Tiểu luận Phân tích cơ sở khách quan và chứng minh luận điểm: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam

Ngay từ khi ra đời, trong cương lĩnh chính trị của mình (chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt của Đảng 3/2/1930), Đảng đã xác định dứt khoát, rõ ràng rằng: Cách mạng Việt Nam là một quá trình cách mạng không ngừng và phải trải qua 2 giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ ở giai đoạn đầu, làm xong mục tiêu cơ bản của cách mạnh là giành chính quyền thì sẽ chuyển sang giai đoạn tiếp theo, giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qau giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tư bản. Mục đích cuối cùng của Đảng là thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước Việt Nam. Xác lập vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và gắn liền với nó là xác lập sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đây là vấn đề mấu chốt đảm bảo cho cách mạng phát triển theo phương hướng đó.

docx11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2983 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích cơ sở khách quan và chứng minh luận điểm: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ SỰ LỰA CHỌN DUY NHẤT ĐÚNG ĐẮN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM. PHÂN TÍCH CƠ SỞ KHÁCH QUAN VÀ CHỨNG MINH CHO LUẬN ĐIỂM ĐÓ CỦA ĐẢNG TA Sự hình thành và phát triển của CNXH ở nước ta phải dựa trên cơ sở lý luận của CN Mác Lênin và chính đặc điểm, điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Đây chính là cơ sở khách quan quy định nhận thức và những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH. Với thực tiễn đổi mới, nhận thức của Đảng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn. Điều này trên thực tế đã trở thành một nguồn lực đặc biệt có ý nghĩa, bảo đảm cho mỗi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đại hội IX đã khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên CNXH, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng viên hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ, mục tiêu cao cả, thiêng liêng, bất di bất dịch của nhân dân ta là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội gắn liền với độc lập dân tộc. Đây là nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối cách mạng nước ta. Đi lên CNXH là một tất yếu khách quan theo đúng quy luật tất yếu của lịch sử. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH dựa trên cơ sở khách quan của lịch sử: Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên đấu tranh chống lại chúng. Rất nhiều phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới ngọn cờ của các sỹ phu và các nhà yêu nước đã thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo. Vấn đề độc lập vẫn không giải quyết được, trước hết là do khôg có một đường lối cách mạng đúng đắn dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học. Giữa lúc cách mạng Việt Nam roi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã rời đất nước ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Bôn ba khắp năm chấu bốn biển vừa lao động vừa nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng tư sản như ở Pháp, Mỹ… và tham gia các hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp sau đó trở thành người sáng lập ra Đảng Cộng Sản Pháp. Người đã từng bước rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Người diễn ra khi Người được đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Và theo Người chính con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với CNXH, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc… Từ đây, Người đã quyết định đi theo con đường cách mạng của Lênin, Cách mạng vô sản. Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam. Sự lựa chọn đó dựa trên hai căn cứ chủ yếu: Chỉ có CNXH mới giải phóng được triệt để giai cấp vô sản và nhân dân lao động khỏi ách bóc lột, áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lên làm chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn liền với CNXH thì mới vững chắc. Cách mạng XNCH tháng 10 Nga năm 1917 thành công đã mở ra thời đại mới – thời đại quá độ từ CHTB lên CNXH. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng hiện thực cho những dân tộc lác hậu tiến lên CNXH. Những khả năng hiện thực này đã đem lại nhận thức mới mẻ và triệt để trong quan niệm cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc. Tính chất mới mẻ và triệt để này thể hiện ở những điểm mấu chốt: + Độc lập dân tộc thực sự đảm bảo cho dân tộc đó có quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển, độc lập cả về kinh tế, chính trị, văn hóa. Điều quan trọng là độc lập dân tộc phải thực sự đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; con người được phát triển toàn diện, có năng lực và điều kiện làm chủ. + Độc lập dân tộc đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và văn hóa tinh thần. + Sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì thế giới không có có chiến tranh, không có sự hoành hành của cái ác, của những sụ tàn bạo và bất công, đảm bảo co con người sống trong an bình và hạnh phúc. Như vậy con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đườg phù hợp quy luật khách quan của cách mạng nước ta, đáp ứng nguyện vọng hàng ngàn đời nay của nhân dân ta là độc lập dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đường lối này đã trải qua những giai đoạn phát triển với nội dung và hình thức, bước đi gán liền với đặc điểm của mỗi giai đoạn, tạo nên sức mạnh kì diệu đánh bại mọi kẻ thù, giành độc lập và xây dựng, bảo vệ đất nước thắng lợi. * Thời kì đấu tranh giành chính quyền (1930-1945) Ngay từ khi ra đời, trong cương lĩnh chính trị của mình (chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt của Đảng 3/2/1930), Đảng đã xác định dứt khoát, rõ ràng rằng: Cách mạng Việt Nam là một quá trình cách mạng không ngừng và phải trải qua 2 giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ ở giai đoạn đầu, làm xong mục tiêu cơ bản của cách mạnh là giành chính quyền thì sẽ chuyển sang giai đoạn tiếp theo, giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qau giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tư bản. Mục đích cuối cùng của Đảng là thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước Việt Nam. Xác lập vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và gắn liền với nó là xác lập sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đây là vấn đề mấu chốt đảm bảo cho cách mạng phát triển theo phương hướng đó. Thêm vào đó, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là triển vọng tiến lên, chưa phải là mục tiêu trực tiếp, nhưng nó định hướng và có ý nghĩa vạch thời đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó quyết định trước tính đúng đắn của toàn bộ đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng. Nó quyết định tính chất, động lực và một phần phương pháp tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Tính triệt để và sức mạnh của cách mạng giải phóng dân tộc bắt nguồn từ mục tiêu của cách mạng là giải phóng dân tộc kết hợp với từng bước giải phóng giai cấp. Tư tưởng đó vừa động viên được tầng lớp trên, vừa động viên được các tầng lớp nhân dân lao động trong cả nước tham gia cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc. Điều này bắt nguồn từ việc sắp xếp lực lượng cách mạng: xây dựng và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất dựa trên cơ sở công – nông - trí liên minh, dưới sự lãnh đạo cách mạng của Đảng tiên phong. Ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong khi tập trung sức người, sức của để hoàn thành nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, Đảng vần không quên nhiệm vụ tuyên truyền phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội. * Thời kì vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới (1945-1954) Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật cơ bản của cách mạng Việt Nam. Nhưng ở mỗi thời kì lich sử, Đảng ta lại rất linh hoạt, sáng tạo trong giải quyết mối quan hệ giữa mụ tiêu, chiến lược và chỉ đạo chiến lược, để mục đích cuối cùng là đạt được độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khối đại đoàn kết toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược dựa trên nền tảng phát huy lòng yêu nước của toàn dân , vừa dựa trên những thành tựu ban đầu của chế độ mới. Chế độ mới không chỉ là lực lượng tinh thần mà còn là lực lượng vật chất to lớn, đảm bảo kháng chiến lâu dài, càng đánh càng thắng, cuối cùng đánh bại cuộc xâm lược của thực dân Pháp. * Thời kì cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam (1954-1975). Bước vào thời kì này, đường lối chiến lược kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện một cách độc đáo, chưa có tiền lệ lịch sử và hoàn toàn phù hợp với đặc điểm và yêu cầu cách mạng nước ta trong điều kiện nước ta tạm thời bị chia cắt ra làm 2 miền. Đó là đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng khác nhau ở 2 miền: cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Sự kết hợp ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kì này mang hìn thái khác thời kì trước. Chủ nghĩa xã hội không chỉ là sức mạnh tinh thần, là triển vọng mà trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh tổ chức, trở thành hiện thực trên một nửa đất nước, sức mạnh của 1 chế độ xã hội. Thời kì này cả 2 ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đều là trực tiếp. Hiện thực xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã thúc đẩy nhân dân miền Nam tiến lên giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Mặt khác, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam thôi thúc nhân dân miền Bắc làm việc bằng 2 để giải phóng miền Nam. Sự kết hợp 2 ngọn cờ trong giai đoạn này còn là kết hợp sức mạnh của thế giới, của thời đại. Dựa vào sức mạnh của chế độ xã hội mới được thiết lập ở vùng giải phóng miền Nam và chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, nhân dân ta đã vượt qua biết bao nhiêu khó khăn gin khổ giành thắng lợi ngày càng to lớn. Nhờ tinh thần độc lập tự chủ, chúng ta không chờ miền Nam giải phóng hoàn toàn mới xây dựng Chủ nghĩa xã hội, không chỉ xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc làm gương cho miền Nam, mà tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở 2 miền Nam – Bắc. * Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1975 – nay) Từ 1975 trở đi, đường lối chiến lược kết hợp độc lập dân tộc và củ nghĩa xã hội được thể hiện ở hình thái mới. Tổ quốc đã hoàn toàn độc lập thì dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn làm 1. Chỉ có chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động mới được vĩnh viễn thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, có cuộc sống tự do, ấm no, văn minh và hạnh phúc. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại cho nhân dân lao động quyền làm chủ thực sự đối với xã hội, đối với thiên nhiên và đối với bản thân mình. Chỉ có Chủ nghĩa xã hội mới mang đến cho tổ quốc ta nền kinh tế hiện đại, nền văn hóa, khoa học tiên tiến, nền quốc phòng vững mạnh, do đó mà đảm bảo cho đất nước độc lập thống nhất đầy đủ, vững chắc nhấtvà ngày càng phát triển phồn vinh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đang quyết tâm phấn đấu để thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược của giai đoạn cách mạng mới, đó là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết gắn bó với nhau: xây dựng là tạo điều kiện để bảo vệ và bảo vệ là để xây dựng. Đó chính là sự biểu hiện của sự kết hợp ngọn cờ độc lập dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới. Độc lập dân tộc là tiền đề và điền kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội là đảm bảo chắc chắn và bền vững cho nền độc lập dân tộc. Củng cố nền độc lập dân tộc đã giành được là một yêu cầu bức xúc. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, sau nhiều thập kỉ đấu tranh gian khổ đã giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc. Nhưng nền độc lập dân tộc chưa được củng cố. Nước ta còn lạc hậu về kinh tế. Nhân dân ta còn nghèo. Các thế lực thù địch ngày đêm chống đối ta bằng âm mưu “ Diễn biến hòa bình “, kết hợp với răn đe quân sự. Phấn đấu để xây dựng Tổ quốc ta từ 1 nước nghèo nàn trở thành 1 nước dâ giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là yêu cầu bức xúc để củng cố nền độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc chỉ được củng cố khi các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh phát triển vững mạnh đủ sức đẩy lùi nhũng thế lực chống đối từ bất kì hướng nào. Phát huy sức mạnh toàn dân để phấn đấu đạt mục tiêu đó. Chúng ta nâng nhận thức vị trí vấn đề dân tộc lên ngang với sự hiểu biết về kinh nghiệm lịch sử của Đảng. Trong giai đoạn cách mạng mới, không phải vấn đề đấu tranh giai cấp sẽ được đặt cao hay ngang bằng với phát huy sức mạnh yếu tố dân tộc. Yếu tố dân tộc phải được giải quyết theo lập trường giai cấp vô sản, nhưng vẫn giữ được vị trí hàng đầu. Chúng ta tiếp tục phát huy chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần tự lực, tự cường: xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy thế mạnh mà đất nước ta có tiềm năng như tài nguyên đa dạng, sức lao động dồi dào… Đảng phải đánh giá đúng vai trò của các thành phần kinh tế và gắn liền với nó là vị trí các giai cấp trong nền sản xuất xã hội. Độc lập dân tộc vẫn là một động lực lớn của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kì đổi mới xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu đó là phù hợp với lợi ích chung, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội và các cá nhân. Độc lập dân tộc là điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhưng chủ nghĩa xã hội lại củng cố độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ biện chứng. Từ khi Đảng ra đời đến nay, về cơ bản Đảng đã nhận thức và giải quyết đúng mối quan hệ đó. Tuy vậy, Đảng đã có những lúc phạm sai lầm như chưa đánh giá đúng yếu tố dân tộc, chưa quan niệm khoa học về xã hội chủ nghĩa. Một dấu hiệu đáng quan tâm là những cuộc vận động cải tiến quản lí nhằm củng cố mô hình chủ nghĩa xã hội cũ đều kém hiệu quả. Trái lại với những giải pháp nào nhằm đổi mới mô hình hợp tác xã hay xóa bỏ cơ chế quản lí tập trung quan liêu dù chưa đồng bộ cũng cho kết quả tức khắc. Từ khi xác định đúng mô hình chủ nghĩa xã hội mới, Đảng đã giành được nhiều thành tựu quan trọng, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhận thức đúng bản chất, nội dung của phạm trù, tìm đúng hình thức kết hợp là 1 cuộc đấu tranh gian khổ về tư tưởng và lí luận. Ngày nay hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn, chúng ta mất một cỗ dựa hết sức quan trọng. Trong hoàn cảnh lịch sử mới, tuy gặp nhiều khó khăn chúng ta vẫn tin tưởng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Bởi vì: trước đây các nước xã hội chủ nghĩa giúp ta, ta vẫn nhấn mạnh tư tưởng tự lập, tự cường, không ỷ lại vào bên ngoài. Thế giới ngày nay có đặc điểm là ngày càng toàn cầu hóa. Và nhất là Đảng ta, nhân dân ta trưởng thành vượt bậc về chính trị, tư tưởng, giành được nhiều thành tựu trong việc xây dựng đất nước, trụ vững và tiến lên. Sai lầm đã mắc phải là sai lầm mô hình; mục tiêu và lí tưởng chủ nghĩa xã hội vẫn sáng ngời chân lí. Thực tiễn mục tiêu dân giàu, xã hội công bằng văn minh chính là nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta. Chủ nghĩa xã hội vẫn là ngọn cờ, là đôngj lực mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam trong thời kì mới. Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Đảng sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp hết sức to lớn. Đất nước đã hoàn toàn độc lập, thống nhất, hoàn cảnh quốc tế thay đổi, xu thế giải quyết mâu thuẫn bằng thương lượng ngày càng nổi lên. Nhiệm vụ đặt ở vị trí ưu tiên xây dựng chủ nghĩa xã hội là đúng đắn. vào giai doạn cách mạng mới, sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên những phương hướng chiến lược đó. Vạch ra phương hướng chiến lược đúng là điều vô cùng quan trọng. Điều quan trọng không kém là phải biến phương hướng chiến lược đúng thành mục tiêu cụ thể thích hợp với mỗi thời kì. Xác định đúng các chặng đường của thời kì quá độ, hoạch định chính xác nhiệm vụ, mục tiêu cho mỗi chặng đường mới đảm bảo kết hợp chặt chẽ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội: tù năm 1975 đến nay, đất nước trải qua 2 chặng đường. Chặng đường đầu của thời kì quá độ bắt đầu từ 1975 đến giữa thập kỉ 90. Sau thắng lợi với đế quốc Mỹ, nhân dân ta hết sức phấn khởi, phát huy khí thế chiến thắng xây dựng chế độ mới. Trong khi mới bắt tay vào nhiệm vụ xây dựng, chúng ta gặp vô vàn khó khăn vì điểm xuất phát thấp, chịu hậu quả nặng nề chiến tranh, đời sống nhân dân còn cực khổ. Trong chặng đường đầu, Đảng phải xác định đúng hình thức, bước đi, giải pháp chiến lược xây dựng đất nước nhằm một trong những mục tiêu là ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976), trong kế hoạch 5 năm 1976 – 1980 đã vạch mục tiêu “ Cải thiện một bước đời sống vật chấtvà văn hóa của nhân dân, tạo tích lũy cho công nghiệp hóa xâ hội chủ nghĩa.” Xét về mặt chủ quan, vì tư duy lí luận, tư duy kinh tế chưa đổi mới, lại bỏ đi nhận thức đúng của mình về bước đi ban đầu, nên sau 5 năm phấn đấu gian khổ Đảng đã không đạt đựoc mục tiêu. Đời sống của nhân dân ngày càng trở nên khó khăn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã xác định “ Nhiệm vụ bức thiết trước mắt là ổn định tình hình kinh tế - chính trị”. Chúng ta đã đổi mới từng phần, nhưng về cơ bản cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn ngự trị, nên tình hình kinh tế xã hội vẫn không thay đổi, càng đi vào trì trệ, khó khăn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng sau khi nhận định chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân, lại tiếp tục khẳng định: “Nhiệm vụ chung của những chặng đường đầu tiênlà ổn định mọi mặt tìh ình kinh tế xã hội, xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc công nghiệp hóa trong chặng đường tiếp theo”. Từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, với đường lối đổi mới toàn diện, qua 10 năm phấn đấu gian khổ, chúng ta đã giành được những thành tựu quan trọng về đổi mới tư duy lí luận, những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế, trong sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, về cải thiện đời sống nhân dân, về giữ vững quốc phòng, an ninh…Chúng ta chẳng những trụ được trong bão táp mà còn phát triển mạnh mẽ. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa vững mạnh: chúng ta đã hoàn thành những nhiệm vụ của chặng đường đầu và bước vào chặng đường tiếp theo đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ. Thông qua thực hiện đường lối này, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở của chính nó. Đất nước ta đi lên từ một nền kinh tế thấp kém nên khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa không thể không phát sinh. Cuộc đấu tranh giữa 2 con đường diễn ra như một tất yếu khách quan. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công sẽ hạn chế ở mức cao khuynh hướng muốn độc lập dân tộc đi vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Với đường lối đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân phấn đấu đến năm 2020 trở thành 1 nước công nghiệp. Gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là 1 bài học kinh nghiệm lịch sử lớn có giá trị lí luận thực tiễn và thiết thực đối với cách mạng Việt Nam. Đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta. Con đường này phù hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm hơn 70 năm qua là hoàn toàn đúng đắn. Ai nghĩ đi, làm khác đi là quay lưng lại với lịch sử, là đi ngược lại với lợi ích dân tộc, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam đang đặt đất nước trước thời cơ và vận hội mới cùng những thách thức và nguy cơ không thể xem thường. Giữ vững định hướng XHCN là 1 nguyên tắc của đổi mới mà thực chất là kiên định mục tiêu, lí tưởng của Đảng, kiên định con đường “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà dân tộc Việt Nam lựa chọn. Đây là bài học xuyên suốt toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam và là 1 trong những cội nguồn của chiến thắng mà nhân dân ta đã giành được từ khi có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó là động lực tạo ra sức mạnh để nhân dân ta thực hiện được những nhiệm vụ chiến lược mà Đảng đã đề ra.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxLSD-2.docx
Tài liệu liên quan