Hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với mục đích phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phục vụ và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là sử dụng các hình thức và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng là để đi lên chủ nghĩa xã hội. Với mục đích đó thì vấn đề đặt ra là các hoạt động kinh tế phải có lợi nhuận cao, mà lợi nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư, để có lợi nhuận cao thì phải sản xuất ra một lượng giá trị thặng dư cao tương ứng. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho ta những giải pháp để tăng khối lượng giá trị thặng dư của nền kinh tế.
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2555 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích giá trị thặng dư về mặt chất và mặt lượng. Ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu vấn đề này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trị thặng dư cao hơn giá trị thặng dư bình thường do có giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá đó. Thực chất của giá trị thặng dư siêu ngạch chính là giá trị thặng tương đối, bởi vì nó đều do tăng năng suất lao động mà có. Chỉ khác ở chỗ: giá trị thặng dư tương đối do tăng năng suất lao động xã hội, do đó, tất cả các nhà tư bản đều được hưởng. Còn giá trị thặng dư siêu ngạch là do tăng năng suất lao động cá biệt, nên chỉ có những nhà tư bản nào có năng suất lao động cá biệt cao hơn năng suất lao động xã hội thì mới được hưởng giá trị thặng dư siêu ngạch này.
Khi các doanh nghiệp đều ứng dụng công nghệ mới và hạ giá trị cá biệt của hàng hoá thì giá trị thị trường sẽ giảm xuống, người tiêu dùng được mua hàng hoá rẻ hơn trước, tức là giá của những tư liệu sinh hoạt giảm, nhờ đó sẽ hạ được thời gian lao động xã hội cần thiết xuống, và nhà tư bản thu giá trị thặng dư tương đối. Do các doanh nghiệp đều có trình độ công nghệ như nhau nên không ai thu được giá trị thặng dư siêu ngạch nữa, giá trị thặng dư siêu ngạch khi đó chuyển thành giá trị thặng dư tương đối.
Cần để ý rằng, máy móc (máy móc tiên tiến cũng vậy) không tạo ra giá trị thặng dư, nhưng nó tạo điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị của thị trường, nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên.
Mặt lượng của giá trị thặng dư
Mặt lượng của giá trị thặng dư biểu hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư, ở khối lượng giá trị thặng dư, và ở trong các hình thức của giá trị thặng dư.
Tỷ suất giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ tính theo phầm trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến (ký hiệu là m’).
Như vậy, ta có thể thấy tỷ suất giá trị thặng dư phụ thuộc vào mối quan hệ giữa phần ngày lao động cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động, và thời gian lao động thặng dư. Mà dưới CNTB, phần thời gian lao động thặng dư là phần thời gian lao động không công của người công nhân cho nhà tư bản. Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ (mức độ) bóc lột của nhà tư bản với công nhân, tức là nói lên sự bóc lột theo chiều sâu. Để chứng minh cho kết luận này, ta hãy đi so sánh giá trị thặng dư và phần tư bản trực tiếp sinh ra nó.
Nhà tư bản ứng trước một số tư bản là C để tiến hành sản xuất, tìm kiếm giá trị thặng dư, giá trị thặng dư đó được biểu hiện ở phần dư trong giá trị của sản phẩm so với tổng số giá trị của các yếu tố sản xuất ra sản phẩm ấy.
Ta có giá trị của sản phẩm (ký hiệu là C’) là: C’ = C + m, trong đó m là giá trị thặng dư.
Tư bản C được phân chia thành hai phần: một phần được gọi là tư bản bất biến, ký hiệu là c, chi cho những tư liệu sản xuất; một phần được gọi tư bản khả biến, ký hiệu là v, chi ra để mua sức lao động. Vậy C = c + v. Ví dụ như nhà tư bản đã ứng trước 16 đồng, trong đó c = 12 đồng, v = 4 đồng. Đến đây ta có thể viết lại công thức tính giá trị của một sản phẩm như sau: C’ = c + v + m. Ví dụ như giá trị của sản phẩm đó là C’ = 20 đồng, vậy giá trị thặng dư m = 4 đồng.
Như đã làm rõ ở phần trên, thì c là bộ phận giá trị được chuyển hoá toàn bộ vào trong giá trị của sản phẩm, còn v là bộ phận giá trị trực tiếp sinh ra m.
Chúng ta đã thấy rằng, trong một ngày lao động, người công nhân không chỉ sản xuất ra giá trị của sức lao động của mình, tức là chỉ sản xuất ra giá trị những tư liệu sinh hoạt hàng ngày cần thiết cho anh ta mà còn tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Vì anh ta sản xuất trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội, cho nên anh ta không trực tiếp sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, mà chỉ sản xuất ra giá trị bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt của anh ta. Phần ngày lao động mà anh ta dùng để sản xuất ra giá trị những tư liệu sinh hoạt hàng ngày cần thiết đó, ta gọi là thời gian lao động cần thiết, lao động trong thời gian ấy gọi là lao động cần thiết, và lao động này của người công nhân được nhà tư bản trả bằng phần tư bản v. Hay lao động cần thiết được biểu hiện bằng số tư bản v. Phần thứ hai trong ngày lao động, hay là phần thời gian người công nhân làm quá thời gian lao động cần thiết, mà lao động trong phần thời gian này, cũng làm cho người công nhân phải hao phí sức lao động của mình, nhưng lại không tạo ra giá trị nào cho mình cả, mà giá trị tạo ra khi đó là giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Ta gọi phần thời gian này là thời gian lao động thặng dư, lao động trong thời gian này là lao động thặng dư, lao động thặng dư này được biểu hiện bằng giá trị thặng dư m.
Tỷ suất giá trị thặng dư theo khái niệm trên là: m’ = m = 4 = 100%
v 4
Và theo phân tích trên thì m = lao động thặng dư
v lao động cần thiết
Công thức tỷ suất giá trị thặng dư : m’= lao động thặng dư , chỉ ra chính
lao động cần thiết
xác tỷ lệ giữa hai bộ phận cấu thành của ngày lao động. Nếu tỷ lệ đó là 100% , thì người công nhân đã làm nửa ngày cho bản thân, và nửa ngày cho nhà tư bản.
Tóm lại, tỷ suất giá trị thặng dư đã biểu hiện chính xác mức độ tư bản bóc lột sức lao động, hay mức độ nhà tư bản bóc lột người công nhân.
Khối lượng giá trị thặng dư
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng số tư bản khả biến được sử dụng. Ký hiệu là M.
Như vậy, khối lượng giá trị thặng dư có thể được biểu hiện bằng công thức:
M = m’.V
(Trong đó, V là tổng số tư bản khả biến được sử dụng.)
Nhìn vào công thức trên ta thấy,ở cùng một trình độ bóc lột (m’) nhất định, nếu nhà tư bản sử dụng càng nhiều tư bản khả biến thì khối lượng giá trị thặng dư thu được sẽ càng lớn. Như vậy,có thể kết luận là, khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô của sự bóc lột, hay đó là sự bóc lột theo chiều rộng.
Sự thay đổi trong đại lượng của giá trị thặng dư
Chúng ta giả định rằng: hàng hoá được bán theo giá trị của nó, và giá cả sức lao động có thể cao hơn giá trị của nó, nhưng không bao giờ thấp hơn giá trị của nó. Khi đã giả định như thế thì sự thay đổi của đại lượng giá trị thặng dư sẽ được quyết định bởi 3 nhân tố sau: một là độ dài của ngày lao động; hai là cường độ bình thường của lao động; ba là sức sản xuất của lao động. Mà 3 nhân tố này có thể kết hợp với nhau để tạo ra sự thay đổi của đại lượng giá trị thặng dư.
Đại lượng của ngày lao động và cường độ lao động không đổi (cho sẵn), sức sản xuất của lao động thay đổi
Đại lượng của ngày lao động không đổi, có nghĩa là giá trị của ngày lao động đó không đổi, hay giá trị mới được tạo ra trong ngày lao động là không đổi. Giá trị mới tạo ra này bao gồm giá trị sức lao động và giá trị thặng dư . Vì thế, trong điều kiện sản xuất nhất định, thì không thể có sự cùng tăng lên hay cùng giảm xuống của giá trị sức lao động và giá trị thặng dư. Do giá trị của sức lao động không giảm xuống, thì giá trị thặng dư không tăng lên, nên để có sự thay đổi của hai đai lượng đó, thì sức sản xuất của lao động phải có sự thay đổi. Giả định: thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, nếu sức sản xuất của lao động tăng lên, thì chỉ cần một thời gian ít hơn 4 giờ để sản xuất ra khối lượng tư liệu sinh hoạt hàng ngày cần thiết mà trước đây phải cần 4 giờ để sản xuất, do đó, giá trị của sức lao động sẽ giảm xuống. Ngược lại, nếu sức sản xuất của lao động giảm xuống, thì giá trị của sức lao động tăng lên. Như vậy, việc tăng năng suất lao động sẽ làm giảm giá trị của sức lao động, và đồng thời làm tăng giá trị thặng dư, trong khi đó, việc năng suất lao động giảm sẽ làm tăng giá trị của sức lao động và làm giảm giá trị thặng dư. Cần phải chú ý là việc tăng hay giảm của giá trị thặng dư bao giờ cũng là kết quả (chứ không phaỉ là nguyên nhân) của việc tăng hay giảm tương ứng của giá trị sức lao động.
Ngày lao động không đổi, sức sản xuất của lao động không đổi, cường độ lao động thay đổi
Khi cường độ lao động tăng lên, tức là chi phí lao động tăng lên trong một khoảng thời gian, thì một ngày lao động có cường độ cao hơn sẽ sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn so với một ngày lao động có cường độ thấp hơn mà có số giờ lao động ngang nhau. Trường hợp này cũng gần giống như việc tăng sức sản xuất của lao động đều đem lại số sản phẩm lớn hơn trong cùng một thời gian lao động, nhưng giá trị của mỗi một đơn vị sản phẩm trong trường hợp này không đổi vì trước cũng như sau, để làm ra một sản phẩm đều hao phí một lượng lao động như nhau; còn trong trường hợp tăng sức sản xuất của lao động, giá trị của mỗi một đơn vị sản phẩm giảm đi vì nó tốn ít lao động hơn trước. Việc tăng cường độ lao động, làm khối lượng sản phẩm sản xuất ra khi đó tăng lên, giá trị lại không giảm, làm tổng giá trị tăng, trong khi đó giá trị của sức lao động không đổi, do đó, làm giá trị thặng dư tăng lên. Việc đó khác với việc tăng sức sản xuất của lao động, làm cho giá trị của sức lao động giảm đi, mà tổng số giá trị không tăng lên (vì tuy khối lượng sản phẩm tăng, nhưng giá trị của mỗi sản phẩm lại giảm đi tương ứng), do đó giá trị thặng dư tăng lên.
Sức sản xuất của lao động và cường độ lao động không thay đổi, ngày lao động thay đổi
Ngày lao động có thể thay đổi theo hai chiều, nó có thể được rút ngắn lại hay kéo dài ra.
Việc rút ngắn ngày lao động, trong điều kiện năng suất lao động và cường độ lao động không thay đổi, không làm thay đổi giá trị của sức lao động, hay không làm thay đổi số thời gian lao động cần thiết, vì thế nó làm thời gian lao động thặng dư bị rút ngắn, hay làm giá trị thặng dư giảm. Đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư giảm làm đại lượng tương đối của nó so với đại lượng không đổi của giá trị sức lao động cũng giảm xuống. Nên chỉ có bằng cách giảm giá cả của sức lao động xuống thì nhà tư bản mới không bị tổn thất. Nếu không thì việc rút ngắn thời gian lao động bao giờ cũng gắn liền với sự thay đổi của năng suất lao động và cường độ lao động.
Kéo dài thời gian lao động: Giả sử thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, hay giá trị của sức lao động là 4 đồng, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ và giá trị thặng dư là 4 đồng. Toàn bộ ngày lao động là 8 giờ, và biểu hiện trong sản phẩm là 8 đồng. Nếu ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ, và giá cả sức lao động không thay đổi, thì đại lượng tương đối của giá trị thặng dư tăng lên cùng với đại lượng tuyệt đối của nó. Mà vì giá trị của sức lao động không đổi, giá trị thặng dư lại tăng lên, do đó, đại lượng tương đối của giá trị sức lao động so với giá trị thặng dư sẽ giảm xuống. Như vậy, giá trị thặng dư tăng lên là nguyên nhân làm đại lượng tương đối của giá trị sức lao động giảm. Khi kéo dài ngày lao động cho đến một điểm nhất định, thì sự hao mòn sức lao động tăng lên, người lao động cần nhiều tư liệu sinh hoạt hơn để bù đắp hao mòn đó, do đó, giá cả của sức lao động phải tăng lên, nhưng ngay cả khi giá cả của sức lao động có tăng lên thì giá trị của sức lao động cũng giảm đi tương đối so với giá trị thặng dư.
Sự thay đổi cùng lúc của ngày lao động, sức sản xuất và cường độ của lao động
Có hai trường hợp quan trọng sau cần phải nghiên cứu:
Sức sản xuất của lao động giảm xuống, đồng thời ngày lao động bị kéo dài.
Chúng ta nói đến sức sản xuất của lao động giảm xuống là nói đến những ngành lao động mà sản phẩm quyết định giá trị của sức lao động, như ngành nông nghiệp, sức sản xuất của lao động đã giảm xuống do độ màu mỡ của đất kém đi, và giá cả sản phẩm đó đắt lên một cách tương ứng.
Khi sức sản xuất của lao động giảm đi, thì như phân tích ở trên, giá trị của sức lao động sẽ tăng lên, thời gian lao động cần thiết tăng lên, làm thời gian lao động thặng dư giảm đi, giá trị thặng dư cũng vì thế mà giảm xuống. Nếu như ngày lao động được kéo dài để giá trị thặng dư được sinh ra khi đó đúng bằng lượng giá trị thặng dư trước đó, thì đại lượng của nó vẫn giảm xuống tương đối so với giá trị sức lao động. Và nếu tiếp tục kéo dài thời gian lao động thì có thể cả hai đại lượng tuyệt đối và tương đối của giá trị thặng dư có thể tăng lên.
Cường độ và năng suất lao động tăng lên cùng với việc rút ngắn ngày lao động
Khi cường độ và sức sản xuất của lao động tăng lên có nghĩa là thời gian lao động cần thiết được rút ngắn lại, đồng thời, thời gian lao động thặng dư được kéo dài ra, giá trị thặng dư được sinh ra tăng lên. Và do đó, có thể rút ngắn ngày lao động đến khi thời gian lao động thặng dư không còn nữa, nhưng cả khi sức sản xuất và cường độ của lao động có tăng đi nữa, giới hạn thời gian lao động cần thiết vẫn sẽ được nới rộng, bởi vì, càng ngày con người càng có nhu cầu sinh sống, hoạt động phong phú hơn, đồng thời một phần lao động thặng dư ngày nay sẽ được tính vào lao động cần thiết, cụ thể là phần lao động cần thiết cho việc thành lập quỹ dự trữ và quỹ tích luỹ xã hội. Năng suất lao động càng phát triển, thì lại càng có thể rút ngắn ngày lao động, và ngày lao động càng rút ngắn lại thì cường độ lao động càng có thể tăng lên.
Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
Từ quá trình nghiên cứu trên, ta có thể khẳng định, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới do sức lao động tạo ra, dư ra ngoài giá trị sức lao động, là lao động không được trả công, nhưng trên bề mặt xã hội nó lại được biểu hiện ra là một khoản dôi ra ngoài toàn bộ tư bản ứng trước, gọi là lợi nhuận. Nhưng do phân công lao động, tư bản cũng được chia thành tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay… nên lợi nhuận cũng được chia thành những hình thái cụ thể như: lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô…
Lợi nhuận
Vì chi phí TBCN nhỏ hơn giá trị xã hội của hàng hoá cho nên nhà tư bản đem hàng hoá của mình ra thị trường bán chỉ cần cao hơn chi phí sản xuất TBCN là họ đã thu được 1 khoản tiền lời. Họ gọi nó là lợi nhuận (p)
Theo Cac-Mac 1 khi mà giá trị thặng dư được đem so sánh với toàn bộ tư bản ứng trước và được quan niệm như là con đẻ của tư bản ứng trước thì mang hình tháI biến tướng là lợi nhuận
So sánh lợi nhuận (p) và giá trị thặng dư (m) ta thấy :
+ Về mặt lượng p >= , < m. ĐIều này còn tuỳ thuộc vào giá bán hàng hoá của nhà tư bản trên thị trường. Nhưng trong toàn bộ nền kinh tế tư bản thì tổng p = tổng m
Về mặt chất : xuất hiện phạm trù lợi nhuật lại che dấu 1 bước quan hệ bóc lột TBCN.
Lợi nhuận thương nghiệp
Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp là: 1 phần của giá trị thặng dư mà nhà tư bản công nhiệp đã bóc lột của công nhân làm thuê trong quá trình sản xuất và nhường lại cho nhà tư bản thương nghiệp. Vì nhà tư bản thương nghiệp đã đứng ra đảm nhiệm khâu bán hàng cho nhà tư bản công nghiệp.
Vậy, vì sao mà nhà tư bản công nghiệp lại nhường một phần giá trị thặng dư của mình cho nhà tư bản thương nghiệp? Lý do là: nhà tư bản thương nghiệp đã đứng ra đảm nhiệm khâu bán hàng, để nhà tư bản công nghiệp rảnh tay tập trung vào sản xuất. Nhờ đó mà nhà tư bản công nghiệp rút ngắn được vòng tuần hoàn vốn (tư bản), từ đó thu được nhiều lợi nhuận hơn. Hơn nữa, khi tham gia vào quá trình đó, nhà tư bản thương nghiệp cũng phải ứng vốn ra để kinh doanh, do họ cũng muốn có lợi nhuận.
Nhường bằng cách nào? Nhà tư bản công nghiệp nhường bằng cách bán hàng hoá cho nhà tư bản thương nghiệp với giá bán buôn hay giá trị công nghiệp, giá bán này nhỏ hơn giá trị hàng hoá, bằng chi phí sản xuất cộng lợi nhuận công nghiệp. Rồi nhà tư bản thương nghiệp đem hàng hoá bán cho người tiêu dùng theo giá bán lẻ bằng giá trị hàng hoá hay bằng chi phí sản xuất cộng lợi nhuận công nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp.
Lợi tức
Bản chất của lợi tức là 1 phần của giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà các nhà tư bản hoạt động trả cho nhà tư bản cho vay về món tiền mà nhà tư bản cho vay đã bỏ ra cho nhà tư bản hoạt động sử dụng.
Lợi tức là 1 tỷ lệ phần trăm rất nhỏ so với tổng giá trị của tư bản cho vay. Và nó được coi là giá cả của tư bản cho vay, do nhà tư bản hoạt động trả cho nhà tư bản cho vay để được sử dụng tư bản cho vay.
Địa tô tư bản chủ nghĩa
Dưới chủ nghĩa tư bản có hình thức sở hữu độc quyền về đất đai, nó cho phép địa chủ có quyền chiếm hữu một phần giá trị thặng dư do những hoạt động diễn ra trên mảnh đất ấy sinh ra, không kể đất đai đó được dùng trong nông nghiệp, cho xây dựng, cho đường sắt hay cho bất kỳ một mục đích sản xuất nào khác. Địa tô chỉ là một phần của giá trị thặng dư sau khi đã trừ đi phần lợi nhuận của tư bản kinh doanh nông nghiệp.
Như thế, có thể nói lợi nhận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô chỉ là các phần khác nhau của giá trị thặng dư - được sinh ra từ lao động của người công nhân làm thuê - phân giải thành.
ý nghĩa thực tiễn rút ra được khi nghiên cứu về giá trị thặng dư đối với nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Nghiên cứu để có nhận thức đúng về giá trị thặng dư là nhằm tránh những nghi ngờ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nước ta đang thực hiện
Sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các học giả tư sản đã thừa cơ đẩy mạnh công kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin; nhiều nhà khoa học ở các nước XHCN cũng hoài nghi, thậm chí phê phán, đòi xét lại các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có học thuyết giá trị thặng dư. Họ làm như vậy là bởi vì họ không hiểu được cốt lõi lý luận của Mác, nhất là không nắm được phương pháp duy vật biện chứng của Mác trong nghiên cứu và trình bày học thuyết giá trị thặng dư. Do đó, việc nghiên cứu về giá trị thặng dư sẽ giúp tránh được những sai lầm như thế.
Hơn nữa, như Ph. Ăng-ghen đã nói: “Nhờ hai phát hiện ấy (chủ nghĩa duy vật lịch sử và lý luận giá trị thặng dư), chủ nghĩa xã hội đã trở thành một khoa học, và giờ đây vấn đề trước hết là phải tiếp tục nghiên cứu nó trong mọi chi tiết và mọi mối quan hệ tương hỗ của nó”, điều đó có nghĩa là việc nghiên cứu về giá trị thặng dư không bao giờ là thừa. Đặc biệt, hiện nay, chủ nghĩa tư bản đã và đang có sự thay đổi, có sự điều chỉnh để bảo vệ cho chính mình, mà những chính sách điểu chỉnhh ấy đã làm cho sự bóc lột trở nên ngày càng tinh vi hơn, bản chất bóc lột được che giấu. Nếu như không nghiên cứu về lý luận giá trị thặng dư này và đặt nó trong tình hình mới, nhằm bổ sung, hoàn chỉnh lý luận giá trị thặng dư, cho phù hợp với tình hình mới, thì chúng ta rất dễ có những nghi ngờ.
Việc nghiên cứu về mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư giúp chúng ta thấy được thực chất của giá trị thặng dư, từ đó không đồng nhất giá trị thặng dư với sự bóc lột, tránh có những nhận thức sai lầm về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang được áp dụng ở nước ta hiện nay
Hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với mục đích phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phục vụ và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là sử dụng các hình thức và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng là để đi lên chủ nghĩa xã hội. Với mục đích đó thì vấn đề đặt ra là các hoạt động kinh tế phải có lợi nhuận cao, mà lợi nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư, để có lợi nhuận cao thì phải sản xuất ra một lượng giá trị thặng dư cao tương ứng. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho ta những giải pháp để tăng khối lượng giá trị thặng dư của nền kinh tế.
Nghiên cứu về giá trị thặng dư sẽ góp phần thay đổi nhận thức sai lầm trước đây về giá trị thặng dư, coi nó là phạm trù riêng của CNTB, đồng nhất nó với sự bóc lột cần phải xoá bỏ. Việc nghiên cứu sẽ cho nhận thức đúng rằng: “giá trị thặng dư là phạm trù chung của bất kì chế độ xã hội nào có thời gian lao động lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết”. Và cái quyết định sự bóc lột không phải là lượng giá trị thặng dư được sinh ra là nhiều hay ít, mà là việc phân phối giá trị thặng dư đã được tạo ra đó như thế nào. Từ đó, những định kiến về kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân sẽ được cải thiện, những người làm kinh tế tư nhân sẽ không còn phải e dè, mà tự do phát huy năng lực của mình góp phần vào việc phát triển kinh tế.
Nghiên cứu giá trị thặng dư có ý nghĩa trong việc đề ra các chính sách kinh tế phù hợp
Nghiên cứu về quá trình sản xuất giá trị thặng dư tương đối trong đó có việc áp dụng kỹ thuật trong sản xuất, sẽ giúp xây dựng, hoàn chỉnh các chính sách, chiến lược phát triển khoa học – công nghệ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Khi nghiên cứu về giá trị thặng dư, ta thấy sự tác động của quy luật giá trị thặng dư sẽ làm cạnh tranh càng trở nên gay gắt, dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo. Vì vậy, phải có những chính sách (như xoá đói giảm nghèo, điều tiết thu nhập dân cư) để hạn chế đặc điểm này.
Chương 2:
Thực trạng việc nghiên cứu và vận dụng phạm trù giá trị thặng dư ở nước ta hiện nay
Quan điểm của Đảng về việc nghiên cứu và vận dụng học thuyết giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay
Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng được đề ra tại Đại hội VI và được các Đại hội sau hoàn chỉnh đã xác định nhiệm vụ: “phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý cuả Nhà nước ở nước ta.” Đồng thời trong văn kiện Đại hội Đảng VIII, Đảng ta đã xác định: “sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là những thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”. Đó là Đảng ta thừa nhận sự tồn tại của các phạm trù và các quy luật kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường, trong đó có phạm trù giá trị thặng dư. Mà trong cương lĩnh thông qua tại Đại hội VII, Đảng ta đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng”. Thế có nghĩa là việc vận dụng lý luận về giá trị thặng dư của Mác vào sự hoạt động của nền kinh tế nước ta đã được khẳng định. Trong các yêu cầu để vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định: khi vận dụng một quan điểm tư tưởng nào đó của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm chắc bối cảnh ra đời, phạm vi nhiệm vụ mà tư tưởng, nguyên lý đó phải giải quyết. Không thể chỉ dựa vào một tư tưởng, luận điểm nào đó mà không rõ bối cảnh ra đời của nó như thế nào đã bê nguyên xi, vận dụng vào tình hình thực tiễn. Từ đó cho thấy yêu cầu khi vận dụng lý luận giá trị thặng dư của Mác vào hoạt động của nền kinh tế nước ta, là phải nghiên cứu để nắm vững lý luận này, như Đảng đã khẳng định.
Đại hội Đảng IX khẳng định: “phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Quan điểm đó chính là sự vận dụng những tư tưởng của Mác về các giai đoạn phát triển kỹ thuật trong sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Để hạn chế bớt mặt tiêu cực của sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư, đó là sự phân hoá giàu nghèo, tình trạng cạnh tranh găt gắt, Đại hội IX cũng nhấn mạnh: “Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.”
Thực trạng nghiên cứu và vận dụng lý luận giá trị thặng dư ở nước ta hiện nay
Tình hình nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư hiện nay ở nước ta
Trong hơn 15 năm năm đổi mới qua, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước và góp phần vào việc xây dựng, hoàn chỉnh các chính sách phát triển kinh tế, nhiều cuộc hội thảo, cũng như nhiều công trình nghiên cứu (vận dụng)về học thuyết kinh tế của Mác, và cụ thể là về học thuyết giá trị thặng dư đã được thực hiện. Trong đó, các nhà khoa học đã làm rõ thêm những quan điểm, những nguyên tắc và nội dung vận dụng các học thuyết kinh tế của Mác (trong đó có lý luận giá trị thặng dư) vào điều kiện nước ta hiện nay, nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu dân, giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong điều kiện, hoàn cảnh mới, các nghiên cứu đã chứng minh những luận điểm đúng đắn của Mác: “ chỉ có lao động mới tạo ra giá trị và giá trị thặng dư; máy móc tuy có vai trò không thể thiếu trong quá trình sản xuất, là điều kiện để sản xuất ra giá trị thặng dư, nhưng nó không làm tăng giá trị mà chỉ chuyển dần giá trị của bản thân nó vào trong sản phẩm mới; phân tích làm rõ đặc điểm vai trò của lao động trí tuệ, lao động quản lý trong quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thặng dư; khẳng định sản xuất tạo ra giá trị thặng dư hay lợi nhuận vẫn là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất TBCN, CNTB ngày nay vẫn là chế độ xã hội dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê…”. Qua những lý luận đó, các nhà khoa học đã khẳng định sự đúng đắn của lý luận giá trị thặng dư của Mác trong điều kiện mới của thời đại.
Thực trạng sản xuất giá trị thặng dư ở nước ta
Vận dụng lý luận giá trị thặng dư trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là việc phát triển nguồn nhân lực; khuyến khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế; áp dụng khoa học công nghệ và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60632.doc