng hoá, tạo nên một chuỗi các sản phẩm dịch vụ phủ đầy các phân khúc thị trường bán lẻ của Việt nam.
- Tăng cơ hội hợp tác kinh doanh.
Chỉ tính riêng phương thức 3, để tiếp cận thị trường bán lẻ Việt nam doanh nghiệp nước ngoài có thể thành lập chi nhánh, thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, có thể góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp Việt nam, có thể mua cổ phần của các doanh nghiệp bán lẻ Việt nam, đồng thời các doanh nghiệp nước ngoài còn có nhu cầu thuê mặt bằng, nhu cầu về dịch vụ nghiên cứu thị trường, cung cấp hàng hóa, dịch vụ hỗ trợ….đây là cơ hội để các doanh nghiệp Việt nam hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài.
- Nâng cao chất lượng giảm giá thành dịch vụ.
Mở cửa thị trường phân phối sẽ tạo nên một sự cạnh tranh rất gay gắt, các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đều phải thường xuyên nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Một trong các giải pháp tạo nên khả năng cạnh tranh vượt trội là nâng cao chất lượng giảm giá thành dịch vụ, làm chất lượng dịch vụ khách hàng thường xuyên được cải thiện, giá hàng hóa có tính cạnh tranh. Khảo sát thực tế tại siêu thị Intimex Hải phòng, Coop Mart Thành phố Hồ Chí Minh đều cho rằng để cạnh tranh với các siêu thị nước ngoài như Big C, các siêu thị này đều phải áp dụng các biện pháp nhằm nâng chất lượng dịch vụ tạo nên sự văn minh, sang trọng trong phong cách phục vụ, giảm các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cam kết GATS về dịch vụ phân phối và thực trạng áp dụng ở Việt Nam.doc