Tiểu luận Phân tích khái niệm cán bộ, công chức theo Luật cán bộ, công chức và những điểm mới so với khái niệm cán bộ, công chức theo Pháp lệnh cán bộ, công chức

Pháp lệnh cán bộ, công chức ra đời là văn bản pháp lý cao nhất khi đó của nước ta về công chức, đánh dấu bước chuyển biến cơ bản về công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước. Sau 2 năm thực hiện, Pháp lệnh đã bộc lộ những hạn chế, nên đã được sửa đổi vào năm 2000. Tuy vậy, ngay cả Pháp lệnh sửa đổi vẫn không phân định rõ ràng được các đối tượng là công chức, chẳng hạn những người làm việc trong đơn vị sự nghiệp của nhà nước là công chức, trong khi đó những người làm việc trong cơ quan hành chính xã, phường, thị trấn lại không phải là công chức. Nhằm khắc phục những hạn chế đó, Pháp lệnh được sửa đổi một lần nữa vào năm 2003.

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 15022 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích khái niệm cán bộ, công chức theo Luật cán bộ, công chức và những điểm mới so với khái niệm cán bộ, công chức theo Pháp lệnh cán bộ, công chức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Quản lý nguồn nhân lực nói chung và công chức nói riêng là một hoạt động quản lý bao gồm nhiều nội dung. Mỗi nội dung có một vị trí nhất định và có mối quan hệ mật thiết với nhau giúp hoàn thiện bộ máy tổ chức và quản lý cán bộ, công chức của nhà nước ta. Từ thực trạng trong công tác tổ chức và hoạt động của đội ngũ cán bộ công chức của nhà nước hiện nay, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần có những văn bản pháp luật quy định chặt chẽ về cán bộ, công chức để hoạt động quản lí hành chính của nhà nước ta có hiệu quả hơn nữa.  Chính vì vậy Luật cán bộ, công chức đã ra đời thay thế cho Pháp lệnh cán bộ, công chức không còn phù hợp với yêu cầu quản lí của nhà nước nữa. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này nhóm em xin chọn đề tài: “Phân tích khái niệm cán bộ, công chức theo Luật cán bộ, công chức và chỉ ra những điểm mới so với khái niệm cán bộ, công chức theo Pháp lệnh cán bộ, công chức”. NỘI DUNG I. PHÂN TÍCH KHÁI NIỆM CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THEO LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC (Luật CBCC): Ngày 13/11/2008, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII, đã thông qua Luật cán bộ, công chức. Đây là một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước đến nay (luật) và cắt nghĩa được rõ ràng về các khái niệm cán bộ, công chức. 1. Khái niệm cán bộ: Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 4 Luật CBCC 2008: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. Qua khái niệm, chúng ta có thể thấy một số đặc điểm của cán bộ dưới các góc độ sau: a) Chế độ bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm cán bộ: Cán bộ là những người được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện. Riêng với cán bộ cấp xã thì chỉ được bầu cử không có chế độ phê chuẩn hay bổ nhiệm. Tuy nhiên, bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm còn phụ thuộc vào việc đó sẽ là cán bộ của Đảng cộng sản Việt Nam, của tổ chức, chính trị - xã hội hay thuộc Nhà nước. Bởi bầu cử, phê chuẩn hay bổ nhiệm cán bộ còn chịu sự tác động của quy định, điều lệ đối với từng cơ quan, đơn vị, tổ chức đó. Ví dụ: Điều 23 Luật CBCC 2008 qui định: “Việc bầu cử, bổ nhiệm chức vụ, chức danh cán bộ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội được thực hiện theo quy định của điều lệ và pháp luật có liên quan”. Theo đó, Đảng viên có quyền ứng cử, đề cử, bầu các chức danh, chức vụ trong cơ quan lãnh đạo của Đảng như Tổng Bí thư. Theo Điều 24 Luật CBCC 2008 qui định: “Việc bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm chức vụ, chức danh cán bộ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước từ trung ương đến cấp huyện được thực hiện theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật kiểm toán nhà nước, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân”. Ví dụ: “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội do UBTV Quốc hội giới thiệu. Theo đề nghị của Chủ tịch nước, Quốc hội bầu Phó Chủ tịch nước trong số các đại biểu Quốc hội; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh”. (Điều 81 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001). b) Phạm vi hoạt động của cán bộ: Cán bộ giữ các chức vụ, chức danh và hoạt động trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội. Ví dụ: Cán bộ hoạt động trong cơ quan nhà nước như: Tổng kiểm toán nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán nhà nước; cán bộ hoạt động trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam ở cấp ủy như: bí thư, các phó bí thư tỉnh ủy, huyện ủy. c) Thời gian công tác của cán bộ: Cán bộ công tác theo nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ là thời hạn giữ chức danh,chức vụ. Thời hạn đó thường được định ra trước trong các văn bản chính thức. Ví dụ: Nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước là 7 năm, có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ (khoản 3 Điều 17 Luật kiểm toán nhà nước năm 2005). d) Chế độ lao động: Cán bộ được biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Theo Điều 12 Luật CBCC thì cán bộ “Được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước. Cán bộ, công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn hoặc trong các ngành, nghề có môi trường độc hại, nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật. Và được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.” 2. Khái niệm công chức: Theo khoản 2 Điều 4 Luật CBCC 2008: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.” Qua khái niệm, chúng ta có thể thấy một số đặc điểm của công chức dưới các góc độ sau: a) Chế độ tuyển dụng, bổ nhiệm: Công chức phải là những người được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào ngạch, chức danh, chức vụ trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện. Ví dụ: Phó chánh án tòa án nhân dân tối cao; chánh án, phó chánh án các tòa và chuyên trách (Khoản 1 Điều 7 Nghị định 06/2010/NĐ–CP quy định những người là Công chức). Công chức phải có đủ trình độ chuyên môn phù hợp với ngạch, chức danh, chức vụ. Các vấn đề liên quan tới bổ nhiệm, tuyển dụng công chức vào các chức danh, chức vụ và bổ nhiệm vào các ngạch công chức quy định cụ thể ở chương IV, Luật CBCC 2008. Đồng thời các vấn đề này còn phụ thuộc vào quy định dành riêng đối với các chức danh, chức vụ khác nhau; cùng một chức danh, chức vụ nhưng thuộc các tổ chức, cơ quan, đơn vị khác nhau; cùng một chức danh, chức vụ thuộc cùng một loại tổ chức, cơ quan, đơn vị nhưng ở các cấp khác nhau. Ví dụ: Tiêu chuẩn đối với công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã: trung cấp Luật trở lên, phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn, sau khi được tuyển dụng, phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước, lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã. Còn đối với công chức Tài chính – Kế toán cấp xã: trung cấp Tài chính Kế toán trở lên, phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn; sau khi tuyển, phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước. b) Phạm vi hoạt động: Phạm vi hoạt động của công chức rộng hơn rất nhều so với cán bộ. Nếu như cán bộ là những người hoạt động trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thì công chức xuất hiện cả ở cơ quan đơn vị thuộc quân đội nhân dân, Công an nhân dân; trong bộ máy lãnh đạo quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập. Ví dụ: Điều 10 Nghị định 06/2010/NĐ–CP quy đinh đối tượng là công chức trong cơ quan, đơn vị của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân: “Người làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.” c) Thời gian công tác: Công chức đảm nhiệm công tác từ khi được bổ nhiệm, tuyển dụng, cho tới khi nghỉ hưu theo quy định của bộ luật lao động mà không hoạt động theo nhiệm kỳ như cán bộ ( Điều 60 Luật CBCC 2008). Chấm dứt đảm nhiệm chức vụ khi đến tuổi nghỉ hưu: 55 tuổi đối với nữ giới và 60 tuổi đối với nam giới (quy định tại điểm a khoản 1 Điều 50 – Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006). d) Chế độ lao động: Công chức được biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước (Điều 12 Luật CBCC 2008); đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. II. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA KHÁI NIỆM CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THEO LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC SO VỚI PHÁP LỆNH CÁN BỘ, CÔNG CHỨC: Ngày 17/11/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 95/1998/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Theo Nghị định này thì công chức là “công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công việc thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp; những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và công nhân quốc phòng”. Pháp lệnh cán bộ, công chức ra đời là văn bản pháp lý cao nhất khi đó của nước ta về công chức, đánh dấu bước chuyển biến cơ bản về công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước. Sau 2 năm thực hiện, Pháp lệnh đã bộc lộ những hạn chế, nên đã được sửa đổi vào năm 2000. Tuy vậy, ngay cả Pháp lệnh sửa đổi vẫn không phân định rõ ràng được các đối tượng là công chức, chẳng hạn những người làm việc trong đơn vị sự nghiệp của nhà nước là công chức, trong khi đó những người làm việc trong cơ quan hành chính xã, phường, thị trấn lại không phải là công chức. Nhằm khắc phục những hạn chế đó, Pháp lệnh được sửa đổi một lần nữa vào năm 2003. Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003 đã phân biệt được đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước và gọi họ là viên chức, đồng thời Pháp lệnh sửa đổi đã quy định thêm công chức xã, phường, thị trấn. Điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003 quy định như sau: “1. Cán bộ, công chức quy định tại pháp lệnh này là công dân Việt Nam trong biên chế, bao gồm: a) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh ); ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện ) b) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; c) Những người được tuyển, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; d) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; đ) Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; e) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân dội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp; g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo theo nhiệm kỳ trong Thường trực HĐND, UBND; Bí thư, phó Bí thư Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn; h) Những người được tuyển dụng, giao giữ chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã; 2. Cán bộ, công chức quy định tại điểm a, b, c, d, đ, e, g và h khoản 1 Điều này được hưởng lương từ ngân sách nhà nước; cán bộ, công chức quy định tại điểm d khoản 1 Điều này được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu từ sự nghiệp theo quy định của Pháp luật.” Tuy đã được sửa đổi nhiều lần nhưng cả Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 và Pháp lệnh công chức sửa đổi năm 2003 đều không đưa ra được khái niệm về cán bộ, khái niệm về công chức cụ thể, rõ ràng  mà chỉ đưa ra thuật ngữ chung về cán bộ, công chức phân biệt với viên chức. Để khắc phục mặt hạn chế của các văn bản từ truớc đến nay là chưa làm rõ được các khái niệm về cán bộ, công chức, ngày 13/11/2008, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII, đã thông qua Luật cán bộ, công chức.  Luật cán bộ công chức đã quy định rõ ràng về xác định ai là công chức? Ai là cán bộ? Ai là cán bộ xã, phường? Theo Luật cán bộ, công chức thì các đối tượng trong bộ máy lãnh đạo quản lí của đơn vị sự nghiệp công lập cũng được coi là công chức so với pháp lệnh tuy nhiên cũng chưa làm rõ hẳn phạm vi của đối tượng này. Luật có sự phân chia rõ ràng giữa cán bộ, công chức các cấp trong hệ thống chính trị hiện nay (từ cấp Trung ương xuống cấp xã) và các điều kiện đảm bảo thi hành công vụ, thanh tra công vụ. Những điểm mới này giúp cho công tác quản lí cán bộ công chức các cấp trong hệ thống chính trị có hiệu quả hơn rất nhiều: a) Về đối tượng điều chỉnh: Luật CBCC năm 2008 đã thu hẹp phạm vi đối tượng áp dụng so với Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003 gắn với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Theo đó, đội ngũ viên chức làm việc trong khu vực sự nghiệp công lập chiếm số lượng rất lớn nhưng do đặc điểm và tính chất hoạt động của họ không mang tính quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước nên đối tượng này không thuộc phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật CBCC mà có Luật riêng để điều chỉnh là Luật viên chức. Đây là một bước tiến mới về nhận thức trong quá trình tiếp tục cải cách bộ máy hành chính nhà nước ta. Khi tách đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp ra khỏi Luật Cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích sự phát triển của các đơn vị sự nghiệp, góp phần đẩy mạnh quá trình xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức, nâng cao chất lượng phục vụ người dân của các đơn vị sự nghiệp.   b) Có sự phân định rõ ràng hơn về cán bộ, công chức: Cùng với việc thu hẹp đối tượng điều chỉnh, Luật CBCC 2008 đã phân định tương đối rõ ai là cán bộ, ai là công chức. Trước đây do điều kiện chiến tranh và thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tất cả những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, của Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội, kể cả trong các doanh nghiệp, lâm nông trường... đều được gọi chung trong cụm từ là "cán bộ công nhân viên chức" mà chưa có sự phân định rõ ràng, cụ thể. Đến năm 1993, khi thực hiện cải cách tiền lương, mới bước đầu phân định cán bộ, công chức trong khu vực hành chính sự nghiệp với những người làm việc trong khu vực sản xuất kinh doanh. Đây là tiền đề để Nhà nước ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 điều chỉnh Cán bộ, công chức trong khu vực hành chính sự nghiệp (gồm các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội) nhưng vẫn sử dụng chung cụm từ "cán bộ, công chức", mà chưa có sự phân định, tách bạch rõ ràng giữa cán bộ với công chức. Qua 10 năm thực hiện Pháp lệnh Cán bộ, công chức, do chưa phân định được rõ ràng ai là cán bộ, ai là công chức nên cơ chế quản lý và chế độ, chính sách do Nhà nước ban hành vẫn còn những hạn chế, chưa hoàn toàn phù hợp với từng nhóm đối tượng. Điều này ảnh hưởng đến quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ và đội ngũ công chức vốn có những đặc điểm hoạt động và công tác đặc thù riêng. Luật CBCC năm 2008 đã quy định rõ các tiêu chí phân định ai là cán bộ, ai là công chức. Từ định nghĩa mới này, đối tượng là “viên chức” sẽ không thuộc sự điều chỉnh của Luật Viên chức. Vì vậy, so với Pháp lệnh CBCC 2003, đối tượng cán bộ, công chức mà Luật cán bộ, công chức 2008 điều chỉnh sẽ hẹp hơn. c) Về cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn: Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi bổ sung năm 2003 chỉ quy định điều chỉnh đối tượng là một bộ phận là cán bộ chuyên trách; trong khi đó, Luật cán bộ, công chức 2008 tại khoản 3 Điều 4 quy định điều chỉnh đối tượng là toàn bộ cán bộ và công chức cấp xã. Như vậy, việc quy định cán bộ, công chức trong Luật vừa là kế thừa Pháp lệnh trước đó, vừa là phát triển cho phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. III. ĐÁNH GIÁ: Điểm mới trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 là đã phân định rõ đối tượng cán bộ và công chức và tách biệt với đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ do bộ luật khác quy định (Luật Viên chức có Hiệu lực 01/01/2012), trừ một số vị trí quản lý trong các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn là công chức. Đây là bước cải cách lớn nhất trong lịch sử nền công vụ ở Việt Nam, tách ra gần 1,5 triệu người làm việc trong khu vực sự nghiệp công lập, chiếm hơn 70% cán bộ công chức từ cấp trung ương đến cấp huyện trong hệ thống chính trị. Cũng nhờ có việc phân định rõ các đối tượng này nên các chính sách đối với cán bộ công chức được rõ ràng, phù hợp với đặc thù vị trí việc làm của cán bộ, công chức, không lẫn lộn với các đối tượng làm việc trong lĩnh vực sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, sau khi Luật Cán bộ, Công chức ra đời, thay thế Pháp lệnh Cán bộ công chức, nhưng Luật Viên chức thì chưa có hiệu lực áp dụng nên nhiều người làm việc trong các tổ chức sự nghiệp công lập băn khoăn về địa vị pháp lý của mình, lo ngại không được coi là “người Nhà nước” và các chế độ chính sách đối với họ không được duy trì như trước đây. Vì vậy, để khẳng định chế độ, chính sách của Nhà nước đối với lực lượng lao động rất quan trọng này, Chính phủ, Quốc hội đã ban hành Luật Viên chức và sắp có hiệu lực vào ngày 01/01/2012. KẾT LUẬN Xây dựng đội ngũ Cán bộ, Công chức có phẩm chất đạo đức, có trình độ, năng lực và tận tụy phục vụ nhân dân là một yếu tố có tính chất quyết định trong việc xây dựng một nền hành chính quốc gia chính quy, hiện đại, năng động thích ứng với với xu thế phát triển và hội nhập quốc tế. Với ý nghĩa đó, xuyên suốt quá trình lịch sử xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về cán bộ, công chức để đáp ứng cho từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Luật Cán bộ, Công chức năm 2008. Pháp lệnh Cán bộ. Công chức năm 1998 sửa đổi năm 2003. Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001. Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2005. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006. Nghị định số 95/1998/NĐ-CP về Tuyển dụng, sử dụng và quản lý Công chức. Nghị định số 06/2010/NĐ-CP Qui định những người là Công chức.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích khái niệm cán bộ, công chức theo Luật cán bộ, công chức và chỉ ra những điểm mới so với khái niệm cán bộ, công chức theo Pháp lệnh cán bộ, c.doc