Tiểu luận Phân tích mối liên hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Chương 1: Cơ sở lý luận

1. Lạm phát 2

1.1. Khái niệm 2

1.2. Các loại lạm phát 3

1.3. Nguyên nhân của lạm phát 4

2. Chi đầu tư phát triển 6

2.1. Khái niệm chung 6

2.2. Các khoản chi đầu tư phát triển 6

2.3. Nguyên tắc chung về phân bổ chi đầu tư phát triển 7

Chương 2: Nội dung mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát

1. Nguồn gốc của mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát 8

2. Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát 12

Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường quản lý ngân sách nhà nước

1. Thực trạng quản lý ngân sách ở nước ta 21

1.1. Thực trạng thu chi ngân sách nhà nước 21

1.2. Những bất cập trong chi đầu tư phát triển 23

2. Các giải pháp tăng cường quản lý NSNN 25

3. Yêu cầu của chính sách chi đầu tư phát triển 30

4. Giải pháp để chi đầu tư phát triển hiệu quả 31

4.1. Giải pháp chung 31

4.2. Giải pháp cụ thể đối với chi đầu tư phát triển theo ngành kinh tế 33

KẾT LUẬN 35

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3365 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích mối liên hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước chỉ có tác dụng nhất thời, cục bộ, còn tác hại của nó lại lâu dài và gây thiệt hại cho nền kinh tế. Nhận thức được ảnh hưởng này chính phủ nhiều nước đã cố gắng hạn chế hoặc từ bỏ biện pháp này. Biện pháp đi vay để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước: đây là biện pháp được sử dụng ở hầu hết các nước trên thế giới. Nguồn vay không chỉ để bù đắp thiếu hụt NSNN, mà nó còn được sử dụng để cho vay lại hoặc giảm phát. Thông thường đi vay bao gồm: vay ngân hàng, vay dân và các tổ chức trong xã hội và vay nước ngoài. Ưu điểm: + Đáp ứng được nhu cầu thiếu hụt ngân sách. + Góp phần rút bớt lượng tiền thừa trong lưu thông, trước mắt không có tác dụng làm bùng nổ lạm phát. Nhược điểm: + Có trách nhiệm hoàn trả vốn, lãi khi đến hạn + Trong nhiều trường hợp kết quả đi vay không đạt mục tiêu như mong muốn + Khi vay ngắn hạn trong nước để bù đắp thiếu hụt trong chi thường xuyên của chính phủ sẽ phải trả lãi suất cao do đó dẫn đến nguy cơ lạm phát của chu kỳ sau è Đây chính là mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát >> Mối quan hệ đồng biến: chi đầu tư phát triển tăng dẫn đến lạm phát tăng ở chu kỳ sau. + Đối với trường hợp vay nước ngoài thì gánh nặng nợ lãi đối với nước ngoài cũng nặng nề, nhất là khi sử dụng tiền vay kém hiệu quả è Như vậy, biện pháp sử dụng nguồn vốn vay để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước chỉ có tác dụng tích cực hữu hiệu, giúp kinh tế phát triển bền vững, đồng thời tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải . Thì nguồn vốn vay phải được sử dụng cho mục đích đầu tư phát triển kinh tế, tuyệt đối không sử dụng vốn vay để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng. Tuy nhiên nguồn vốn vay sử dụng cho chi đầu tư phát triển cũng phải được sử dụng 1 cách có hiệu quả, có kế hoạch rõ ràng, tránh tình trạng đầu tư dài trải kém hiệu quả sẽ dẫn tới tình trạng kinh tế bất ổn, lạm phát tăng cao. 2. Phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và lạm phát Ta có: A: Thu thường xuyên B: Chi thường xuyên C: Chi đầu tư phát triển D: Thâm hụt ngân sách D = A - B - C C tăng à D tăng Khi D tăng >> nhà nước phải tìm kiếm nguồn để bù đắp thâm hụt >> Thông qua 2 cách: 1/ Phát hành thêm tiền 2/ Đi vay Cả 2 biện pháp đều có những ưu nhược điểm riêng và đều tác động đến lạm phát, cụ thể: Phát hành thêm tiền >> Lượng cung tiền vào chi đầu tư sẽ tăng lên >> Gía cả các công trình đầu tư sẽ tăng lên >> do cầu đầu tư tăng >> Gía trị đồng vốn giảm đi tương ứng >> Đồng tiền bị mất giá >> Lạm phát tăng cao. Không những thế, khi chính phủ phát hành thêm tiền để chi đầu tư >> Tạo công ăn việc làm cho người dân >> Thu nhập của họ ngày càng tăng >> Nhu cầu chi tiêu, sinh hoạt của họ cũng tăng lên >> Cầu hàng hóa tăng >> Gía cả hàng hóa tăng >> Lạm phát. Như vậy việc phát hành tiền đã gián tiếp tác động làm tăng lạm phát thông qua việc kích cầu. Đi vay để bù đắp thâm hụt: phương án này có vẻ khả thi hơn so với phương án phát hành thêm tiền vì trước mắt nó không có tác dụng làm bùng nổ lạm phát. Nhưng về lâu dài nó cũng là 1 trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát vì nếu chung ta sử dụng ngồn vay không có hiệu quả >> không thu lợi được từ việc sử dụng vốn vay trong khi đó vẫn phải trả lãi suất cho người cho vay >> Nợ chồng chất nợ >> Khi đến hạn trả nợ vay, chính phủ không có tiền >> Chính phủ phải thực hiện biện pháp đơn giản duy nhất là phát hành thêm tiền >> Và như vậy lại cũng làm cho lạm phát tăng cao. Ta có thể thấy được mối quan hệ này thông qua các biểu đồ và bảng số liệu sau: 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tăng cung tiền (M2, % thay đổi) 25.5 17.6 24.9 29.5 29.7 33.6 39.0 Tín dụng (% thay đổi) 21.5 22.2 28.4 41.6 31.7 25.4 36.0 Tổng đầu tư xã hội (% GDP) 31.2 33.2 35.4 35.6 38.9 41.0 41.2 Thâm hụt ngân sách (% GDP) -4.7 -4.5 -3.3 -4.3 -4.9 -5.0 -5.0 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI, %) 0.8 4.0 3.0 9.4 8.4 6.7 12.6 Thâm hụt thương mại (triệu USD) 481 -1054 -2581 -3854 -2439 -2776 -8227 Tóm lại: chi đầu tư phát triển và lạm phát có mối quan hệ đồng biến với nhau trong điều kiện kinh tế bình thường, thông qua các biện pháp tìm kiếm nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên lạm phát có ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế của một đất nước, tác động đó là tiêu cực hay tích cực và nếu là tác động tiêu cực thì chúng ta phải làm gì để kiềm chế lạm phát. Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế: - Trong quan niệm của nhiều người, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động : +Lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu tư và sự phân bổ các nguồn lực khan hiếm này. +Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất. Hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi kể cả trong thời kỳ lạm phát ổn định. Như vậy, các nhà đầu tư thường có xu hướng mắc lỗi trong quyết định của mình và chọn những “gói” yếu tố sản xuất không phải là tối ưu, làm giảm hiệu quả kinh tế và ,do đó, giảm năng suất. - Tuy nhiên không ít người lại lập luận rằng, lạm phát ở một mức nhẹ lại có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, nhà kinh tế học Tobin cho rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư tái phân bổ danh mục đầu tư của mình từ tiền sang chứng khóan, làm giảm lãi suất thực tế và do đó làm tăng đầu tư và nâng cao năng suất lao động. Ông lập luận cho rằng “một chút lạm phát giúp bôi trơn nền kinh tế” vì nó giúp thị trường lao động điều chỉnh cho phù hợp. Một số khác cũng chỉ ra rằng nhu cầu tăng lên ổn định sẽ gây ra lạm phát ở mức nhẹ, là cái mà thực ra lại làm tăng, chứ không phải giảm năng suất lao động, và, do đó, tăng tốc độ tăng trưởng. Vì thế, động thái nhằm đạt mức lạm phát bằng không chẳng qua là chính sách trả trước ngay bây giờ cho nhiều thiệt hại hơn sau này. - Từ một khía cạnh khác, một số người cho rằng, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế nếu xét đến mối quan hệ giữa tính bất trắc của lạm phát trong tương lai với tăng trưởng sản lượng. Họ cho rằng tính bất trắc của lạm phát càng cao thì tăng trưởng sản lượng càng thấp. Sở dĩ có điều này bởi vì nhà sản xuất khai thác triệt để tính bất đối xứng về thông tin trên thị trường – thông tin có được của người tiêu dùng bị hạn chế so với nhà sản xuất – để tăng biên độ lợi nhuận, do đó làm tăng doanh thu kể cả cho những nhà sản xuất không thực sự hiệu quả. Việc phân bổ các nguồn lực sản xuất tới những nhà sản xuất không hiệu quả như vậy sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng. Nhưng ngược lại với dòng lập luận này, một số nhà kinh tế chỉ ra rằng tính bất trắc của lạm phát lại có tác động đến tăng trưởng, nhờ vào động thái tăng tiết kiệm để phòng ngừa lạm phát. Họ cũng chỉ ra thêm rằng trên thực tế, quan hệ nhân quả giữa hai biến số này là không nhất quán ở từng trường hợp nghiên cứu quốc gia. Như vậy, có thể nói rằng về lý luận, quan hệ nhân quả giữa lạm phát với năng suất lao động và/ hoặc tăng trưởng chưa hòan tòan sáng tỏ. Thực tế, kết quả nghiên cứu thực chứng trong nhiều nghiên cứu cấp quốc gia và nhóm quốc gia cũng chỉ ra mối quan hệ phức tạp giữa hai nhóm biến số này. Các nghiên cứu thực chứng ban đầu chỉ tập trung vào nhóm G7, hoặc các nước trong tổ chức OECD, và kết quả nghiên cứu không chỉ ra được một kết luận rõ ràng về quan hệ này. Cụ thể, một số nước như Nhật, Thái Lan, Sri Lanca, Philippin và Indonesia, lạm phát và năng suất không hề có quan hệ gì với nhau. Ở một số nước khác như Malaysia, lạm phát có tác động tiêu cực đến năng suất. Ở những nước như Hàn Quốc, Ấn Độ và Singapore, hai biến số này tác động lẫn nhau. Thực tế ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy: ở một tỷ lệ lạm phát vừa phải thì kinh tế tăng trưởng ổn định, nhưng khi lạm phát tăng cao thì tốc độ tăng trưởng kinh tế lại bị giảm xuống một cách đáng kể. Điều này chứng tỏ lạm phát không hoàn toàn có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Điều quan trọng là lạm phát ở một mức độ như thế nào là phù hợp và có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và nguyên nhân tại sao lạm phát trong những năm gần đây ở Việt Nam lại tăng cao bất thường làm mất cấn đối kinh tế vĩ mô. Từ trước đến nay công tác chống tham nhũng chỉ mới chú trọng xem các dự án đầu tư thất thoát vốn thế nào mà chưa để ý đến các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư sai mục đích. Hầu hết ở VN khi chuẩn bị đầu tư thì có các bước nghiên cứu đánh giá dựa trên số liệu dự báo... để đưa ra quyết định đầu tư. Nhưng sau khi thực hiện đầu tư rồi lại thiếu mất phần đánh giá hiệu quả đầu tư. Thế mới có rất nhiều dự án thực hiện xong không mang lại lợi ích thiết thực, lãng phí tiền của nhân dân. Ví dụ như chuyện đầu tư dự án thủy điện hết 800 triệu đồng chỉ để thắp sáng mấy bóng điện; hệ thống thủy lợi xây xong không có nước; đầu tư cho ngành công nghiệp đóng tàu (Vinashin) hàng trăm nghàn tỷ đồng để rồi thu được con số 0, không những thế còn gây ra khoản nợ khổng lồ hàng ngàn tỷ đồng,... è Làm lạm phát tăng cao, kinh tế mất ổn định. Vậy việc lạm phát tăng cao dẫn đến tình trạng mất cân đối vĩ mô, ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội như hiện nay là hậu quả tất yếu của việc chi đầu tư kém hiệu quả, chi tràn lan không có trọng điểm. Vì vậy, chính phủ cần có những chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ thích hợp để kiềm chế lạm phát cao, giúp kinh tế phát triển ổn định. Mà một khi lạm phát tăng cao, chính phủ phải thực hiện các chính sách tài khóa thắt chặt để kiềm chế lạm phát. Tròng đó, có biện pháp cắt giảm chi ngân sách nhà nước, cắt giảm chi đầu tư phát triển è Lạm phát tác động ngược trở lại chi đầu tư phát triển. Ta có thể thấy được sự tác động này thông qua thực tế như sau: 2 tháng đầu năm 2011 tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đã vượt qua ngưỡng 2 con số là 12,24% >> Chính phủ đã ban hành một công văn khẩn: Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát,  ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. * Nói tóm lại, chi đầu tư phát triển và lạm phát có mối quan hệ nhân quả, tác động qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, không phải lúc nào tăng chi đầu tư phát triển dẫn đến lạm phát tăng cũng là có hại cho nền kinh tế, mà điều quan trọng và đáng lưu tâm ở đây là chi đầu tư phát triển hợp lý, chi đầu tư một cách có hiệu quả dẫn đến lạm phát tăng vừa phải qua từng giai đoạn thì nền kinh tế mới có thể phát triển tăng trưởng ổn định. Theo kinh nghiệm thực tiễn kinh tế thế giới cho thấy nếu bội chi NSNN ở mức độ nhất định ( dưới 5% so với tổng chi ngân sách nhà nước / năm ) là có tác dụng kích thích sản xuất. Những nước có trình độ phát triển cao người ta vẫn chỉ cố gắng thu hẹp chi ngân sách nhà nước chứ chưa loại trừ nó hoàn toàn. Thực chất bội chi NSNN là một hiện tượng kinh tế khách quan. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có thể kiềm chế lạm phát tăng cao, ổn định kinh tế vĩ mô. Biện pháp tối ưu nhất đó là phải tăng cường quản lý NSNN, hạn chế tình trạng thâm hụt ngân ngân sách quá mức như những năm gần đây. Chúng ta sẽ tìm hiểu vấn đề này ở chương 3. ˜ & ™ CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1. Thực trạng quản lý ngân sách ở nước ta. 1.1 Thực trạng thu chi ngân sách nhà nước Theo các quyết toán NSNN chính thức của Bộ Tài Chính, những năm gần đây chi tiêu công của Việt Nam đã vượt 30% GDP. Tuy nhiên điều đáng lo ngại là rất nhiều khoản chi đầu tư phát triển được tài trợ bằng nguồn trái phiếu chính phủ đã được để ngoài bảng cân đối ngân sách (off-budget expenditure). Ngoài ra, cách tính toán bội chi của Việt Nam cũng khác so với các chuẩn mực của ADB hay IMF. Điều này dẫn đến các con số khác nhau về bội chi ngân sách và nợ công. Ví dụ trong năm 2009, bội chi ngân sách của Việt Nam theo công bố gần đây của Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội là 6,9%, nhưng theo ADB là 7,7%, và theo IMF thậm chí lên tới 8,9% GDP. Một điều đáng lo ngại nữa là cơ cấu các khoản thu ngân sách của Việt Nam còn phụ thuộc vào nhiều khoản thu kém bền vững. Những tính toán đơn giản từ bảng quyết toán NSNN cho thấy khoảng 17% tổng thu hàng năm là thu từ dầu thô và khoảng 8% là từ bán tài sản như đất đai và doanh nghiệp nhà nước. Đây không phải là những nguồn thu ổn định trong dài hạn, và việc đưa những khoản thu này vào tính toán bội chi ngân sách nhà nước cũng giống như một cá nhân bán tài sản đi để chi tiêu và trả nợ. Về bản chất, khoản vay và nợ của anh ta có thể giảm nhưng tài sản của anh ta cũng giảm tương ứng. Tức là anh ta đã nghèo đi. Ngoài ra, thu viện trợ không hoàn lại và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu (chủ yếu là thuế nhập khẩu) lần lượt chiếm khoảng 1,7% và gần 25%. Sự gia tăng nhanh của nguồn thu từ hoạt động xuất nhập khẩu một phần cho thấy nhập khẩu của Việt Nam đang ngày càng lớn và nguồn thu này trong tương lai sẽ bị cắt giảm khi Việt Nam dần thực hiện các cam kết dỡ bỏ hàng rào thuế quan khi đã chính thức gia nhập WTO. Như vậy nguồn thu được coi là bền vững là thuế và phí trong nước chỉ chiếm khoảng trên 40% tổng thu, một con số quá thấp. Nhu cầu chi cho đầu tư phát triển vẫn rất lớn trong khi nguồn thu lại khó tăng trong những năm tới khiến cho thâm hụt ngân sách hàng năm sẽ còn tiếp tục ở mức cao. Nhiều ý kiến cho rằng, trong nhiều năm qua, việc thực hiện chính sách tài khóa lỏng lẻo đã khiến cho thâm hụt ngân sách của nước ta ngày càng tăng cao. Mức thâm hụt ngân sách không thể là 5% như cách tính của Chính phủ mà phải cao hơn (theo cách tính của Quỹ tiền tệ thế giới IMF, mức bội chi NSNN phải là gần 7% GDP nếu tính cả khu vực dầu khí). Theo đại diện của Quỹ tiền tệ thế giới IMF, khi tính bội chi NSNN, Việt Nam cần phải tính một số nhiệm vụ chi hiện nay không cân đối vào NSNN như: đầu tư vốn theo nguồn hỗ trợ phát triển chính thức của ODA; các hoạt động đầu tư do Ngân hàng phát triển Việt Nam hỗ trợ; cho vay bằng hình thức trái phiếu ưu đãi; chi đầu tư ngoài ngân sách (đầu tư các công trình giao thông và thủy lợi thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ hay công trái giáo dục).... Cũng theo báo cáo của IMF mà chuyên gia tư vấn độc lập đưa ra tại Hội thảo, nếu tách rời khu vực dầu khí theo định nghĩa thâm hụt ngân sách của IMF thì bội chi NSNN của Việt Nam phải lên tới 14,5%, quá cao so với chuẩn thế giới. Còn theo đánh giá của một chuyên gia đầu ngành Bộ Kế hoạch và đầu tư, trong 8 năm, tính từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng bội chi NSNN của Việt Nam là khá cao, ở mức 17 - 18%/năm. Chính mức bội chi NSNN tăng liên tục qua các năm với mức cao đã làm gia tăng lượng tiền trong lưu thông, khiến cho lạm phát ngày càng trầm trọng. Việc áp dụng chính sách tăng trưởng dựa vào đầu tư cao nhưng sử dụng đồng vốn ở khu vực nhà nước kém hiệu quả, cũng như thiếu sự phối hợp đồng bộ trong điều hành kinh tế vĩ mô thời gian qua khiến cho nền kinh tế đang phải đối mặt với tình trạng lạm phát và bất ổn vĩ mô như hiện nay. Quốc hội vừa thông qua bội chi ngân sách nhà nước là 121 ngàn tỉ đồng, tương đương 5,3% GDP tính theo giá hiện hành của năm 2011. Điều này cũng hàm ý GDP theo giá hiện hành của năm 2011 sẽ là 2.275 ngàn tỉ, tăng khoảng 18% so với con số dự kiến tương ứng của năm 2010. Tăng trưởng của GDP theo giá hiện hành (GDP = tổngQxP) tương đương với tổng của tốc độ tăng sản lượng Q (tăng trưởng GDP theo giá so sánh hay còn gọi là tăng trưởng kinh tế) và tốc độ tăng giá cả P (lạm phát). Như vậy xem ra mục tiêu tăng trưởng 7-7.5% và lạm phát 7% (cộng lại mới chỉ bằng 14.5%) có vẻ như mâu thuẫn với con số tăng trưởng GDP theo giá hiện hành 18% này. Như vậy, giả sử tăng trưởng kinh tế năm sau đạt 7%, thì một trong hai khả năng có thể xảy ra: (1) hoặc là bội chi ngân sách sẽ là 5,3% GDP nhưng lạm phát sẽ cao hơn mức mục tiêu (7%) hoặc; (2) Lạm phát sẽ là 7% và bội chi ngân sách sẽ cao hơn. Rõ ràng, bội chi ngân sách cao và kiềm chế lạm phát là hai mục tiêu khó có thể đạt được đồng thời. 1.2. Những bất cập trong chi đầu tư phát triển Chi đầu tư phát triển còn bất cập do công tác lập kế hoạch chi đầu tư còn nhiều tồn tại, hạn chế: các văn bản pháp lý về quản lý ngân sách nhà nước trong còn thiếu và chưa đồng bộ. Chất lượng một số dự án quy hoạch chưa cao, nhiều dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn xa, nhất là các quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng. Nhiều quy hoạch còn mang tính chủ quan và cục bộ, ngành và địa phương chưa gắn với nghiên cứu nhu cầu của thị trường và khả năng đầu tư. Quy hoạch chưa được thương xuyên cập nhật, bổ xung và điều chỉnh kịp thời do đó nhiều quy hoạch lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn. Nhũng tồn tại trong công tác quy hoạch là một trong những nguyên nhân làm cho việc lập kế hoạch chi đầu tư phát triển thiếu căn cứ chuẩn xác dễ dẫn đến quyết định đầu tư kém hiệu quả. Nhiều Bộ, ngành, địa phương quyết định đầu tư một số dự án còn mang tính cục bộ, địa phương. Quyết định đầu tư chưa gắn với khả năng của nguồn vốn thực hiện, vượt qua khả năng ngân sách. Còn tư tưởng trông nhờ vào nguồn vốn ngân sách, chưa quan tâm nhiều đến việc huy động các nguồn vốn khác, chưa kiên quyết cắt giảm các dự toán đầu tư hiệu quả không cao, chưa kiên quyết bố trí cho các dự án, công trình trọng điểm. Sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình lập dự toán chi đầu tư phát triển chưa chặt chẽ dẫn đến dự toán chi đầu tư phát triển còn nhiều tồn tại, hạn chế. Quy lập dự toán chi còn có sự tách rời giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển: các địa phương , các bộ và cơ quan trung ương lập dự toán chi NSNN phải lập riêng rẽ chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển . Đối với dự toán chi thường xuyên , các cấp ngân sách ,các đơn vị lập dự toán gửi cơ quan tài chính; đối với kinh tế chi đầu tư phát triển , kinh phí chương trình dự án các đơn vị lập dự toán gửi cơ quan kế hoạch đầu tư. Tại trung ương, chi đầu tư phát triển do Bộ Kế hoạch và Đầu tư lập căn cứ vào quy hoạc phát triển kinh tế xã hội, nguồn vốn ngân sách hiện có và tình hình thực hiện các dự án đầu tư, việc phân bố ngân sách đầu tư cũng chủ yếu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư lập phương án và trình Chính phủ để Chính phủ trình quốc hội. Bộ tài chính chủ yếu tập trung vào xây dựng dự toán chi tiêu hàng năm, tổng hợp kế hoạch chi đầu tư phát triển và chi thương xuyên trên cơ sơ đó thực hiện cân đối ngân sách, dự kiến mức bội chi và nguồn bù đắp. Với cách lập ngân sách như vậy một mặt gây phức tạp cho các cơ quan, đơn vị và địa phương. Để có được dự toán ngân sách và mức phân bổ ngân sách cho cấp mình, cơ quan mình, các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương phải thực hiện đàm phán với hai cơ quan khác nhau chưa kể có sự tham gia của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực và quản lý chương trình mục tiêu quốc gai. Mặt khác trong dự toán ngân sách thiếu vắng những khoản chi phục vụ cho việc duy tu, bảo dưỡng các công trình, các dự toán. Không hề có mối liên hệ chính thức nào giữa chương trình đầu tư công cộng từ NSNN và chi thường xuyên. Trong khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tập trung vào phê chuẩn các dự án đầu tư nhiều năm thì Bộ Tài chính lại tập trung vào ngân sách thương xuyên hàng năm mà không có sự tính toán đầy đủ các phí dài hạn. Trong điều kiện đó tất yếu dẫn đến các công trình hoàn thành đưa vào sử dụng chưa được tính toán và phân bố đầy đủ kinh phí duy tu, bảo dưỡng, kinh phí cho việc vận hành công trình… Những bất cập này đã dẫn đến tình trạng lạm pháp tăng cao, kéo dài trong thời gian gần đây, chỉ trong 2 tháng đầu năm 2011 lạm phát đã vượt quá ngưỡng 2 con số là 12,24%. Vậy cần có những giải pháp nhằm tăng cường quản lý NSNN, cân đối thu chi, chi tiêu hợp lý, có kế hoạch, đúng trọng điểm. 2. Các giải pháp tăng cường quản lý NSNN Tình hình kinh tế thế giới hiện diễn biến phức tạp, lạm pháp tăng, giá dầu thô, giá nguyên vật liệu đầu vào của sản xuất, giá lương thực thực phẩm tiếp tục xu hướng tăng cao. Trong nước, thiên tai, thời tiết tác động bất lợi đến sản xuất và đời sống; một số mặt hàng là đầu vào quan trọng của sản xuất như điện, xăng dầu vẫn chưa thực hiện đầy đủ theo cơ chế giá thị trường buộc phải điều chỉnh tăng; mặt khác chúng ta phải nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa để ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. Tình hình trên đã làm giá cả tăng cao, tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy theo tinh thần của Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ chúng ta phải phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để có thể kiềm chế lạm phát,  ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng Ngân hàng Nhà nước đã cụ thể hóa các nhóm giải pháp, trong đó nêu khá cụ thể ba vấn đề quan trọng về giảm cung tiền, lãi suất và tỷ giá: Thứ nhất, giảm lượng cung tiền và giảm tốc độ tăng tín dụng (đảm bảo tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán dưới 16% và kiềm chế tín dụng tăng dưới 20%, tương ứng với việc giảm tổng cầu của nền kinh tế) bằng việc sử dụng và điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, tập trung ở 4 công cụ chính là lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn và dự trữ bắt buộc để điều tiết lượng tiền cung ứng và thanh khoản. Điều đáng ghi nhận là không cắt giảm đồng loạt, mà tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; đồng thời giảm đến mức tối đa tín dụng cho lĩnh vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán... Thứ hai, kiểm soát lãi suất ở mức hợp lý theo hướng chủ động, tích cực kiềm chế lạm phát, kiềm chế tăng trưởng tín dụng, nâng cao giá trị và mức hấp dẫn của VNĐ so với ngoại tệ, đồng thời kiểm soát được việc chuyển dịch tín dụng VNĐ sang ngoại tệ; chủ động phối hợp với Bộ Tài chính trong việc phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước và quốc tế, điều hành thị trường vốn nhằm đảm bảo sự thống nhất, nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa theo hướng kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ ba, điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường. Triển khai ngay các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân, trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý. Có các biện pháp để kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng thẻ thanh toán quốc tế và chi tiêu ngoại tệ ra nước ngoài của các tổ chức và cá nhân. Thực hiện các biện pháp quản lý chặt chẽ thị trường vàng, điều hành hoạt động xuất nhập khẩu vàng một cách hợp lý, ngăn chặn hoạt động đầu cơ, găm giữ, thao túng thị trường. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát đối với hoạt động cấp tín dụng, chất lượng tín dụng... Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước Thu ngân sách nhà nước: Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương chỉ đạo phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước 7-8% so với dự toán ngân sách năm 2011 đã được Quốc hội thông qua. Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới. Chi ngân sách nhà nước_Chi thường xuyên: Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương Chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 (không bao gồm chi tiền lương và các khoản có tính chất lương, chi chế độ chính sách cho con người và tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo kế hoạch đầu năm). Đôn đốc các Bộ, cơ quan, địa phương gửi báo cáo về số tiết kiệm đã xác định; tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 3 năm 2011. Từ quý III năm 2011: Xem xét, hướng dẫn, thông báo để các Bộ, cơ quan, địa phương bố trí cho các nhiệm vụ cấp bách phát sinh ngoài dự toán hoặc chuyển về ngân sách Trung ương số kinh phí tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên đã trích Tạm dừng trang bị mới xe ô-tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,...; không bố trí kinh phí cho các việc chưa thật sự cấp bách. Tiết giảm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo, tổng kết, sơ kết, đi công tác trong và ngoài nước... Không bổ sung ngân sách ngoài dự toán, trừ các trường hợp thực hiện theo chính sách, chế độ, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Xử lý nghiêm, kịp thời, công khai những sai phạm. Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP Giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn. Thực hiện rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ. Bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn và an toàn tài chính quốc gia Chi ngân sách nhà nước_Chi đầu tư phát triển: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương Không ứng trước vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chín

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4-Noi dung.doc
  • doc1-Bia tieu luan _1.doc
  • doc1-Bia tieu luan_2.doc
  • doc2-Loi cam on.doc
  • doc3-Loi mo dau.doc
  • doc5-Ket luan.doc
  • doc6-Tai lieu tham khao.doc
  • doc7-MỤC LỤC_NSNN.doc
  • pptNhom 7-De tai 7.ppt
Tài liệu liên quan