Tiểu luận Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: nước Việt Nam là một, dân tộc việt nam là một

Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản, mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.

cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2311 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: nước Việt Nam là một, dân tộc việt nam là một, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mạng là sự nghiệp của quần chúng, của dân tộc 1.2.2 đặt dưới sự lãnh đạo của đảng 1.2.3 giải quyết các mâu thuẫn giai cấp, tăng cường đoàn kết dân tộc 1.2.4 với nòng cốt là liên minh công nông tạo nên một nhà nước vô sản liên kết mọi người 2.thực tiễn việt nam 2.1 khách quan 2.1.1 hành đọng phá hoại gây chia rẽ dân tộc của các lực luợng thù địch 2.1.2 đa dân tộc nhiều ngôn ngữ và văn hoá .2.1.3 truyền thống đoàn kết của dân tộc về lịch sử từ mấy nghìn năm nay, các dân tộc cùng chung sống trên dải đất Việt Nam có nhu cầu tự nhiên là phải cố kết nhau lại để chống chọi với thiên tai, giặc giã, trở thành một cộng đồng bền chặt - đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cùng nhau dựng nước và giữ nước 2.2 Chủ quan 2.1.1 nhà nước việt nam là của dân do dân và vì dân 2.1.2 Thực tiễn các phong trào cách mạng cứu nước cuối thế kỉ XIX của phan bội châu, phan châu trinh ,hoàng hoa thám không biết cách tổ chức chưa tạo dựng đoàn kết dân tộc 2.1.3 thất bại các phong trào chống phá cách mạng,đảng, chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch bên ngoài trước sự lãnh đạo của đảng 3.nội dung của luận điểm 3.1 mục tiêu : tập hợp phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc 3.2 kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; 3.3 Nước Việt Nam không thể chia cắt về lãnh thổ. Việc bảo vệ và giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ (đất liền và biển đảo) là nghĩa vụ và trách nhiệm thiêng liêng của mỗi người Việt Nam từ xưa đến nay; 4 tính đúng đắn của luận điểm ,thực tiễn, nội dung tiến hành,thành tựu đem lại 4.1 tính đúng đắn của luận điểm 4.1.1 về cơ sở lí luận : dựa trên cơ sở lí luận mác lênin,một hệ thống chính trị tiến bộ đúng đắn và khoa học 4.1.2 khẳng định tinh thần đoàn kết dân tộc, điều tất yếu để dành thắng lợi chủ quyền đất nước không thể chia rẽ 4.1.3 Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. 4.1.4 đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của đảng 4.2 nội dung tiến hành: Xây dựng tinh thần đoàn kết và yêu nước của dân tộc 4.2.1 phương pháp tuyên truyền ,giáo dục : thức tỉnh mọi người đoàn kết,tùy từng giai cấp ,từng cộng đồng,tùy hoàn cảnh cụ thể mà đưa ra những cách thức hợp lí khác nhau để thúc đẩy tinh thần đoàn kết 4.2.2 phương pháp tổ chức: sự thống nhất và bền vững cua hệ thống chính tị cách mạng với đảng lãnh đạo la nhân tố quyết định sự tồn tại và sức mạnh đoàn kết 4.2.3 chính sách dân tộc tăng cường đòan kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam độc lập dân chủ và phồn vinh 4.2.4 sự kết hiệu quả, xử lí các mối quan hệ sao cho giải quyết các mâu thuẫn và mở rộng sự ủng hộ của thế giới thu hẹp tối đa lực lượng thù địch 4.4 thành tựu đem lại 4.4.1 thắng lợi của 2 cuộc kháng chiến trường kì với 2 đế quốc hquùng mạnh giải phóng độc lập dân tộc : Cuộ kháng chiến chống pháp và mĩ kết thúc thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta 4.4.2 giữ vững hoà bình trong độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ giữ vững và cũng cố ổn định chính trị,đập tan mọi âm mưu chia rẽ đất nước dân tộc 4.4.3 quan hệ đối ngoại được mở rộng ,giao lưu với các nước trên thế giới 4.4.4 khổng chỉ đạt được những thắng lợi về đấu tranh giải phóng dân tộc mà có có ý nghĩa to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay BÀI LÀM Quan điểm của Mác-Ăngghen-Lênin về vấn đề dân tộc Khái niệm: Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc. Quan điểm của chủ nghĩa Mác: Dân tộc là sản phẩm của lịch sử. Mác-Ăngghen đã đặt nền tảng lý luận cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học. Lênin đã phát triển quan điểm về vấn đề dân tộc thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc. Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Chủ nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lên nin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Rằng nếu không có sự đồng tình và ửng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. thực tiễn trong vấn đề dân tộc ở việt nam Tình hình và đặc điểm dân tộc Việt Nam: Nước ta có 54 dân tộc với trên 80 triệu dân, trong đó người Kinh chiếm 87%, 53 dân tộc thiểu số chiếm 13%, có 10 dân tộc dân số có từ 10 vạn đến trên 1 triệu người, có 16 dân tộc có dân số từ 1 vạn đến 10 vạn , có 6 dân tộc dân số có từ dưới nghìn người đó là ngừoi CÔng, Sila, Edu, RơNăm, Phupeo, Brâu Đặc điểm: 54 dân tộc gắn bó lâu đời trong quá trình dựng nước và giữ nước tạo nên sức mạnh và thắng lợi cho cách mạng nước ta. Các dân tộc sống xen kẻ nhau đến từng huyện từng xã, hình thức này có những mặt tích cực cũng có những mặt tiêu cực. 13% dân số là đồng bào thiểu số lại sống ¾ diện tích đât nước các địa bàn chiến lược về kinh tế quốc phòng an giao lưu quan hệ kinh tế quốc tê. Mỗi dân tộc người có bản sắc đời sống văn hóa riêng, 16 dân tộc người có tiếng nói và chữ viết riêng. Các dân tộc cấu thành quốc gia thống nhất từ ngàn xưa và lịch sử để lại, có nhiều dân tộc trình độ rất thấp đang làm trở ngại lớn cho trợ lực phát triển. - TT này của HCM thể hiện rõ trong hành động và trg rất nhiều bài nói, bài viết của mình, song rõ nhất và tập trung nhất là ở “Tuyên ngôn độc lâp” khai sinh ra nước VNDCCH năm 1945. Mở đầu bản Tuyên ngôn, HCM đã trích 1 đoạn của bản Tuyên ngôn năm 1776 của Mỹ nói về quyền bình đẳng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền ko ai có thể xâm phạm được. Trg những quyền ấy có quyền đc sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người nhận định đây là lời bất hủ, suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên TG đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đồng thời Người còn trích dẫn Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của CMTS Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra có quyền tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tụ do và bình đẳng”. Người khẳng định: “Đó là những lẽ phải ko ai chối cãi được”. - Thiên tài HCM là người đã sử dụng Tuyên ngôn TS để đấu tranh cho lợi ích của dân tộc mình, biến quyền tự do, bình đẳng, hạnh phúc cá nhân theo kiểu TS thành quyền bình đẳng của cả dân tộc VN, của các dân tộc trên TG, ko phân biệt màu da, chủng tộc. => TT vĩ đại này của HCM mang tính quốc tế, tính thời đại và tính nhân văn sâu sắc. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam đã hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, chúng làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc. Chúng là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ nước, làm nên truyền thống yêu nườc, đoàn kết của dân tộc. Dù lúc thăng, lúc trầm nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng là tinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Một dân tộc không những có quyền bình đẳng với các dân tộc khác trên thê giới mà còn phải được hửong nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn. Chỉ khi nào được hưởng độc lập thật sự thì dân tộc đó mới thật sự bình đẳng. Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn theo Hồ Chí Minh phải đảm bảo những nguyên tắc sau: Dân tộc đó có đầy đủ chủ quyền quốc gia về chính trị, kinh tế, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam giải quyết. Mọi sự ủng hộ giúp đỡ Việt Nam đấu tranh giành độc lập tự do đều được nhân dân Việt Nam hoan nghênh ghi nhớ song nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệt thô bạo nào. Giá trị và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc phải thể hiện ở quyền tự do hanh phúc của nhân dân. Theo Người, quyền độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, là trên hết. Dù có phải hy sinh đến đâu cũng phải giành và giữ cho được độc lập. Theo Hồ Chí Minh, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra giống như ở phương Tây. Từ sự phân tích đó, Người kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế cộng sản là: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản.....Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi...nhận định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa Quốc tế. Như vậy, xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộcmà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy và Người cho đó là “một chính sách cách mạng mang tính hiện thực tuyệt vời”. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Ngay từ khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấo, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xã định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Tư sản dân quyền cách mạng” (tức là cách mạng dân chủ tư sản) và “Thổ địa cách mạng” (tức là cách mạng ruộng đất) để đi tời xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Xóa bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa giải phóng được. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức bóc lột, chỉ có thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân mới đảm bảo cho người lao động quyền làm chủ, độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Theo Hồ Chí Minh, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức. Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu: “giúp bạn là tự giúp mình và chủ trương phải bằng thắng lợi của các hấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh đã đưa vai trò của nhân dân lên tầm cao mới: Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là người chủ thực sự của đất nước; coi nhân tố con người là nguồn lực cơ bản tạo nên sức mạnh vô địch để kháng chiến, kiến quốc. Người thường nói: Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong. Sức mạnh của nhân dân được nhân lên gấp bội khi thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công".h mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới. - Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản. Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản, mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. NAQ đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành công "trước hết phải có đảng cách mệnh", "đảng có vững cách mệnh mới thành công" "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt" đó là chủ nghĩa Lênin. cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông. cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CM vô sản ở chính quốc. Đây là một luận điểm mới và sáng tạo của HCM. Trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào CM vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Đây là một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác - Lênin, đã được thắng lợi của CM VN chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. -Năm là, CM giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang của nhân dân. Kết luận: Tóm lại, TTHCM về vấn đề dân tộc là hệ thống quan điểm vừa mang tính KH đúng đắn, vừa có tính CM sâu sắc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn đề dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. TT này ko chỉ có giá trị trong lịch sử CMVN mà còn có ý nghĩa lớn lao đối với CMTG trg thời đại ngày nay Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết, thương yêu họ, kêu gọi họ hướng về quê hương đất nước, nơi quê cha, đất tổ của mình, vì tất cả bà con đều là “con Lạc cháu Hồng” của đất Việt. Đồng thời, Người cũng kêu gọi và khuyên nhủ bà con phải giữ mối quan hệ thân thiện với nhân dân các nước và thực hiện tốt luật pháp của họ. Trong những năm chiến tranh và cách mạng, với lòng yêu nước, thương dân, Hồ Chí Minh đã thu phục được nhiều trí thức tài ba về nước phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trong đó có người đã trở thành anh hùng của Việt Nam. Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thể hiện thái độ ôn hoà và thân thiện với họ. Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về (23 tháng 10 năm 1946), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Người Pháp ở Pháp đối với ta rất thân thiện, thì người Việt ở Việt đối với người Pháp cũng nên thân thiện. Đối với quân đội Pháp ta phải lịch sự. Đối với kiều dân Pháp ta phải ôn hoà. Để tỏ cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh. Để cho số người Pháp ủng hộ ta càng thêm đông, sức ủng hộ càng thêm mạnh. Để cho những kẻ thù khiêu khích muốn chia rẽ, không có thể và không có cớ mà chia rẽ. Để cho công cuộc thống nhất và độc lập của chúng ta chóng thành công.” (10) Đối với người Hoa sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng thể hiện quan điểm trước sau như một là đoàn kết, thân thiện và bảo vệ tài sản, tính mạng cũng như quyền làm ăn chính đáng của họ trên đất nước Việt Nam, như công dân Việt Nam. Theo Người, chẳng phải hôm qua hôm nay người Hoa kiều mới đến Đông Dương. Họ đã ở đây, họ đã luôn giữ một địa vị rất quan trọng trong đời sống kinh tế của Đông Dương. Nhưng chưa bao giờ lại có những cuộc xung đột giữa người Việt Nam với người Hoa trên đất nước Việt Nam. Trong “Thư gửi anh em Hoa kiều” nhân ngày Độc lập 2 – 9 – 1945, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Hai dân tộc Trung - Việt chúng ta, mấy ngàn năm nay, huyết thống tương thông, chung nền văn hoá, trong lịch sử vẫn được gọi là hai nước anh em; hơn nữa, đất nước liền kề, núi sông kế tiếp, càng như môi vớI răng che chở cho nhau. Ngót trăm năm nay, đế quốc xâm lược Viễn Đông, giặc Pháp cưỡng chiếm nước ta, lấy đó làm bàn đạp xâm lược Trung Quốc. Hai dân tộc anh em phương Đông chúng ta lại chịu chung nổi khổ cực bị áp bức và xâm lược.” Xuất phát từ quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc và hai nước anh em, trong thư, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước ta đối với bà con Hoa Kiều đang làm ăn, sinh sống ở Việt Nam: “Chính phủ nhân dân lâm thời Việt Nam đã lập tức tuyên bố xoá bỏ mọi luật pháp của Pháp trước đây áp đặt lên Hoa kiều, xác định chính sách cơ bản là bảo đảm tự do, hoan nghênh Hoa kiều cùng nhân dân Việt Nam chung sức xây dựng nước Việt Nam mới. Mong rằng anh em hai nước chúng ta thân mật đoàn kết, có việc gì thì giải quyết với nhau theo nguyên tắc hợp pháp lý với thái độ kính trọng nhường nhịn lẫn nhau, không được vì những việc tranh chấp nhỏ của cá nhân mà gây điều bất hạnh ngăn cách giữa hai dân tộc…” (11) Ngoài ra, đối với các dân tộc và quốc gia khác trên thế giới, quan điểm của Hồ Chí Minh là tôn trọng nền độc lập dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, dân tộc khác, đồng thời thực hiện quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc với nhau. Quan điểm đó của Người được khẳng định trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, ngày 2 – 9 – 1945 rằng: “… tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (12) Chẳng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và những quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc đề ra chính sách dân tộc đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Chính sách đó vừa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tiến bộ của nhân loại, nên nó đã được cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đón nhận với niềm phấn khởi và đầy tin tưởng, cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt Nam có được sức mạnh to lớn để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày na Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với cách mạng nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị, biểu hiện tập trung ở những điểm chính sau: Đoàn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định mọi thành công. Biết đoàn kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn kết, chia rẽ là thất bại. Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn kết một chiều, đoàn kết hình thức, nhất thời. Đoàn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá nhân và đoàn kết tổ chức không tách rời nhau. Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng thời kỳ. Đoàn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân. Đoàn kết đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai. Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát huy sức mạnh của Đảng, của toàn dân tộc. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải thực sự đoàn kết trong Đảng. Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong Đảng - đoàn kết toàn dân - đoàn kết quốc tế. - Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên cơ sở bảo vệ và tôn- Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam cùng mọi thành quả của nền văn hoá Việt Nam không phải là của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi người Việt nam, của cả dân tộc Việt Nam. - Đã thế thì mọi người Việt Nam đều có trách nhiệm và có quyền được đóng góp vào việc tô điểm cho giang sơn đó, làm giàu thêm và đẹp thêm cho nền văn hoá đó. - Lại vì thế nên phải làm sao để cho mọi người Việt Nam đều được sống với giang sơn gấm vóc này, được hưởng mọi giá trị vật chất và tinh thần của nền văn hoá này. trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, quốc tế trong thực tiễn, việc chuyển sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời kỳ giữ nước sang thời kỳ dựng nước không phải là việc dễ dàng, lịch sử đang đòi hỏi những nỗ lực lớn của đảng và nhà nước ta trong lĩnh vực này - khơi dậy và phát huy cao độ sức manh nội lực, phải xuất phát từ lợi ích dân tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển đất nước. thành tựu đạt được: phải đặt đoàn kết lên hàng đầu. Và điều mong ước cuối cùng của Bác là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết một lòng…”. Muốn phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, trước hết phải củng cố, đoàn kết thống nhất trong Đảng, phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Người đã khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác…”. Vì vậy Người căn dặn:“Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Một yếu tố quan trọng để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi; mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Thực hiện lời căn dặn trong Di chúc của Bác, ngay sau khi Bác đi xa về cõi vĩnh hằng, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta biến đau thương thành hành động cách mạng, khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Ở miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu đánh bại âm mưu đánh phá miền Bắc bằng không quân của giặc Mỹ, tăng cường chi viện cho chiến trường miền Nam. Ở miền Nam dấy lên phong trào thi đua chiến đấu, bám địch mà đánh, bền bỉ kiên cường chống giặc càn quét… sức mạnh đại đoàn kết đã nhấn chìm bè lũ đế quốc và tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà như lời căn dặn của Bác “Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta nhất định thắng lợi, đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Cuối những năm 70 và thập niên 80 của thế kỷ trước Đảng ta và nhân dân ta đã vượt qua thử thách cực kỳ khó khăn, vết thương chiến tranh ở hai miền chưa kịp hàn gắn thì chiến tranh biên giới ở hai đầu đất nước lại nổ ra. Trong khi đó bọn đế quốc lại cấm vận Việt Nam. Nhưng nhờ đoàn kết trong Đảng và đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta đã vượt qua khó khăn và đồng thời tìm tòi, sáng tạo đưa đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới. Hiện nay đất nước ta đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Trong những năm đổi mới vừa qua đã đem lại nhiều thành tựu về kinh tế, văn hóa và chính trị, đời sống của nhân dân đã được nâng cao; Việt Nam đã có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế. Nhưng các thế lực thù địch không ngừng chống phá, tìm mọi cách để làm suy yếu đất nước Việt Nam.  Hơn lúc nào hết Đảng ta, nhân dân ta phải đoàn kết một lòng để bảo vệ thành quả cách mạng mà Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân ta đã xây dựng nên. Để xây dựng và phát triển sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong hoàn cảnh mới, trước hết Đảng ta phải đoàn kết, nhất trí, phải thường xuyên thấm nhuần những điều căn dặn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Đoàn kết trên cơ sở dân chủ mở rộng trong Đảng, lấy nguyên tắc tự phê bình và phê bình để củng cố và xây dựng Đảng; tránh tình trạng dân chủ hình thức và đoàn kết một chiều, né tránh va chạm đang là những nguy cơ làm giảm sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập và rèn luyện Đảng ta – một Đảng cầm quyền nên Bác rất quan tâm đến xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Trước khi đi xa Bác còn viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, vì đây là điều cốt lõi trong rèn luyện của một cán bộ, đản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25391.doc
Tài liệu liên quan