Tiểu luận Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh giải quyết vấn để dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân la điều kiện để giải phóng giai cấp. Vi thế, lợi ích của giai cấp phải phục tung lợi ích của dân tộc.

 

Tháng 5-1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc nay nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đoi được độc lập, tự do cho toan thể dân

tộc, thì chẳng những toản thể quốc gia dân tộc còn chịu mai kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5453 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa. III- Những quan điểm chính của Người về vấn đề dân tộc Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thực chất là nghiên cứu quan điểm của Bác về các dân tộc thuộc địa, nghiên cứu về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trên pham vi quốc tế cũng như trong quốc gia dân tộc Việt Nam, và nghiên cứu về quan hệ giữa Dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác trên Thế giới. Đó là những vấn đề liên quan đến chiến lược giải phóng dân tộc bị áp bức. Bao gồm những nội dung cơ bản sau: Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả dân tộc. Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa Kẻ xâm lược thường tự cho dân tộc mình là siêu đẳng, có nghĩa vụ đi khai hoá dân tộc khác, chúng tự cho mình cái quyền chém giết những dân tộc yếu hơn để đàn áp, bóc lột, thoả mãn dã tâm của riêng chúng. Chúng coi mình đứng trên tất cả, cho sự bóc lột của mình là một sự ban phát ân huệ, và đi rêu rao rằng dân tộc mình đang làm nghĩa vụ khai hoá cho một Dân tộc khác hèn yếu hơn.(Những tư tưởng và hành động ấy thật là vô sỉ). Chính vì vậy, độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri. Theo Bác, tất cả các đân tộc phải được độc lập, tự do. Đây là độc lập hoàn toàn, độc lập thực sự trên tất cả các mật kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao và toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề thuộc về chủ quyền dân tộc phải do chính Dân tộc đó giải quyết, không cá sự can thiệp của nước ngoài. Dân tộc độc lập trong tư tưởng của Bác còn phải được thể hiện bằng sự ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập thật sự phải gắn với hoà bình thật sự. “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình…kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Khi đã giành được độc lập tự do thì phải bằng mọi giá để giành và bảo vệ quyền ấy. Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã dc các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ 1 thừa nhận, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Người đã gửi tới Hội nghi Vec- xay bản yêu sách gồm 8 điểm đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Trong đó nổi lên hai nội dung cơ bản: + Cho nhân dân Việt Nam được hưởng chế độ tự trị thuộc Pháp. + Cho nhân dân Việt Nam được hưởng các quyền tự do dân chủ, như những người Pháp và người nước ngoài được hưởng trên lãnh thổ Việt Nam. Khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rôdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, họp ngày 29 tháng 12 năm 1920:Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III? Hồ Chí Minh trả lời: “Rất giản đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.” Cũng ngay tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Anbe Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với ông ta mong muốn của mình và của nhân dân Việt Nam rằng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…” Cách mạng tháng Tám thành công, Người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế giới: “Nước VN có quyền hưởng tự do va độc lập. Toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng va của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói chuyện với đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập.” Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do.” Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. 2- Ở các nước đấu tranh giải phóng dân tộc, chủ nghĩa dân tộc chân chính là một động lực lớn Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề, thì phản ứng của dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ quần chúng lao động (công nhân va nông dân), mà cả các giai cấp và tầng lớp trên trong xã hội (tiểu tư sản, tư sản va địa chủ) đều phải chịu nỗi nhục của người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập, tự do. Xuất phát từ phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, chứng kiên tinh thần đấu tranh quyết liệt của nhân dân các nước thuộc địa, chống lại tư bản thực dân phương Tây, nhận thức sâu sắc sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc chân chính trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận ở các nước đấu tranh giải phóng dân tộc, chủ nghĩa dân tộc chân chính là một động lực lớn. Vi thế, “Người ta sẽ không làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các lực lượng vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của nhân dân An Nam”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính “là một bộ phận của tinh thần quốc tế”- là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính . Nó khác hẳn bản chất với chủ nghĩa dân tộc so vanh, của giai cấp tư sản, “khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động” đã bị lịch sử lên án. Khi đã xác định chủ nghĩa dân tộc chân chính là một động lực lớn, từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xa hội thuộc địa, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với tư cách là chủ nghĩa yêu nước chân chính của các dân tộc thuộc địa. Đó la sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào mà người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, và Người cho đó là, “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”. Hồ Chí Minh yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản phải nắm lấy và phát huy ngọn cờ dân tộc, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác. “ Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản…Khi chủ nghĩa dân tộc bản xứ thắng lợi… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế.”- đấy mới là chủ nghĩa dân tộc chân chính. 3- Sự kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế Dưới ánh sáng của CNMLN khi Hồ Chí Minh bàn đến vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn với CNXH, mối quan hệ dân tộc và giai cấp. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp. Để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc một cách triệt để, việc kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước Hồ Chí Minh,các nhà kinh điển Mác–Lênin đã đưa ra quan điểm về sự cần thiết phải kết hợp dân tộc với giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của các nước châu Âu, từ yêu cầu và mục tiêu của cách mạng vô sản châu Âu, các ông đã nhấn mạnh hơn đến vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, xem việc giải quyết vấn đề dân tộc ở thuộc địa phụ thuộc vào việc giải quyết vấn đề giai cấp ở chính quốc. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của các nhà kinh điển Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Người cũng cho rằng giữa các vấn đề này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của các thuộc địa, nơi mà mâu thuẫn dân tộc đang là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu, Hồ Chí Minh cho rằng vấn đề dân tộc phải được ưu tiên giải quyết trước vấn đề giai cấp, có giải phóng được dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có độc lập dân tộc mới có địa bàn để tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh thấy rõ mối quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp của giai cấp vô sản.“Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Tư tưởng kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa to lớn. Nó chính là phương hướng để giải quyết vấn đề dân tộc thuộc địa một cách triệt để, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Năm 1930, trong chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định con đường của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Năm 1960, Hồ Chí Minh xác định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Tư tưởng Hồ ChíMinh về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với các mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Do đó “giành được độc lập rồi phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của CNXH là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng”. Độc lập cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc khác. Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức. Để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc khi chúng đã kết hợp với nhau thành lực lượng phản động quốc tế, các dân tộc thuộc địaphải đoàn kết với nhau, đoàn kết với giai cấp vô sản ở chính quốc. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản là cơ sở cho khối đoàn kết này. Kế thừa tinh thần chủ nghĩa yêu nước dân tộc và nêu cao quan tinh thần quốc tế vô sản của chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thời nhận rõ sức mạnh của chủ nghĩa đế quốc và sự câu kết các nc đế quốc trong việc xâm chiếm và thống trị thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng muốn giải quyết thành công vấn đề thuộc địa, các nc thuộc địa và giai cấp vô sản chính quốc phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, thực hành chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bản thân Người là 1 tấm gương trong việc này. “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”. Chủ nghĩa dân tộc thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình trong việc giúp đỡ các đảng cộng sản trên thế giới. III-Vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh Theo Mác và Lênin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất và phân công lao động, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định” Theo Hồ Chí Minh ,tất cả của cải vật chất, trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển. Nhưng đa số người lao động thì suốt đời nghèo khó, mà thiểu số người không lao động thì lại hưởng thụ thành quả lao động đó. Đó là do một số ít người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội. Họ có tư liệu sản xuất nhưng họ không làm lụng, họ bắt buộc người khác làm cho họ hưởng. Do đó mà có giai cấp. Những người chiếm tư liệu sản xuất không làm mà hưởng, là giai cấp bóc lột hay giai cấp tư sản. Những người không sở hữu tư liệu sản xuất là giai cấp vô sản, trong giai cấp đó, những người lao động mà không được hưởng giá trị thặng dư và thành quả lao động là giai cấp bị bóc lột hay giai cấp công nhân. IV-Mối quan hệ hữu cơ giữa vấn đề giai cấp và thuộc địa trong tư tưởng của Người Quan điểm Mác- Lênin Giai cấp và dân tộc có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng đó là những phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, mỗi nhân tố có vai trò lịch sử của nó, dân tộc - giai cấp không thể thay thế lẫn nhau. Tách rời giai cấp và dân tộc hoặc đem qui mối quan hệ này vào mối quan hệ kia sẽ là sai lầm. Giai cấp và dân tộc sinh ra, mất đi không đồng thời. Trong lịch sử loài người, giai cấp ra đời trước dân tộc hàng ngàn năm, nhưng khi giai cấp mất đi dân tộc vẫn tồn tại lâu dài. Quan hệ giai cấp - với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất trong xã hội có giai cấp - là nhân tố xét đến cùng quyết định đối với sự hình thành dân tộc tư bản, xu hướng phát triển quyết định bản chất xã hội của dân tộc, quyết định bản chất xã hội của dân tộc, qui định tính chất của các quan hệ giữa các dân tộc. Mỗi giai đoạn phát triển cụ thể của lịch sử, giai cấp nào gắn với phương thức sản xuất thống trị, giai cấp đó trở thành lực lượng tiêu biểu và lãnh đạo dân tộc. Giai cấp đứng đầu sẽ hướng dân tộc phát triển theo mẫu hình của nó. Giai cấp đó bằng mọi biện pháp quyết định hình thức phát triển của dân tộc. Tuy nhiên giải quyết quan hệ giữa lợi ích của dân tộc cũng rất phức tạp. Không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau, thậm chí trái ngược nhau và đối lập với lợi ích dân tộc. Vì lợi ích giai cấp, trong nhiều trường hợp giai cấp thống trị bán rẻ lợi ích dân tộc. Cũng theo Mác –Ăngghen, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình với các lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp thì mới xoá bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho dân tộc khác. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản, đối với Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp Khi nhấn mạnh vài trò của nhân tố giai cấp, chủ nghĩa Mác - Lênin không hạ thấp vai trò của nhân tố dân tộc trong quan hệ giai cấp - dân tộc. Trong sự phát triển lịch sử, vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của cách mạng vô sản. Muốn nhận thức và giải quyết tốt vấn đề dân tộc “phải có quan điểm của giai cấp công nhân”, đó là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. 2- Quan điểm của Hồ Chí Minh Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp sáng tạo và xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Vấn đề dân tộc luôn gắn với vấn đề giai cấp, phụ thuộc vào vấn đề giai cấp, và dân tộc bao giờ cũng do một giai cấp đại diện, quan hệ này là quan hệ lợi ích, giai cấp phong kiến và tư sản đã từng đại diện cho dân tộc và giải quyết quan hệ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc nhưng không triệt để, còn nhiều mâu thuẫn ví dụ vua quan Nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, bảo vệ lợi ích của dòng tộc, Pháp đầu hàng Đức,… Tiếp nhận những quan điểm đúng đắn của CNMLN về vấn đề giai cấp và thuộc địa, Người cho rằng phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, và trước hết vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc.. Theo Người, giai cấp và dân tộc là hai vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau. Chúng kết hợp nhuần nhuyễn với nhau, sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện: -Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng Sản trong quá trinh cách mạng Việt Nam. - Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. - Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù. - Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân. - Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó, không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận cũng không thể tồn tại. Giải phóng dân tộc là tiền đề cho giải phóng giai cấp Hồ Chí Minh giải quyết vấn để dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân la điều kiện để giải phóng giai cấp. Vi thế, lợi ích của giai cấp phải phục tung lợi ích của dân tộc. Tháng 5-1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc nay nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đoi được độc lập, tự do cho toan thể dân tộc, thì chẳng những toản thể quốc gia dân tộc còn chịu mai kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Khác với các con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến (cuối TK XIX), hoặc chủ nghĩa tư bản (đầu TK XX), con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc va giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Năm 1960, Người nói: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động tren thế giới khỏi ách nô lệ”. Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Hồ Chí Minh nói: “nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gi”. Người khẳng định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vi có tiến lên chủ nghĩa xã hội thi nhân dân minh mỗi ngay một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc Giữ vững độc lập của dân tôc mình đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp minh", và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc va giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như Ph. Ăngghen từng nói: những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trao công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”. V-Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này. Chính vì vậy Đảng ta luôn tìm cách vận dụng triệt để tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp và thuộc địa để xây dựng CNXH ở nc ta. Một só biện pháp như là: 1. Khơi dậy CN yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn lực mạnh mẽ nhất để xây dựng và bảo vệ tổ quốc: Trong đổi mới Đảng ta luôn khẳng định tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế độc lập dân tộc và CNXH nhằm tạo ra nguồn lực mới để phát triển đất nước. Trong đó cần phát huy tối đa nguồn nội lực, nhất là nguồn lực con người (trí tuệ, truyền thống dân tộc, vốn, tài nguyên) kiên quyết không chịu nghèo hèn, thấp kém, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vững bước tiến lên CNXH. 2. Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm của giai cấp CN: Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao chủ nghĩa yêu nước nhưng luôn vững vàng trên lập trường giai cấp CN trong giải quyết vấn đề dân tộc. Đảng ta luôn khẳng định: Giai cấp CN Việt Nam là giai cấp độc quyền lãnh đạo CM Việt Nam từ khi có Đảng . Đại đoàn kết nhưng phải trên nền tảng liên minh công nông trí thức do giai cấp CN lãnh đạo. Trong giành, giữ chính quyền phải sử dụng bạo lực CM của quần chúng chống lại bạo lực phản CM. Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH: Đây là nguyên tắc bất biến cần vận dụng mọi hoàn cảnh. Phong trào CM thế giới có lúc tả, có lúc hữu, lúc nhấn mạnh lợi ích giai cấp coi nhẹ lợi ích dân tộc, gần đây lại gạt bỏ lợi ích giai cấp, tuyệt đối hơn lợi ích dân tộc, từ bỏ CM, từ bỏ CN quốc tế vô sản. Đảng ta vẫn khẳng định: Dù Liên Xô, Đông Âu tan rã, thế giới biến động, đấu tranh giai cấp dân tộc diễn ra dưới nhiều hình thức khác, nhưng không được buông lơi quyền lợi giai cấp, nhấn mạnh lợi ích dân tộc làm suy yếu phong trào CM thế giới, tan rã CNXH, bùng phát xung đột dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ là làm giàu cho bọn lái súng,… Cần chống lại quan điểm cho rằng đất nước đi theo con đường nào cũng được, không nhất thiết độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, CNXH là lý tưởng nhưng là không tưởng, ép ta từ bỏ CNXH, đa nguyên chính trị, từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng để có tự do tư sản. Đảng ta khẳng định xây dựng CNXH vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" không chỉ là vấn đề giai cấp mà còn là vấn đề dân tộc, ở Việt Nam chỉ có Đảng CS Việt Nam mới là đại biểu cho lợi ích giai cấp CN,nhân dân lao động và dân tộc, mới xây dựng được khối đại đoàn kết thực hiện mục tiêu nêu trên những lệch lạc tư tưởng tả hoặc hữu đều trái với tư tưởng Hồ Chí Minh. 3. Chăm lo xây dựng khối đại đòan kết dân tộc, giải quyết tốt mối

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_giua_ki_7201.doc