Thực tế cho thấy không có một cơ chế tỷ giá nào là tối ưu trong mọi trường hợp đồng thời cũng chỉ ra rằng giữ được tỷ giá ổn định dựa trên việc tìm kiếm thường xuyên sự cân đối tối ưu giữa tính chất tự thân thị trường với sự can thiệp nhà nước là điều kiện tốt cho tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Chính sách tỷ giá ngày càng được nhiều nước lựa chọn là sự điều chỉnh tỷ giá có tính mềm dẻo, linh hoạt một cách thận trọng thích ứng với những biến động dựa trên quan hệ cung cầu thị trường có sự điều tiết tích cực của nhà nước. Khả năng cạnh tranh của xuất khẩu, trạng thái cán cân thương mại và thanh toán, dự trữ quốc gia, biến động cơ cấu sản xuất, niềm tin vào đồng nội tệ, vào chính phủ, vào tương lai - nghĩa là các nhân tố chủ yếu đo lường trạng thái và chi phối mạnh động lực phát triển nền kinh tế đất nước - đều phụ thuộc sâu sắc vào tỷ giá hối đoái chính thức.
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5007 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích cơ chế tỷ giá thả nổi có điêù tiết hiện nay
A. Khái niệm
Cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết là một chế độ tỷ giá hối đoái nằm giữa hai chế độ thả nổi và cố định. Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tốt hơn, nhưng trong thực tế không có một đồng tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì nó quá bất ổn định. Tuy chế độ tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự ổn định, song việc thực hiện các biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái cố định tương đối khó khăn và tốn kém, và trên hết là chế độ này làm cho chính sách tiền tệ trở nên vô hiệu lực. Chính vì thế, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Hầu hết các đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng chính phủ sẽ can thiệp để tỷ giá không hoàn toàn phản ứng theo thị trường.
Một vài lý do cơ bản để NHTW can thiệp vào tỷ giá đó là:
1.NHTW có khả năng ảnh hưởng để tỷ giá ở mức hợp lý hơn.
2.NHTW can thiệp để giảm chi phí do hiện tượng tăng vọt tỷ giá.
3.NHTW can thiệp để các hoạt động kinh tế trở nên trơn tru hơn.
Mức độ can thiệp lên tỷ giá bởi NHTW là rất khác nhau,từ can thiệp tùy ý để ảnh hưởng lên tỷ giá thả nổi cho đến can thiệp thường xuyên có tính bắt buộc để duy trì tỷ giá cố định.
B. Thực trạng cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết ở Việt Nam hiện nay
I. Vấn đề quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam và bước chuyển quan trọng về cơ chế tỷ giá
Tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội luôn là những mục tiêu quan trọng mà chính phủ xác định.Trong số các công cụ thực hiện mục tiêu này thì việc quản lý tỷ giá VND có ý nghĩa quan trọng.Nói chung một chính sách tỷ giá hợp lý cần phải thỏa mãn một vài yếu tố sau:
-Chính sách tỷ giá phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như ngoại thương,cán cân ngân sách,thuế,tín dụng,thu nhập người lao động.
-Điều hành tỷ giá xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế; có nghĩa tại một thời điểm phải xác định rõ yếu tố nào cần ưu tiên và yếu tố nào có thể hy sinh để đạt lợi ích tổng thể tối đa. Ví dụ, quyết định tăng giá nội tệ để giảm nhẹ sức ép trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp (Chính phủ) và chấp nhận sự suy giảm tạm thời đối với xuất khẩu nếu điều này ít tạo khó khăn hơn cho nền kinh tế.
-: Xây dựng chính sách tỷ giá trên cơ sở hội nhập thị trường tiền tệ trong nước với quốc tế nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính hạn chế và tránh nguy cơ tụt hậu.
-Không ngừng nâng cao uy tín của đồng Việt Nam trên cơ sở duy trì sự tương quan hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại của nội tệ, hướng dần tới mục tiêu đồng Việt Nam có khả năng chuyển đổi. Một đồng tiền mất uy tín tất yếu làm thương tổn đến tích lũy, đầu tư nội địa, tăng nguy cơ lạm phát, tạo điều kiện cho tình trạng “ngoại tệ hóa”. Ví dụ như tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
-Đấu tranh có hiệu quả với hiện tượng đầu cơ, tích trữ và kiềm chế tác động xấu của thị trường ngoại tệ chợ đen.
Thực trạng tài chính Việt Nam hiện nay vừa đòi hỏi một chế độ tỷ giá thả nổi, vừa ủng hộ chế độ tỷ giá cố định. Một chế độ tỷ giá bán thả nổi sẽ là sự lựa chọn hợp lý. Bên cạnh đó, cũng sẽ rất hữu ích nếu tồn tại song song các công cụ hành chính với mục đích can thiệp kịp thời đến biên độ dao động của tỷ giá, phục vụ cho các mục tiêu kinh tế lớn ở từng thời kỳ. Việc phá giá nội tệ một cách thận trọng sẽ đưa giá trị đồng Việt Nam trở về mức hợp lý hơn so với các đồng tiền khác trong khu vực, từ đó tăng sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.
Vì những lý do trên vào tháng 2-1999,NHNN Việt Nam đã cho ra đời Quyết định 64/QĐ-NHNN7 ngày 25-2-1999,thực sự là một bước cải cách triệt để cơ chế tỷ giá từ cơ chế can thiệp trưc tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch có lúc lên đến 10%.Nhưng từ 25-2-1999 NHNN đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức mà thay vào đó là việc thông báo tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hang ngày giao dịch trước đó.Căn cứ vào đó các NHTM thực hiện việc mua bán ngoại tệ không được vượt quá +0.1% so với tỷ giá đã công bố.Sau đó từ 1-7-2002 biên độ này được nới rộng ra ± 0.25%.Việc thay thế tỷ giá chính thức bằng tỷ giá bình quân liên ngân hàng cho thấy, lần đầu tiên tỷ giá do NHNN công bố phản ánh mức tỷ giá do thị trường quyết định. NHNN tham gia vào thị trường liên ngân hàng bằng hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường này.Hệ thống này rất giống với hệ thống tỷ giá bình quân thị trường MARS(Market average rate system) áp dụng ở Hàn Quốc những năm đầu 90.
II. Các yếu tố cấu thành cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết ở Việt Nam
Cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết bao gồm có hai yếu tố chính,đó là:yếu tố thả nổi và yếu tố điều tiết.
1. Phân tích yếu tố thả nổi
Trong một thời gian dài khi mà nhà nước còn có sự “bảo hộ” về tỷ giá đối với các doanh nghiệp ,tỷ giá của VND với các đồng tiền khác được giữ ở mức ổn định tương đối nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu,hạn chế rủi ro tỷ giá.Khi mà sự hội nhập vào kinh tế toàn cầu ngày càng trở nên sâu rộng và thực chất thì hội nhập về tỷ giá là điều không thể tránh khỏi.Do vậy,sự bảo hộ về tỷ giá của NHNN đang dần được nới lỏng.
Yếu tố thả nổi trong cơ chế tỷ giá đã dần hiện hữu ngày càng rõ rang hơn khi vào cuối năm 2005 Quỹ Tiền tệ Quốc tế(IMF) đã chính thức công nhận Việt Nam thực hiện hoàn toàn việc tự do hóa các giao dịch vãng lai. Các chủ thể được tạo điều kiện tiếp cận không hạn chế quyền mua ngoại tệ để thực hiện các khoản thanh toán và chuyển tiền trong các giao dịch vãng lai. Năm 2006thị trường ngoại hối của Việt Nam bắt đầu chịu áp lực thực sự của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Lượng ngoại tệ đổ vào Việt Nam bắt đầu tăng mạnh. Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng đã sớm cảnh báo về việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần tăng cường sự linh hoạt của tỷ giá trong bối cảnh nguồn vốn đổ vào Việt Nam ngày càng lớn. Sự can thiệp về tỷ giá hối đoái kịp thời sẽ góp phần giảm áp lực trong điều hành tiền tệ của NHNN. Do đó, việc nới rộng biên độ tỷ giá là yêu cầu tất yếu. Nếu quan sát thường xuyên những diễn biến phương thức điều hành tỷ giá của NHNN trong khoảng thời gian gần đây, chúng ta dễ cảm nhận về một sự chuyển động khá âm thầm nhưng không kém phần mạnh mẽ. Cụ thể:
- Ngày 1/7/2002 biên độ tỷ giá được mở rộng từ +/-0,1% lên +/-0,25% ,
- Ngày 2/1/2007, tức là sau khoảng 5 năm không thay đổi, biên độ tỷ giá được mở rộng lên thành ± 0.5%
Ngày 24/12/2007, cách lần thay đổi gần nhất gần 1 năm, biên độ tỷ giá được điều chỉnh lên thành +/- 0,75%,
Sau đó hơn 2 tháng, ngày 10/3/2008 biên độ lại được đưa lên mức +/-1%.
-Tính đến 26/12/2008, ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh biên độ tỷ giá từ 2% lên 5%, điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng 5,16%.
- Ngày 26/11/2009, ngân hàng nhà nước hạ biên độ tỷ giá từ mức 5% xuống 3%, đồng thời nâng tỷ giá liên ngân hàng thêm 5,44%, lên mức 17.961 VND/USD.
Ngày 10/2/2010, ngân hàng nhà nước quyết định điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng từ mức 17.941 VND/USD lên mức 18.544 VND/USD, đồng thời ấn định lãi suất tiền gửi tối đa bằng đôla Mỹ của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng ở mức 1%. Các quyết định này là nhằm mục đích cân đối cung cầu ngoại tệ, tạo điều kiện kiểm soát cung tiền, khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Sự can thiệp của Nhà nước vào tỷ giá rõ ràng là ngày càng suy giảm và dường như đang theo một cơ chế truyền động có chủ đích để tiến tới bước đi cuối cùng là xóa bỏ tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Đây có lẽ chính là điểm khởi sự đầu tiên cho một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý một cách thực chất, theo hướng tỷ giá phải linh hoạt hơn nữa theo khuyến cáo của IMF và phù hợp với việc Việt Nam là thành viên của WTO.
Việc nới lỏng biên độ dao động tỷ giá là một nhu cầu thiết thực để đưa công tác điều chỉnh tỷ giá tiến gần tới các quy luật thị trường hơn, hay cũng đồng nghĩa với việc tự do hóa dần các giao dịch ngoại tệ. Khi thị trường hối đoái thế giới có biến động mạnh, các quy định hành chính về biên độ có thể làm đóng băng thị trường ngoại tệ trong nước, khuyến khích các hoạt động phi pháp.
Theo nguyên tắc của cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết do NHNN Việt Nam quy định ,NHNN sẽ không chủ quan trực tiếp ấn định tỷ giá chính thức mà sẽ chỉ thông báo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng.Mà tỷ giá bình quân liên ngân hàng lại là do cung cầu trên thị trường liên ngân hàng quyết định.
Trên cơ sở tỷ giá bình quân liên ngân hàng ,các NHTM sẽ xác định tỷ giá kinh doanh theo quy tắc sau:
Tỷ giá kinh doanh =TGBQLNH *(1 ± x)
Tức là : Tỷ giá bán ra(max) =TGBQLNH*(1 + x)
Tỷ giá mua vaò (min) = TGBQLNH*(1-x)
(x là biên độ dao động do NHNN quy định)
Như vậy yếu tố thả nổi trong tỷ giá kinh doanh chính là đại lượng TGBQLNH.
2. Phân tích yếu tố điêu tiết
Tỷ giá giao dịch không được tự do biến động theo cung cầu trên thị trường liên ngân hàng mà sự biến động chỉ được giới hạn trong biên độ giao dịch do NHNN quy định ± x% so với tỷ giá của ngày giao dịch trước đó.
Trong một ngày giao dịch, do ảnh hưởng của cung cầu trên thị trường ngoại hối nên tỷ giá giao dịch có thể có những thay đổi đột biến vượt ra ngoài biên độ giao dịch cho phép,tuy vậy tỷ giá luôn là cố định trong một ngày giao dịch bất chấp những thay đổi đó.
Như đã nói ở phần trên,yếu tố thả nổi trong tỷ giá kinh doanh chính là đại lượng tỷ giá bình quân liên ngân hàng .Nhưng vì đây là tỷ giá bình quân ,nghĩa là phải do NHNN tính toán dựa trên tỷ giá giao dịch của các ngân hàng ,trong khi đó NHNN lại là người độc quyền điều hành,đồng thời cũng độc quyền tính toán,độc quyền thông báo tỷ giá bình quân liên ngân hàng,do vậy trong một chừng mực nào đó thì chỉ số TGBQLNH vẫn chưa hoàn toàn thoát ly khỏi ý chí chủ quan của NHNN trong việc điều hình tỷ giá nhằm đảm bảo một mức tỷ giá có lợi và phù hợp cho các hoạt động của nền kinh tế,đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu,hạn chế rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp.
Ngoài ra,NHNN còn sử dụng một hệ thống các công cụ tác động lên tỷ giá gồm các công cụ trực tiếp và gián tiếp.
Các công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá :
Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ : Đây là nghiệp vụ dễ dàng thực hiện và có tác động trực tiếp đến tỷ giá hối đoái.Nghiệp vụ này tác động đến cung tiền trong nước, NHTW đóng vai trò là người mua bán tiền tệ trực tiếp cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng tại một mức tỷ giá nào đó.Để công cụ này có hiệu quả thì quốc gia phải có lượng dự trữ ngoại tệ lớn.
Nghiệp vụ thị trường mở thuần tuý : Nghiệp vụ này được sử dụng để thay đổi lượng cung tiền lưu thông từ đó làm thay đổi tỷ giá hoặc lãi suất thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá.
Nghiệp vụ kết hối : Là việc chính phủ quy định với các thể nhân và pháp nhân có nguồn thu ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn nhất định cho các tổ chức được phép kinh doanh ngoại hối. Biện pháp này được áp dụng trong thời kỳ khan hiếm ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại hối.
Các công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá :
Lãi suất chiết khấu
Thuế quan
Hạn ngạch: có tác dụng hạn chế nhập khẩu do đó có tác dụng lên tỷ giá tương tự như thuế quan
Giá cả
Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các NHTM
Quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ
III. Những tác động tích cực và hạn chế của cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết ở Việt Nam
1. Những tác động tích cực
Thực tế cho thấy không có một cơ chế tỷ giá nào là tối ưu trong mọi trường hợp đồng thời cũng chỉ ra rằng giữ được tỷ giá ổn định dựa trên việc tìm kiếm thường xuyên sự cân đối tối ưu giữa tính chất tự thân thị trường với sự can thiệp nhà nước là điều kiện tốt cho tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Chính sách tỷ giá ngày càng được nhiều nước lựa chọn là sự điều chỉnh tỷ giá có tính mềm dẻo, linh hoạt một cách thận trọng thích ứng với những biến động dựa trên quan hệ cung cầu thị trường có sự điều tiết tích cực của nhà nước. Khả năng cạnh tranh của xuất khẩu, trạng thái cán cân thương mại và thanh toán, dự trữ quốc gia, biến động cơ cấu sản xuất, niềm tin vào đồng nội tệ, vào chính phủ, vào tương lai - nghĩa là các nhân tố chủ yếu đo lường trạng thái và chi phối mạnh động lực phát triển nền kinh tế đất nước - đều phụ thuộc sâu sắc vào tỷ giá hối đoái chính thức.
Một cơ chế tỷ giá linh hoạt sẽ có những tác động tích cực sau :
- Tỷ giá linh hoạt giúp hạn chế tăng cung tiền, tác nhân gây lạm phát trong thời gian qua
Khi VN gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào VN tăng đột biến (năm 2007 đã tới 20 tỉ USD). Về nguyên tắc, khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào VN tăng, VN Đồng (VND) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy nhiên, NHNN VN phát hành VND mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VND với đồng Đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VND yếu là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu, tuy nhiên, mặt trái của chính sách này là do phải tung VND ra mua khối lượng ngoại tệ lớn, lượng cung tiền của VN từ năm 2005 đến nay tăng tổng cộng 135%. Đây là mức tăng rất lớn, là tác nhân quan trọng đối với lạm phát trong thời gian qua. Nếu linh hoạt tỷ giá, khi tỷ giá thị trường thích hợp, Nhà nước sẽ quyết định mua USD và sẽ được lợi khi bỏ ra số lượng VND ít hơn để mua USD rẻ bổ sung vào quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia.
- Tỷ giá linh hoạt giúp VND theo kịp phản ứng của thị trường khi USD đang mất giá mạnh trên toàn cầu
Vài năm gần đây, do thâm hụt thương mại khổng lồ, đồng USD của Mỹ đã mất giá đáng kể so với những đồng ngoại tệ mạnh khác. Chỉ tính từ năm 2006 đến nay đồng USD đã mất giá trung bình khoảng 15% so với các đồng ngoại tệ mạnh khác như Euro, Yên Nhật, Bảng Anh, và đồng Nhân dân tệ Trung Quốc. Tuy nhiên, ở VN, tỷ giá của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so với USD (cuối tháng 2/2008 chỉ tăng 0.24% so với 2006). Qua việc neo tỉ giá, VND cũng giảm trung bình 15% so với các ngoại tệ mạnh khác. Chính sách VND yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu nhưng đồng thời lại góp phần gây nên “lạm phát chi phí đẩy” vào VN. Sản xuất tại VN hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy móc…Sự mất giá của USD trên thế giới hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VND là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng hóa tăng theo. Việc VND mất giá so với các ngoại tệ làm tăng giá thành của hàng nhập khẩu, khiến cán cân thương mại bị thâm hụt lớn. Nếu tỷ giá linh hoạt hơn, nếu VND mạnh hơn sẽ phản ánh đúng hướng biến động của thị trường thế giới.
- Chính sách tỷ giá linh hoạt, tăng giá VND: Giúp hạn chế và sàng lọc nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trong bối cảnh nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả nguồn vốn vào
VN hiện nay có một số triệu chứng như Thái Lan tiền khủng hoảng 1997 như: yếu kém về hệ thống tài chính, bong bóng bất động sản, tỷ giá neo,… . Tuy nhiên, yếu tố châm ngòi cho khủng hoảng tại Thái Lan năm 1997 là ngược lại so với hiện tại ở VN. Lúc đó, kinh tế Mỹ mới phục hồi, lãi suất USD được nâng để chống lạm phát, đồng USD lên giá trên toàn thế giới. Do Thái Lan cố định đồng Baht so với đồng USD, nên đồng Baht lên giá toàn diện so với các ngoại tệ khác. Thái Lan không linh hoạt thay đổi tỷ giá dẫn đến thâm hụt thương mại,…. Khi Thái Lan tuyên bố thả nổi tỷ giá, lập tức đồng Baht bị mất giá gần 50%, các nhà đầu tư nước ngoài đang giữ vốn bằng đồng Baht hoảng loạn, rút vốn ra khỏi Thái lan khiến cho đồng Baht càng mất giá trầm trọng và khủng hoảng kinh tế xảy ra. Còn ở VN hiện nay thì ngược lại, VND bị neo cứng nhắc với đồng USD đang mất giá toàn diện trên thế giới là một trong những nguyên nhân chính gây ra nhập khẩu chi phí đầu vào cao. Nếu linh hoạt tỷ giá thì VND sẽ lên giá vừa chống lạm phát vừa có nhiều tác dụng tích cực khác. Những nhà đầu tư nước ngoài đang giữ vốn bằng VND lên giá sẽ không có ý định rút vốn ra khỏi VN. Bên cạnh đó, trong điều kiện nền kinh tế VN chưa hấp thu hiệu quả dòng vốn đầu tư nước ngoài, nếu VND lên giá sẽ có thể giảm lượng ngoại tệ chảy vào VN. Nó có tác dụng chọn lọc những nguồn đầu tư lâu dài thực sự có hiệu quả cao, hạn chế được những nguồn ngắn hạn mang tính đầu cơ rủi ro lớn. Tất nhiên về dài hạn, VN sẽ có chính sách phù hợp để có thể thu hút vốn nước ngoài khi kinh tế vĩ mô ổn định mà điều kiện cần là lạm phát trong tầm kiểm soát.
- Chính sách tỷ giá linh hoạt tạo cơ hội phát triển thị trường sản phẩm phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro khi giao dịch thanh toán quốc tế và đầu tư nước ngoài
Hiện nay, trên thế giới đang giao dịch rất nhiều loại sản phẩm phái sinh như: Option, Forward, Swap, Future. VN cần phát triển và nâng cao chất lượng của các nghiệp vụ kinh doanh và bảo hiểm tỉ giá, đặc biệt là nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ (Swap). Tuy nhiên, do VN duy trì chính sách neo tỷ giá khá lâu đã khiến thị trường các nghiệp vụ phái sinh không có cơ hội để phát triển. Hậu quả là doanh nghiệp đã không được sử dụng những sản phẩm có thể bảo hiểm rủi ro trong các hợp đồng làm ăn, trong đó có rủi ro về tỷ giá. Trong điều kiện đồng tiền VN chưa được tự do chuyển đổi trên thị trường, nếu cầu lớn hơn cung thì giá sẽ vượt trần, còn nếu cung lớn hơn cầu thì giá đó nằm dưới giá sàn của NHNN qui định. Từ đó, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng mua bán USD ở bên ngoài để thanh toán dù biết đó là một hành động vi phạm pháp luật. Vì thế, Nhà nuớc cần thực thi chính sách tỷ giá linh hoạt, cho phép các nhà đầu tư có cơ hội vận dụng những công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối, giảm thiểu tác động tiêu cực do biến động của tỷ giá hối đoái, thúc đẩy mở rộng đầu tư nước ngoài.
2. Một số hạn chế còn tồn tại
Trong thực tế việc điều hành chính sách tỷ giá vẫn chưa thực sự linh hoạt,thường đợi nước đến chân mới nhảy.Khó khăn chính ở đây là khả năng điều hành linh hoạt của NHNN đôi khi bị hạn chế bởi những mục tiêu kinh tế-xã hội của chính phủ.
Từ tháng 2/1999, tỷ giá đã được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhưng trong thực tế, NHNN vẫn chưa thực hiện triệt để nguyên tắc này. Cơ chế điều hành tỷ giá còn quy định biên độ mua bán làm cho việc yết giá của các ngân hàng thương mại bị cứng nhắc, chưa phản ánh đúng cung cầu ngoại tệ trên thị trường.Thêm nữa thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ở Việt Nam vẫn còn đang ở giai đoạn sơ khai,khối lượng giao dịch trên thị trường chưa lớn,tỷ trọng so với tổng doanh số hoạt động trên thị trường ngoại hối còn thấp.Do vậy,tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường ,trong khi đây lại là nhân tố thả nổi trong cơ chế thả nổi có điều tiết của NHNN hiện nay. Bên cạnh đó, NHNN lại chưa tập trung được nguồn ngoại tệ. Mặc dù, kim ngạch xuất khẩu luôn tăng, nguồn vốn nước ngoài, kiều hối khá phong phú nhưng một lượng lớn ngoại tệ đã được lưu giữ trong dân cư, trên tài khoản của doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc tại kho quỹ của các ngân hàng thương mại. Nguồn ngoại tệ tập trung cho quỹ dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước còn hạn hẹp. Tại nhiều thời điểm, nhiều nơi, nhà nước không thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ hợp lý của nền kinh tế. Cung cầu ngoại tệ luôn bị mất cân đối, tạo áp lực xấu lên cán cân thanh toán và làm cho tỷ giá luôn có xu hướng gia tăng. Và chắc chắn khi biên độ không phản ánh đúng những diễn biến của thị trường thì thật khó để nói rằng nó là một công cụ hỗ trợ ngân hàng nhà nước trong việc điều tiết tỷ giá và xa hơn là điều tiết thị trường tiền tệ.
Một thực tế trên thị trường cho thấy do tình trạng khan hiếm ngoại tệ trên thị trường nên các NHTM phải áp dụng mức giao dịch kịch trần cho phép,tức là bằng TGBQLNH cộng biên độ giao dịch .Thực tế các ngân hàng có rất nhiều cách để cân đối nguồn cung cầu ngoại tệ cho mình mà không vi phạm quy định của ngân hàng nhà nước mặc dù thực tế giá mua hoặc giá bán USD luôn cao hoặc thấp hơn biên độ cho phép. Một số cách thức mà các ngân hàng thường tiến hành khi giá thị trường thấp hơn giá trong biên độ cho phép là thu phí quản lý ngoại tệ, mua bán thông qua một ngoại tệ khác còn khi là giải pháp “đô cao, đô thấp”. Ngoài ra tỷ giá do NHNN công bố có giá trị trong suốt một ngày giao dịch,vì thế nếu trong ngày có sự thay đổi lớn về cung-cầu ngoại tệ thì các NHTM không được phép thay đổi tỷ giá cho phù hợp mà vẫn phải tuân thủ một cách cứng nhắc tỷ giá do NHNN quy định.
Ngoài ra, một số hạn chế trong hoạt động quản lý ngoại hối còn phát sinh từ bản thân của nền kinh tế như Nhà nước chưa có biện pháp giải quyết dứt điểm nạn buôn lậu gian lận thương mại trong nền kinh tế, hoạt động "ngầm" của nền kinh tế vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong xã hội; cán cân thanh toán vãng lai thường xuyên thâm hụt, mức bội chi của ngân sách chưa được cải thiện; các biện pháp quản lý kinh tế vĩ mô chưa được phát triển hài hoà và đúng mức; sự yếu kém trong quản lý và kinh doanh tiền tệ; tệ quan liêu, tham nhũng chưa được xử lý nghiêm khắc.
C. Một số kiến nghị về chính sách tỷ giá hiện nay
Thứ nhất, thị trường cần một cơ chế điều hành tỷ giá linh động hơn. Việc giữ tỷ giá cố định kéo dài theo "mệnh lệnh hành chính" không phải là một giải pháp hiệu quả. Thay vào đó, việc điều chỉnh tỷ giá tham chiếu nên được thực hiện một cách linh hoạt theo những tín hiệu của thị trường. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng phải thực sự là tỷ giá tham chiếu cho giao dịch trên thị trường.
Thứ hai,yếu tố tỷ giá là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng nhanh và mạnh đến tình trạng của cán cân thương mại,do vậy cần điều chỉnh tỷ giá ở mức hợp lý, không nên quá lo ngại việc điều chỉnh tỷ giá sẽ tác động mạnh đến lạm phát, nguyên nhân chính yếu của tình trạng lạm phát cao ở Việt Nam là do cung tiền tăng cao và đầu tư chưa hiệu quả.
Cuối cùng, để tỷ giá được bình ổn lâu dài thì chắc chắn hai yếu tố căn bản là nhập siêu và lạm phát phải được khống chế. Tuy vậy, đây là những yếu tố thuộc về cơ cấu của nền kinh tế, sẽ cần thêm nhiều thời gian và các biện pháp thích hợp từ phía chính phủ và NHNN. Chính phủ phải thể hiện quyết tâm trong vấn đề giảm thâm hụt ngân sách, tăng hiệu quả đầu tư công và giám sát chặt hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, cần thận trọng và hạn chế các biện pháp như kết hối hay các biện pháp có tính chất hành chính khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2245.doc