MỤC LỤC
I. Sơ lược về tập đoàn Apple 7
1) Lịch sử hình thành của tập đoàn Apple. 7
2) Các sản phẩm của Apple 8
a) iPhone 9
b) Macbook. 10
c) iPod 13
d) iPad 14
3) Cơ cấu tổ chức 16
4) Sứ mạng và tầm nhìn 16
5) Triết lý kinh doanh 16
6) Liên minh chiến lược 16
a) Liên minh Apple và Microsoft 16
b) Liên minh Apple và Motorola 18
c) Liên minh Apple và Nike 19
II. Thành công trong chiến lược của Apple đối với sản phẩm
iPod 20
1) Khái quát về thị trường trước khi iPod ra đời 20
2) Chiến lược marketing thành công so với đối thủ cạnh tranh
là Sony với dòng sản phẩm Walkman 21
3) iPod và chiến lược chinh phục thị trường thế giới với thông điệp
“digital lifestyle” 22
a) chiến lược sản phẩm 22
b) chiến lược giá 32
c) chiến lược phân phối 33
d) chiến lược xúc tiến 35
e) Đánh giá chung 38
III. Thất bại 38
1) Chiến lược sản phẩm 38
2) Chiến lược xúc tiến 40
IV. Bài học kinh nghiệm
V. Phụ lục
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3832 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích kinh nghiệm marketing quốc tế của công ty Apple, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Apple đã bắt tay với Microsoft mặc dù trước đó Apple và Microsoft đã là đối thủ của nhau 20 năm trên thị trường máy tính.
Tại hội nghị phát triển phần mền và người sử dụng máy tính Macintosh ở Boston 1997, Steve Jobs tuyên bố Microsoft đã đồng ý liên minh với Apple: đầu tư 150 triệu đô la mua cổ phần của công ty và hai bên đã đi đến một thỏa thuận giấy phép sử dụng sáng chế trong 5 năm.
Nội dung cụ thể của liên minh như sau:
Microsoft đưa những phiên bản mới nhất của bộ Microsoft Office, Internet Explorer và một số công cụ Microsoft vào nền tảng Macintosh của Apple.
Apple tích hợp trình duyệt Internet Explorer vào Mac OS và đưa nó trở thành trình duyệt mặc định trong những phần mềm hệ thống hoạt động tương lai.
Hai hang đã đạt được sự thỏa thuận rộng rãi về sử dụng giấy phép sáng chế cho sản phẩm của hai bên.
Apple và Microsoft đã lên kế hoạch hợp tác về công nghệ để chắc chắn sự hòa hợp giữa các máy tính cho Java hay những ngôn ngữ lập trình khác.
Để hỗ trợ nhiều hơn mối quan hệ với Apple, Microsoft sẽ đầu tư 150 triệu USD vào cổ phiếu không biểu quyết của Apple.
Từ liên minh Apple có thêm một số vốn là 150 triệu USD để xúc tiến những kế hoạch của mình sau này bên cạnh đó việc liên minh còn góp phần
đem lại diện mạo, tính năng mới tốt hơn cho sản phẩm PC của Apple qua đó năng cao vị thế cạnh tranh của Apple trước đối thủ. Liên minh với 1 công ty tầm cỡ như Microsoft lúc bấy giờ sẽ là dấu hiệu tích cực đem lại một cái nhìn tốt hơn từ phía dư luận,khách hàng và nhờ vậy cũng góp phần vào việc giúp Apple vượt qua giai đoạn khủng hoảng là nền tảng để có được thành công như ngày hôm nay.
Liên minh Apple và Motorola:
Sau thành công của liên minh giữa Apple và Microsoft, Apple đạt được nhiều thành tựu đáng nễ. Với mong muốn tạo ra sản phẩm “aPod phone” cho riêng hãng tuy nhiên để thực hiện điều này phải tốn khả nhiều chi phí cho việc nghiên cứu và phát triển sản xuất, việc tiến hành những thỏa thuận liên minh với Motorola là bước thử nghiệm cho dự án này, tiết kiệm được chi phí, tạo cú đột phá mới trên thị trường điện thoại di động giành lấy nhiều thị phần. Liên minh này không chỉ là việc chuyển giao công nghệ mà còn là sự hợp tác thương hiệu.
Tháng 12/2004 Motorola và Apple đã đi đến thỏa thuận mới nhất về việc liên kết công nghệ để phát triển sản phẩm điện thoại di động “2 trong1”.
Tháng 7/2005 Motorola đã ký kết hợp đồng với hãng Apple về việc hợp tác để đáp ứng nhu cầu nhạc số trên điện thoại di động bằng một loạt các tính năng âm nhạc mới phong phú, cụ thể là Apple sẽ phát triển một phiên bản nhỏ gọn của phần mềm iTunes tích hợp cho điện thoại của Motorola.
Ngày 7 tháng 9 năm 2005 chính thức ra mắt sản phẩm tên RokrE1 trong sự kiện do Apple tổ chức tại San Francisco, California. Nó là một phiên bản mới của Motorola E398 candybar với công nghệ được Apple cấp giấy phép để chơi nhạc từ iTunes Music Store, chức năng của nó được thể hiện ở trình chơi nhạc có giao diện khá giống iPod. RokrE1 còn cho phép người sử dụng cuộn playlist, chọn bài hát và ra lệnh chơi. Để lưu trữ bài hát, bạn có thể dùng thẻ nhớ micriSD với dung lượng lớn nhất có thể đạt tới 512MB, tương đương với khoảng 100 bài hát. RokrE1 chơi được các file nhạc MP3,AAC và AAC+.
Tuy nhiên sản phẩm đã thất bại một cách toàn diện với kiểu dáng bình thường, chức năng không tạo được sự riêng biệt, tính năng còn yếu kém về một số mảng… đã ảnh hưởng đến doanh số bán và uy tín thương hiệu của hai công ty.( riêng Apple lợi nhuận đã giảm xuống còn 565 triệu USD, tương đương mức lãi 56 cent/ cổ phiếu so với thời điểm năm 2004 là 1.58 USD/ cồ phiếu)
Cùng khoảng thời gian này, Apple tung sản phẩm iPod nano( là sản phẩm thay thế iPod Mini, sau 17 ngày đã bán được hơn 1 triệu máy,iPod Nano có hai phiên bản dung lượng khác nhau, lưu được từ 500 đến 1000 bài hát. Từ sự việc này đã ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác giữa hai bên và Tổng giám đốc Motorola, ông Edward J.Zander cho rằng Apple đã “chơi không đẹp” và cáo buộc hãng ngày cắt đứt mối quan hệ với Rokr.
Ngay sau thất bại đó Motorola cũng đã tung ra sản phẩm RokrE2. Dòng sản phẩm thay thế không sử dụng trình iTunes mà kế thừa SLVR L7 có khả năng cài iTunes thì cũng ngay lúc đó Apple nhanh chóng “rút” các phần mềm tích hợp của iTunes trong RorkE1 để giảm sự ảnh hưởng của nó.
Tháng 1/2006 sau khi liên minh bị thất bại, Apple ấp ủ một dự định mới trong lĩnh vực truyền thông, họ đã liên tục xin được 4 chứng nhận, trong đó có những nội dung liên quan đến “ nhạc số”, “điện thoại di động” và “viễn thông”. Động thái trên cho thấy Apple đang chuẩn bị cho cuộc đối đầu trong thị trường điện thoại nghe nhạc. Và đúng như dự đoán, với bước thử nghiệm không thành công đó, Apple đã tung ra sản phẩm iPhone năm 2007.
Liên minh Apple và Nike:
Nike và iPod là một sự kết hợp của hai thương hiệu toàn cầu với chung một niềm đam mê là tạo ra những sản phẩm đầy ý nghĩa cho khách hàng thông qua sự sáng tạo và đổi mới, nhằm mang lại cho âm nhạc và thể thao một đẳng cấp cao hơn.
Ngày 23/5/2006 cả thế giới chứng kiến sản phẩm “Nike + iPod Sport Kits” ra đời.
Sản phẩm là một sự kết hợp không dây giữa một đôi giày chạy Nike và một chiếc iPod nano. Một thiết bị cảm ứng và nhận tín hiệu đựơc cài vào trong giày để thông báo tình trạng sức khỏe, lượng calorie tiêu hao của người sử dụng lên màn hình máy nghe nhạc iPod. Người dùng sẽ nhận thông báo này qua tai nghe từ một giọng nói kỹ thuật số hay kèm vào đó lời khuyên của vận động viên marathon Alberto Salazar, giọng nói khích lệ tinh thần từ nhà vô địch đua xe đạp Lance Armstrong và các dữ liệu sau một chuyến chạy dài của họ có thể tải ra máy PC hay Macintosh.
Bộ sản phẩm này gồm 4 phần:
Giày Nike với thiết kế đặc biệt: có một cái túi nhỏ đựng bộ cảm biến ($99)
Bộ cảm biến Nike + iPod không dây để vào cái túi nhỏ trên giày Nike: Bộ cảm biến không dây này sẽ báo lên màn hình iPod Nano những thông tin như khoảng cách chạy, tốc độ, lượng calo tiêu hao...
Bộ nhận thông tin không dây gắn vào Ipod Nano: đề nhận thông tin truyền lền từ cảm biến Nike+Ipod.
iPod Nano: dùng để theo dõi những thông tin và nghe nhạc với giá từ $149-$249.
Máy iPod kết nối với Internet nhằm tận dụng tối đa hóa các chức năng, nó sẽ tự động đồng bộ hoá và tích trữ dữ liệu về quá trình tập thể dục của bạn trên một bản ghi riêng biệt.
Sản phẩm được đông đảo công chúng đón nhận giúp doanh thu của Apple và Nike tăng nhanh chóng. Chỉ tính riêng đến tháng 6/2006 Apple đã bán được 450.000 sản phẩm “Nike + iPod Sport Kits” dành cho người chạy bộ. sự kết hợp “độc đáo” này tạo nên một “sự tín nhiệm” sâu sắc về sản phẩm trong lòng người tiêu dùng. Từ đó giúp củng cố vị thế cho 2 công ty vốn đã đứng đầu thế giới về lĩnh vực chuyên môn của mình.
Thành công với sản phẩm Ipod.
Khái quát về thị trường trước khi Ipod ra đời
Ngày 09 Tháng một 2007, Steve Jobs, Giám đốc điều hành nổi tiếng của Apple, thông báo rằng công ty sẽ không còn được biết đến là Apple Computer, mà tên mới của nó sẽ chỉ là Apple. Sự thay đổi này dường như tầm thường đại diện cho việc thay đổi tên công ty nhưng Apple đã có sự chuẩn bị từ 6 tới 7 năm trước để có thể chuyển mình từ 1 công máy tính với thị phần ít ỏi trong thị trường phần cứng và phần mềm máy tính ngày càng cạnh tranh sang 1 khái niệm hoàn toàn mới: “the digital lifestyle”.
Nhìn lại thị phần của Apple những năm 90 thì tại thời điểm đó dù thị phần của Apple là nhỏ bé tuy nhiên người dùng Apple là một nhóm các nhà tư tưởng, và nhà văn có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc cách mạng thông tin…mà được gọi là The Digerati. Đây là một nhóm người tiêu dùng yêu thích sự mới mẻ và sẵn sàng chi trả cho việc này. Điều này làm thị phần của Apple tương đối vững chắc, ngay cả khi nó là tương đối nhỏ.
Năm 1998 thì máy nghe nhạc MP3 đã ra mắt và được xem như là một thay thế cho máy nghe đĩa CD cầm tay nhưng vẫn còn trục trặc kỹ thuật và thời gian sử dụng ngắn. Đến khi Ipod của Apple xuất hiện với những thiết kế hoàn toàn mới mẻ và sáng tạo cùng chiến lược marketing hoàn hảo thì ipod thực sự đã làm nên 1 cuộc cách mạng.
Chiến lược marketing thành công so với đối thủ cạnh tranh là Walkman
Điểm mạnh trong chiến lược marketing của Ipod so với Walkman và cũng là những lý do cho thấy Ipod thành công :
a) Chiến lược xúc tiến: Công bố thông tin trước đối thủ cạnh tranh: dù chỉ là vài giờ
Apple tung ra thị trường máy điện thoại di động “hai trong một”: vừa là máy điện thoại di động vừa là máy iPod thì Sony mới công bố sẽ tung ra thị trường máy Walkman thế hệ mới có chức năng nghe nhạc trực tuyến với kích thước nhỏ gọn, chưa kể máy còn được sử dụng như ổ cứng USB để lưu giữ những bản nhạc.
b) Chiến lược giá :Giá cả cạnh tranh hơn
iPod có những mức giá khác nhau phù hợp với túi tiền người tiêu dùng. Giá của loại máy iPod có dung lượng lưu giữ âm nhạc lên đến 4 gigabytes là 249 USD, còn mức giá này là 199 USD đối với máy iPod có dung lượng lưu giữ 2 gigabytes, thấp hơn nhiều so với giá của Walkman- sản phẩm mới của Sony có giá khá cao
c) Chiến lược sản phẩm: Tận dụng yếu tố công nghệ
Với thiết kế mới mẻ và sáng tạo cùng dịch vụ iTunes Ipod đã trở thành sản phẩm thống trị thị trường. Dịch vụ này cho phép người sử dụng iPod có thể tải về hàng triệu bài hát từ Internet. Với iTunes, Apple có thể tạo ra các sản phẩm vệ tinh mới để kết nối với dịch vụ này. Trong số đó quan trọng nhất có lẽ là MobileMe, một dạng dịch vụ “đám mây” có khả năng sao lưu và chia sẻ nội dung trên cùng nền tảng. Apple muốn trở thành nhà cung cấp chính các dịch vụ để các thành viên và gia đình truy cập vào nội dung số của họ trên máy Mac, PC hoặc từ “đám mây”.
Chiến lược phân phối.
Là hãng đầu tiên tung ra dạng cửa hàng ứng dụng trực tuyến – App Store nên Apple đã thu được rất nhiều kinh nghiệm, và quan trọng hơn là hãng này đã kinh doanh rất thành công. Năm 2008, Apple thu được 203 triệu USD từ App Store; và chỉ riêng 30 ngày đầu tiên ra mắt đã thu được 30 triệu USD.
Tuy nhiên Sony quả là rất khôn ngoan khi nhường sân chơi không đem lại nhiều lợi nhuận này cho Apple để bước vào những sân chơi mới hấp dẫn hơn.
Ipod và hành trình chinh phục thị trường âm nhạc thế giới với thông điệp “ digital lifestyle
a) Chiến lược sản phẩm:
Chiến lược khác biệt hóa sản phẩm.
Ipod được giữ kín mọi thông tin về kế hoạch trình làng sản phẩm của mình và không để lộ ra một sơ hở nào cho tới khi tổng giám đốc Steve Jobs cảm thấy đã đến thời điểm phù hợp để công bố sản phẩm và thời điểm đó thường là những sự kiện hoặc những hội nghị quan trọng. Bên cạnh đó Ipod cũng như các sản phẩm của Apple được thực hiện trên một quy trình sản xuất đặc biệt : Apple không bao giờ cho phép bất cứ ai bên ngoài nhóm phát triển trong nhóm của Fadell và chỉ chọn nhân viên PortalPlayer thấy một iPod hoàn chỉnh. Bất cứ khi nào một thiết bị đã được thử nghiệm, nó được bọc trong một bao vây chiếc hộp đựng giày có kích thước với các điều khiển trên khuôn mặt khác nhau để giữ cho người ngoài biết kích thước và cách bố trí của thiết bị.
Apple không bao giờ tập trung vào giá, họ đưa ra thị trường nhiều giá trị hơn, phong cách hơn, và cách thức mới để tương tác với các phương tiện truyền thông kỹ thuật số.
Các dòng sản phẩm của iPod:
Các dòng Ipod
Thời điểm ra đời
Giá cả
Đặc điểm
iPod Classic
Thế hệ 1
23/10/2001
5GB với giá 400USD, bản 10GB là 500USD.
Thế hệ đầu tiên này dùng màn hình đen trắng, sử dụng hệ thống điều khiển với các nút bấm vật lý (scroll wheel) và ra mắt dưới 2 phiên bản dung lượng bộ nhớ là 5GB và 10GB. Với phiên bản 5GB, nó có thể lưu trữ khoảng 1000 bài nhạc mp3 chất lượng 160kb/s, pin có thời lượng 10 tiếng.
Thế hệ 2
17/07/2002
Kiểu dáng của phiên bản này tương tự bản trước đó. Ngoài nâng cấp về dung lượng bộ nhớ từ 5GB & 10GB lên thành 10GB & 20GB thì iPod thế hệ thứ hai còn có thêm chức năng cảm ứng đi kèm với nút bấm vật lý. Cả hai thế hệ đầu này đều dùng cổng kết nối Firewire chứ chưa dùng chuẩn kết nối USB thông thường.
Thế hệ 3
28/04/2003
Apple ra mắt thế hệ 3 của iPod với nhiều mức dung lượng bộ nhớ hơn: 10GB, 15GB, 20GB, 30GB và 40GB. Ở phiên bản này, các nút chức năng như chạy/tạm dừng, chuyển bài...đã được chuyển lên một hàng phía trên bàn rê cảm ứng. Thời gian sử dụng pin của iPod thế hệ 3 đã giảm từ 10 tiếng xuống còn 8 tiếng do Apple chuyển sang dùng loại pin Li-ion thay vì Li-polymer. Tháng 9 năm 2003, Apple phát hành phần mềm iTunes phiên bản dành cho HĐH Windows của Microsoft, giúp các máy iPod có thể kết nối và đồng bộ với Windows
Thế hệ 4
19/04/2004
Từ phiên bản mới này, các nút bấm vật lý đã bị loại bỏ hoàn toàn. Thay vào đó nó thừa hưởng công nghệ cảm ứng clickwheel từ iPod Mini, cùng với đó là thiết kế đẹp hơn, mỏng và nhẹ hơn. iPod thế hệ này có 2 mức dung lượng là 20GB và 40GB. Hai phiên bản khác của iPod thuộc thế hệ 4 cũng được Apple giới thiệu đó là iPod Photo và iPod Color với màn hình màu và khả năng xem ảnh, mức dung lượng lớn nhất đạt 60GB.
Thế hệ 5
12/10/2005
thiết kế khác các bản trước đó với màn hình to hơn, mỏng và nhẹ hơn cùng với khả năng chơi video. Năm 2006, Apple nâng cấp dung lượng bộ nhớ cho thế hệ này lên cao nhất là 80GB (trước đó là 60GB) đi kèm với bản 30GB. Năm 2005 cũng là năm đánh dấu thời điểm Apple trang bị màn hình màu cho toàn bộ dòng iPod (trừ Shuffle không có màn hình).
Thế hệ 6
5/09/2007
Đây là hệ máy đánh dấu tên gọi "Classic" được Apple đưa vào sử dụng. Với nhiều thay đổi đáng kể như vỏ hợp kim nhôm, màu bạc thay thế trắng, giao diện người dùng mới và ra mắt dưới 3 phiên bản gồm 80GB, 120GB và 160GB, giúp thỏa măn các tín đồ nhạc số di động. Ngoài những cải tiến bên ngoài, thời lượng pin cũng nâng cao đáng kể, phiên bản 160GB có thời gian sử dụng khoảng 40 tiếng cho nghe nhạc và 6 tiếng chơi video. Tới nay (2009), Apple chưa ra mắt thế hệ tiếp theo của dòng iPod Classic này vì vậy thế hệ 6 là mới nhất bây giờ, vả lại với những tính năng mà Apple trang bị cho nó thì chưa cần thiết để nâng cấp dòng iPod lâu đời nhất này.
iPod Mini:
Đầu năm 2004 và đầu năm 2005 với 2 phiên bản duy nhất
Chỉ có vỏn vẹn hai phiên bản ra mắt năm 2004 và 2005 với dung lượng bộ nhớ là 4GB và 6GB. iPod Mini là chiếc máy đầu tiên mà "quả táo" trang bị tính năng điều khiển cảm ứng (clickwheel), công nghệ này hiện vẫn đang được Apple sử dụng nhờ tính hiệu quả và đơn giản.
Ipod Nano
Thế hệ 1
07/09/2005
Có độ mỏng chỉ như một chiếc bút chì và nhỏ tí hon. iPod Nano thế hệ 1 là chiếc iPod đầu tiên dùng bộ nhớ flash, nhờ đó giảm thiểu kích thước của iPod trong khi dung lượng không hề giảm. Thế hệ 1 có hai màu đen và trắng gồm các phiên bản 1GB, 2GB và 4GB, màn hình màu, thời gian chơi nhạc đạt 24 tiếng.
Thế hệ 2
12/09/2006
iPod thế hệ 2 ra mắt với nhiều màu sắc hơn (6 màu). Vỏ nhựa của thế hệ trước bị thay bằng vỏ nhôm, một kiểu thiết kế truyền thống của Apple sau này. Nó hiện diện dưới 3 phiên bản 2GB, 4GB và 8GB.
Thế hệ 3
5/09/2007
Thế hệ Nano này được trang bị công nghệ màn hình QVGA với kích thước 2", clickwheel thiết kế nhỏ hơn, giao diện người dùng mới (cover flow) và khả năng chơi video. Nó có 2 phiên bản 4GB và 8GB, thời gian dùng pin là 24 tiếng.
Thế hệ 4
09/09/2008
Giống như iPhone, iPod Nano thế hệ này được tích hợp gia tốc kế, giúp việc xem ảnh, video ngang màn hình dễ dàng hơn. Vỏ ngoài làm từ nhôm và gồm 9 phiên bản màu sắc khác nhau với các mức dung lượng bộ nhớ là 4GB, 8GB, 16GB.
Thế hệ 5
9/09/2009
Nano giờ đây có thể quay video
Thế hệ này đánh dấu sự tiến hóa của dòng máy nghe nhạc iPod với khả năng quay video. Ngoài ra, nó còn có màn hình lớn hơn, đài FM tích hợp, loa ngoài và vỏ ngoài được sơn bóng bắt mắt hơn. Phiên bản 4GB của thế hệ 4 đã bị loại bỏ, chỉ còn 8GB và 16GB.
Ipod shuffle
Thế hệ 1
11/01/2005
Shuffle được Apple trang bị cổng kết nối USB, có thể cắm trực tiếp vào máy tính. Vì không có màn hình nên Shuffle được bán với mức giá dễ chịu hơn các dòng khác. Bản 512MB có giá 100USD, bản 1GB là 150USD tại thời điểm ra mắt. Ngoại trừ iPod Classic, từ phiên bản này trở đi thì Apple bắt đầu dùng bộ nhớ flash cho các dòng iPod giúp giảm kích thước của máy đáng kể.
Thế hệ 2
12/09/2006
Nếu thế hệ 1 có thiết kế dạng thanh thì thế hệ 2 này có hình chữ nhật và được tích hợp chiếc kẹp nhỏ phía sau máy. Có hai phiên bản 1GB và 2GB được Apple giới thiệu. Sau này, Apple còn thêm cho chiếc Shuffle thế hệ 2 này 4 màu sắc khác nhau, không chỉ là một màu đơn thuần nữa.
Thế hệ 3
11/03/2009
Thế hệ này lại quay về kiểu dáng gần giống thế hệ Shuffle đầu tiên, dạng thanh dài, tương tự một chiếc USB. Nó có thêm chức năng điều khiển bằng giọng nói (Voice Over) giúp việc chọn bài hát dễ dàng hơn rất nhiều. Đây là thế hệ Shuffle mới nhất hiện nay với hai bản 2GB và 4GB, thời lượng pin là 10 tiếng.
Ipod Touch
Thế hệ 1
05/09/2007
Thế hệ đầu tiên này được ra mắt cùng năm với iPhone. Được tích hợp công nghệ cảm ứng đa chạm nổi tiếng của Apple, kết nối wifi và một thiết kế sang trọng, bắt mắt. Bề ngoài của iPod Touch hoàn toàn giống iPhone và chức năng bên trong cũng gần như tương tự. Thế hệ đầu có các phiên bản 8GB, 16GB và 32GB.
Thế hệ 2
09/09/2008
Một năm sau đó Apple nâng cấp chiếc iPod Touch lên thế hệ 2 với dung lượng bộ nhớ giữ nguyên, vỏ sau được mạ crom sáng bóng. Thời lượng dùng pin cũng được cải thiện đáng kể, nếu thế hệ trước có thể dùng được 22 tiếng nghe nhạc thì ở thế hệ này tăng lên thành 36 tiếng.
Thế hệ 3
09/09/2009
Sự kiện "999" của Apple là nơi chiếc iPod Nano thế hệ 5 được giới thiệu, cùng với đó Apple cũng nâng cấp iPod Touch lên thế hệ 3 mới hơn. Những đặc điểm được nâng cấp như đồ họa được cải thiện, 2 phiên bản bộ nhớ lớn hơn, 32GB và 64GB.
Ngoài ra, iPod được giữ thiết kế bên ngoài của nó gần như giống hệt nhau trong nhiều năm. Điều này làm cho iPod ngay lập tức nhận ra bất cứ ai nhìn thấy nó. Để làm được điều này thì
+ Trong giai đoạn đầu của Apple tập trung vào thị trường hẹp. Apple nhận ra nhu cầu của một nhóm người yêu thích MP3 thông qua rất nhiều nghiên cứu tại các trường tiểu học và trung học. Apple sở hữu một núi dữ liệu từ hơn hai mươi năm tại trung tâm của cuộc cách mạng máy tính cũng như phù hợp ngày sinh của những đứa trẻ và cuộc cách mạng web của họ. Apple sử dụng laddering trong các cuộc phỏng vấn có thể cho thấy rằng những người tiêu dùng công nghệ có những ham muốn xa và cao hơn nữa về mặt kĩ thuật.
+ Mặc dù người tiêu dùng mong muốn rất nhiều lựa chọn nhưng theo nguyên tắc nhận thức tâm lý học thì con người chỉ có thể thông tin 3 sản phầm, không hơn không kém và Apple đã nghiên cứu kĩ và tìm cách tốt nhất mang giá trị tối đa của sản phẩm tới khách hàng trung tâm.
=>Theo đó, Apple đặt thuộc tính vật lý của sản phẩm là yếu tố thứ yếu trong khi yếu tố chính yếu là xây dựng lòng tự trọng cao, gây ấn tượng bạn bè của bạn, và là một phần của một câu lạc bộ bán độc quyền. Và phải vượt trội so với đối thủ cạnh tranh.
Dễ dàng nhận thấy là từ năm 1998 tới nay, chiến lược của Apple là thường xuyên phát hành các sản phẩm mới chấp nhận vòng đơi ngắn ngủi của các sản phẩm điện tử. Apple làm cho công nghệ của mình thú vị và trực quan bằng việc gom các sản phẩm lại thành gói mà chính điều này làm cho người tiêu dùng cảm thấy họ thuộc và một cộng đồng độc quyền . Bên cạnh đó cam kết của công ty cũng chỉ thay đổi theo chừng mực bổ sung là : Portable digital music ( âm nhạc kĩ thuật số đi động ) so vớ digital lifestyle trước đây.
Ngoài ra, Công ty cam kết mang đến những máy tính cá nhân tốt nhất và sự trải nghiệm âm nhạc kỹ thuật số di động cho học sinh, giáo viên, chuyên gia sáng tạo, các doanh nghiệp, cơ quan chính phủ, và người tiêu dùng thông qua phần cứng, phần mềm, thiết bị ngoại vi, dịch vụ…
Ipod bán giá trị tinh thần của sản phẩm không phải đơn thuần là bán một chiếc xe như câu ngạn ngữ cổ nói: Nếu một người đàn ông có muốn mua một chiếc xe và bạn bán một chiếc xe, bạn không bán anh ta bất cứ điều gì. Người tiêu dùng mua ipod không chỉ đơn thuần là mua một chiếc máy nghe nhạc MP3 mà họ đang trả cho cái mới, cái mà ta vẫn gọi là “cool” trong một gói sản phẩm thiết kế sành điệu. Cụ thể trong gói sản phẩm của Ipod ngoài tai nghe là dịch vụ iTunes :
Nắm bắt được tín hiệu thay đổi trong hành vi người tiêu dùng là muốn có thể nghe rất nhiều bài hát trên đường đi, và nghe danh sách bài hát do chính của họ lập ra, Apple đã cho ra đời itunes: iTunes là một phương tiện truyền thông độc quyền kỹ thuật số máy nghe nhạc ứng dụng, được sử dụng để chơi và tổ chức các file nhạc và video kỹ thuật số.
Nó hoạt động như iMac : gồm “Rip. Mix. Burn”. Có nghĩa là rip (lấy) nhạc MP3 từ CD và burn (tạo) CD từ bất cứ file Mp3 nào. Người tiêu dùng không muốn bị đối xử như tội phạm và nghệ sĩ không muốn những tác phẩm của mình bị đánh cắp nên iTunes Music Store là giải pháp mang tính đột phá. Dịch vụ mới cho phép người dùng tiếp cận 200.000 tác phẩm âm nhạc của nhiều hãng thu thanh lớn như BMG, EMI, Sony Music Entertainment, Universal, Warner... Trong số này có nhiều bài hát nổi tiếng do Bob Dylan , U2 , Eminem , Sheryl Crow và Sting thể hiện.
Mỗi bài hát chỉ có giá 99 cent tải từ dich vụ itunes (chưa tới 1 USD), cùng với sự bảo mật rất “thú vị”: Bài hát này có thể burn được cũng như nghe 3 lần trên máy nghe nhạc; bài hát này có thể nghe 100 lần và burn 6 lần. Mọi hoạt động trên được iTunes theo dõi qua tiện ích FairPlay.
Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt từ các nước như Na Uy, Đan Mạch và Thụy Điển muốn chia sẻ 1 chiếc bánh thị phần của Apple mà đáng chú ý nhất là nhà sản xuất điện thoại di động Nokia. Nokia đã tuyên bố các bài hát tải về từ dịch vụ thuê bao mới của Nokia sẽ chơi được trên bất kỳ máy nghe nhạc kỹ thuật số nào , bao gồm cả iPod thì Apple tiếp tục để giảm thiểu những rủi ro này bằng cách gây khó khăn để có tích hợp nếu các bài hát được tải về từ iTunes hoặc nếu tải về thì sẽ làm chậm máy, lag máy.
=> Trong vòng ít hơn 3 năm, “quầy nhạc” Apple đã có đến một tỷ bài hát (bài hát thứ một tỷ là Speed of Sound của Coldplay). Bốn năm sau, iTunes đạt mức 10 tỷ lượt tải. Năm 2007, Apple trở thành ông vua của thế giới âm nhạc. iPod chiếm 72,7% tổng số máy nghe nhạc MP3, iTunes chiếm 70% thị trường download nhạc. Thậm chí, 90% giới tuổi teen sở hữu máy iPod.
Chiến lược giá:
Apple không chạy đua giảm giá để cạnh tranh mà cung cấp các gói khác nhau để bạn có thể mua một chiếc iPod và một cái gì đó khác. (ví dụ như : Mua máy Mac tặng iPod Nano)
Ngoài ra, do Apple đang ở vị trí an toàn trên thị trường máy nghe nhạc do đó chiến lược giá tập trung vào chiến lược lợi nhuân.
Dòng sản phẩm
Giá bán
Giá trị thực
Ipod shuffle 2th
79$
49$
Ipod 8GB
249$
130$
Ipod 4GB
199$
90$
Ipod 2GB
149$
70$
Ngay từ thời điểm ra đời thì Ipod cũng được định giá cao hơn hẳn các đói thủ:
Dòng sản phẩm
Đặc điểm
Giá
Sonicblue RioVolt MP3 CD Player
Thiết bị hàng đầu vào thời điểm Ipod ra đời
< 100$
Creative Nomad Jukebox
6 GB
250$
e.Digital Corp với Walloping
10GB- kích thước lòng bàn tay
249$
Ipod
5GB
399$
Với mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận và thị phần, Apple định giá cho iPod ngoài chi phí sản xuất và vật liệu, nó còn bao gồm lợi nhuận cho công ty và các cổ đông tuy nhiên vẫn tạo ra được lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ.
Dòng sản phẩm
Năm sản xuất
Cách điều chỉnh
Dung lượng
Giá
IPOD
Ipod touch(4th)
09/2010
Cảm ứng đa điểm
8GB, 32GB, 64GB
229$, 299$, 399$
Ipod nano(6th)
09/2010
Cảm ứng đa điểm
8GB, 16GB
149$, 179$
iPod shuffle(4th)
09/2010
Nút
2GB
49$
WALKMAN
NW-E050
2010
Nút
2GB, 4GB
95$, 120$
NW-E050K
2010
Nút
2GB, 4GB
120$,140$
NW-S754/S755/S756
2010
Nút
8GB,16GB,32GB
160$, 200$, 230$
NW-S750K
2010
Nút
8GB,16GB
200$, 230$
NW-A855/A856/A857
2010
Nút
16GB, 32GB, 64GB
280$, 350$, 470$
Ngoài ra việc tính toán giá của Ipod còn mang tầm chiến lược vì APPLE đã tính đến nhiều yếu tố chẳng hạn việc định giá Ipod Nano, có 4 yếu tố:
Biến động tiền tệ: iPod không chỉ được bán ở Mỹ mà thị trường của nó còn là các nước châu Âu có mệnh giá tiền lớn hơn đồng đô của Mỹ, do đó giá của iPod bao gồm cả những rủi ro về biến động tiền tệ.
Thuế: thuế giá trị gia tăng làm ảnh hưởng đến giá của iPod Nano ( khoảng 10% ).
Sự cạnh tranh: có rất nhiều đối thủ cạnh tranh với iPod Nano, do đó Apple phải định giá sao cho sản phẩm của họ vừa giữ được thị phần vừa có được lợi nhuận.
Chiến lược dựa theo cung cầu thị trường: khi định giá một sản phẩm chúng ta không thể quên yếu tố này và Apple cũng vậy, khi nhu cầu vươt quá khả năng cung cầu Apple sẽ định giá tương đối cao cho sản phẩm và ngược lại.
Chiến lược phân phối:
APPLE store
Cửa hàng trưng bày sản phẩm của Apple có thể thực sự
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Apple.doc
- Apple.ppt