Tiểu luận Phân tích môi trường Mỹ và đề xuất phương thức kinh doanh quốc tế của cà phê Việt Nam tại Mỹ

MỤC LỤC

I. Phân tích môi trường Mỹ 1

1) Môi trường vĩ mô 1

a) Môi trường tự nhiên 1

b) Môi trường chính trị 5

c) Môi trường pháp luật 6

d) Môi trường kinh tế 10

e) Môi trường văn hóa 13

2) Môi trường vi mô 15

a) Nhà cung ứng 15

b) Khách hàng 16

c) Đối thủ tiềm năng 16

d) Đối thủ hiện tại 17

e) Sản phẩm thay thế 17

II. Phương hướng đề xuất KDQT cho cà phê 18

1) Xuất khẩu 19

2) Liên doanh 21

3) Liên minh chiến lược 22

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14490 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích môi trường Mỹ và đề xuất phương thức kinh doanh quốc tế của cà phê Việt Nam tại Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âm. Entisols là loại đất hình thành gần đây, quá trẻ để có thể cho thấy những hiệu ứng điều chỉnh của môi trường xung quanh. Tiềm năng nông nghiệp của entisols rất thay đổi, song đất của cánh đồng nước phù sa, được tụ về từ những lớp đất cao hơn màu mỡ của thượng nguồn, thuộc loại đất trồng có năng suất cao nhất của nước Mỹ. Kết luận: Với những điều kiện tự nhiên kể trên, có thể thấy Mỹ có nhiều hạn chế trong việc phát triển nông nghiệp, nhất là các cây trồng nhiệt đới như cà phê, cacao, lúa nước… Môi trường chính trị: Hệ thống kinh tế chính trị: Hoa Kỳ có một cấu trúc chính trị phức tạp, với quyền phán xét đối với một hoạt động hay một bang được chia cho nhiều cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khác nhau, một số cơ quan được bầu ra, một số là do chỉ định. Chính quyền liên bang theo thể thức tam quyền phân lập gồm có ba bộ máy: bộ máy hành pháp (do Tổng thống đứng đầu), bộ máy lập pháp (Quốc hội) và bộ máy tư pháp (do Tòa án Tối cao đứng đầu). Chính quyền liên bang và tiểu bang phần lớn do hai đảng chính điều hành: đảng Cộng hoà và đảng Dân chủ. Đảng Cộng hoà thường có chính sách bảo thủ trong khi đảng Dân chủ có chính sách cấp tiến. Đảng Cộng hoà thường được nhận ủng hộ tinh thần và tài chính từ các nhóm thương mại, các người sùng đạo Kitô giáo và người ở nông thôn, trong khi đảng Dân chủ thường nhận được ủng hộ từ các công đoàn và các nhóm người thiểu số. Các thế lực chính trị tại Mỹ: Giới cầm quyền tại Mỹ: hiện nay ở Mỹ đang diễn ra cuộc vận động bầu cử chọn tổng thống mới giữa 2 Đảng Cộng Hòa và Đảng Dân Chủ. Vậy người của Đảng nào sẽ thắng cử? Vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng đến vấn đề kinh doanh quốc tế. Vì tổng thống lên thì sẽ đưa ra những đạo luật mới để quản lý nước mình, làm thế nào để dân mình được ấm no, xã hội mình ngày càng thịnh vượng và nước mình ngày càng phát triển. Và cả sự đễ dàng hay khó khăn trong các đạo luật khi tiến hành kinh doanh quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích cho mình trên cơ sở vẫn phát triển được kinh tế nước nhà. Các hiệp hội: đây là cách mà các doanh nghiệp trong nước hoặc là các hiệp hội của một quốc gì liên kết lại với nhau để tự bảo vệ mình, như hiệp hội cà phê,.... Điều này càng thể hiện rõ trong kinh doanh quốc tế. Kết luận: Vì hệ thống chính trị với bộ máy nhà nước có cấu trúc phức tạp nên việc giải quyết một vấn đề nào đó cũng rất phiền phức. Nhưng có một điểm nổi bật chính là dân chủ, chính quyền chịu nghe ý kiến của dân. Một cơ hội mà Việt Nam có được từ chính quyền Mỹ là một quan hệ tốt cả về chính trị lẫn kinh tế. Đây là cơ hội trong việc xúc tiến hoạt động thương mại với Mỹ để nhận được những ưu đãi và gia nhập vào các hiệp hội kinh tế của Mỹ để có nhiều cơ hội phát triển hơn về sau. Môi trường pháp luật: Các luật lệ, quy định: Hoa Kỳ là một nước cộng hoà liên bang gồm 50 bang. Ngoài hệ thống pháp luật liên bang, mỗi bang đều có hệ thống pháp luật riêng nhưng không được trái với Hiến pháp của liên bang. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa luật liên bang và luật bang hoặc luật địa phương, thì luật liên bang sẽ có hiệu lực. Và có những trường hợp phải áp dụng luật liên bang, luật từng bang hoặc có thể cả hai. Ví dụ, ở Hoa kỳ không có những qui định chung áp dụng cho cả liên bang về thành lập công ty hoặc văn phòng đại diện mà những qui định này ở mỗi bang một khác. Các hoạt động xuất nhập khẩu chịu sự điều tiết trực tiếp và chủ yếu của hệ thống luật liên bang. có một số luật của một số bang cũng có ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu. Ví dụ, nhập khẩu xe hơi vào Hoa kỳ chịu sự điều tiết trực tiếp và chủ yếu của các luật liên bang liên quan đến nhập khẩu xe hơi. Có một số bang có quy định về luật môi trường khắc khe hơn một số bang khác. Ví dụ: luật của bang Pennsylvania chỉ qui định nguyên liệu nhồi trong đồ chơi không được có chất gây hại, trong khi đó luật của bang Ohio lại qui định khắt khe hơn là nguyên liệu nhồi trong đồ chơi phải là mới và phải được kiểm tra phòng truyền nhiễm bệnh do vi khuẩn. Ngoài việc nghiên cứu các luật, việc nghiên cứu các quyết định của toà án cũng là một phần không thể thiếu để hiểu đầy đủ về luật pháp Hoa kỳ đối với một vấn đề nào đó. Các rào cản thương mại: Để hạn chế sự cạnh tranh của nước ngòai trên thị trường Hoa Kỳ cũng như bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp trong nước mà Mỹ đã áp dụng các mức thuế quan hay hạn ngạch để điều tiết thương mại. Một số lọai thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ: Thuế theo trị giá: được đánh theo tỷ lệ trên giá trị, tức là bằng một tỷ lệ phần trăm trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu. Thuế theo trọng lượng hoặc khối lượng: chủ yếu là nông sản và hàng sơ chế phải chịu thuế theo trọng lượng hoặc khối lượng. Thuế gộp: Một số hàng hóa phải chịu gộp cả thuế theo giá trị và thuế theo số lượng. Hàng phải chịu thuế gộp thường là hàng nông sản Thuế theo thời vụ: thay đổi theo thời điểm nhập khẩu vào Hoa Kỳ trong năm Thuế leo thang: nghĩa là hàng càng chế biến sâu thì thuế suất nhập khẩu càng cao Các mức thuế: Mức thuế tối huệ quốc (MFN), hay còn gọi là mức thuế dành cho các nước có quan hệ thương mại bình thường (NTR), được áp dụng với những nước thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và những nước tuy chưa phải là thành viên WTO nhưng đã ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Mức thuế tối huệ quốc (MFN) nằm trong phạm vi từ dưới 1% đến gần 40%, trong đó hầu hết các mặt hàng chịu mức thuế từ 2% đến 7%. Ngòai ra, còn có Mức thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) . Thuế suất Non-MFN nằm trong khoảng từ 20% đến 110%, cao hơn nhiều lần so với thuế suất MFN. Mức thuế áp dụng với Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Hàng hoá nhập khẩu từ Canada và Mexico được miễn thuế nhập khẩu hoặc được hưởng thuế suất ưu đãi thấp hơn mức thuế MFN. Chế độ ưu đãi độ thuế quan phổ cập (Generalized System of Preferences - GSP.Theo luật Hoa Kỳ, cấm không cho nước cộng sản hưởng GSP trừ phi: các sản phẩm của nước đó được hưởng đối xử không phân biệt (MFN); nước đó là thành viên của WTO và là thành viên của Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF); nước đó không bị thống trị hoặc chi phối bởi cộng sản quốc tế.  Các hiệp định thương mại tự do song phương hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ từ những nước có hiệp định thương mại tự do với Hoa Kỳ đều được miễn thuế nhập khẩu hoặc có mức thuế thấp hơn nhiều so với mức thuế MFN Ưu đãi thuế quan cho những hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ thuộc diện hưởng lợi của Luật Thương mại Ngòai ra, Hoa Kỳ còn có một số mức thuế ưu đãi cho các vùng như lòng chảo Caribe, hay châu Phi,…. Các rào cản phi thuế quan: Ngoài việc áp dụng biểu thuế quan, Mỹ còn thiết lập một số hàng rào phi thuế quan để hạn chế hàng nhập khẩu. Hàng rào phi thuế quan gồm các rào cản về kỹ thuật thuế chống phá giá và thuế đối kháng cũng như hạn ngạch nhập khẩu nhằm buộc các nhà sản xuất, phân phối, bán lẻ cũng như những nước xuất khẩu phải chịu trách nhiệm tuyệt đối với những khuyết tật của sản phẩm mà gây hại cho người tiêu dùng. Thuế theo hạn ngạch: Hàng hoá nhập khẩu nằm trong phạm vi hạn ngạch cho phép được hưởng mức thuế thấp hơn, nếu vượt quá hạn ngạch phải chịu mức thuế cao hơn nhiều và có hệ quả như cấm nhập khẩu. Thuế chống phá giá (antidumping duties- Ads): là lọai thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu để bán ở Hoa Kỳ với giá thấp hơn giá trị đúng trên thị trường, tức là thấp hơn giá bình thường bán ở nước sản xuất. Thuế chống phá giá được áp dụng khi: Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) phải xác định hàng nước ngoài đang được bán phá giá hoặc có thể sẽ được bán phá giá ở thị trường Hoa Kỳ Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) phải xác định hàng nhập khẩu được bán phá giá đang gây thiệt hại vật chất hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất hoặc ngăn cản hình thành ngành công nghiệp tương tự tại Hoa Kỳ Thuế đối kháng hay thuế trợ giá (countervailing duties – CVDs): là lọai thuế đánh vào hàng hóa được hưởng trợ cấp xuất khẩu của chính phủ một nước ngòai cấp cho người xuất khẩu khi bán hàng hóa vào Hoa Kỳ, việc trợ cấp này làm giá hàng thấp một cách giả tạo gây thiệt hại cho người tiêu dùng ở Hoa Kỳ; được áp dụng khi: USITC phải xác định hàng nhập khẩu được trợ giá đã gây thiệt hại vật chất, hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất, hoặc ngăn cản hình thành ngành công nghiệp tương tự tại Hoa Kỳ DOC phải xác định sản phẩm nước ngoài nhập khẩu vào Hoa Kỳ được trợ giá trực tiếp hoặc gián tiếp cho việc chế tạo, sản xuất, hoặc xuất khẩu ở nước hoặc lãnh thổ xuất xứ. Một số luật bảo vệ người tiêu dùng mà được xem như là hàng rào phi thuế quan: Luật An toàn Sản phẩm Tiêu dùng (Consumer Product Safety Act) Luật liên bang về các chất nguy hiểm (Federal Hazardous Substances Act) Luật về đóng gói phòng ngộ độc (Poison Prevention Packaging Act) Luật về thực phẩm, dược phẩm, và mỹ phẩm Luật chống khủng bố sinh học Kết luận: Hệ thống pháp luật phức tạp, hàng rào thuế quan gay gắt gây nên khó khăn khi quan hệ với Mỹ về mọi lĩnh vực. Môi trường kinh tế: Hoa Kỳ có nền kinh tế lớn nhất trên thế giới, có cơ sở hạ tầng phát triển tốt và hiệu quả cao. Hoa Kỳ là nước nhập cảng lớn nhất và cũng là nước xuất cảng lớn thứ nhì. Năm 2007, theo Quỹ tiền tệ Quốc tế ước tính tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Mỹ là 13.675,129 tỉ USD, với mức tăng trưởng 3,2% năm 2007, 2008 và dự đoán ở mức 3,15% năm 2009, 2010 ; thu nhập bình quân đầu người là 43.444 USD/người. Theo tin tức trong mục tình hình kinh tế thế giới (The World FactBook) thì Tổng Sản Lượng (GDP) trong năm 2005 của toàn thế giới là 59.380 tỷ đô-la (USD). Tổng sản lượng này là số thu nhập của trên 6 tỷ dân trên toàn thế giới trong đó riêng Hoa Kỳ có gần 300 triệu dân với số thu nhập khoảng 12.370 tỷ USD. Như vậy, bình quân (per capita) mà nói thì số thu nhập của mỗi người Mỹ khoảng 41.800 USD/năm. Tuy vậy chỉ có khoảng 3% dân Mỹ là giàu có có mức thu nhập nhiều triệu đô la mỗi năm, còn đại đa số nhân dân lao động của Mỹ có số thu nhập không được cao lắm, đôi khi không đủ miếng ăn hàng ngày. Vì thế, phân bố thu nhập của nước Mỹ không được đồng đều. Đều này có thể do trình độ học vấn, về cơ sở vật chất của từng nơi, từng khu vực khác nhau,… sẽ tạo nên năng suất lao động khác nhau do đó thu nhập cũng sẽ khác nhau. Sự khác nhau này sẽ ảnh hưởng đến khả năng mua sắm và tiêu dùng trong nước.Vấn đề này có liên quan đến vấn đề dân số của Hoa Kỳ. Tổng dân số: Năm 2007, dân số Hoa Kỳ ước tính khoảng 302.782.000 người bao gồm cả người di dân bất hợp pháp. Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ thì con số này không thể kiểm soát được. Tốc độ tăng: Tốc độ tăng trưởng dân số: 0.894% (theo dự báo năm 2007). Do Hoa Kỳ là một nước công nghiệp hóa có nền kinh tế phát triển ổn định nhất trên thế giới nên việc di dân đến làm cho dân số tăng lên là đương nhiên. Tỉ lệ sinh: 14,16 0/00 (14,16 phần ngàn) dân số Tỉ lệ chết: 8,26 0/00 (8,26 phần ngàn) dân số Tỉ lệ di trú ròng : 3,05 0/00 (3,18 phần ngàn) dân số Tỉ lệ khả năng sinh sản: 2.09 trẻ/phụ nữ (theo dự báo năm 2006) Cơ cấu dân số: Theo thống kê vào tháng 7/2007 thì cơ cấu dân số như sau: Từ 0-14 tuổi : 20,2% (nam 31.052.050, nữ 29.777.438) Từ 15-65 tuổi : 67,2% (nam 100.995.752, nữ 101.365.035) Từ 65 tuổi trở lên: 12,6% (nam 15.858.477, nữ 21.991.195) Tỉ lệ giới tính : (dự báo 2007) Lúc mới sinh: 1,05 nam/nữ Dưới 15 tuổi : 1.046 nam/nữ 15-65 tuổi : 0,996 nam/nữ Từ 65 tuổi trở lên : 0.721 nam/nữ Tổng dân số: 0,967 nam/nữ Tuổi thọ (theo dự báo năm 2007): Tuổi thọ trung bình: 78 năm Tuổi thọ của nữ : 80,97 năm Tuổi thọ của nam: 75,15 năm Tuổi thọ trung bình khá cao. Đây cũng là con số chứng tỏ yêu cầu về chăm sóc sức khỏe, nhu cầu cuộc sống tương đối cao. Hoa Kỳ có một dân số đa chủng tộc, 31 nhóm sắc tộc có dân số trên 1 triệu người: người da trắng, người Mỹ gốc Châu Phi và người Mỹ gốc Châu Á. Dân tộc : Da trắng: 81,7% Da đen: 12,9% Châu Á: 4,2% Người da đỏ: 1% Kinh tế Mỹ 2007, 2008 không mấy gì ổn định, rất ảm đạm, lạm phát cao, đồng USD bị mất giá so với đồng EURO và Bảng Anh. Nguyên nhân chính của những bất ổn định này chính là giá dầu thô tăng lên kéo theo hàng loạt các mặt hàng tăng giá, làm nền kinh tế của tất cả các nước trên thế giới đều rơi vào tình trạng bất ổn, lạm phát cao. Theo nhà kinh tế chủ chốt của cơ quan phân tích Action Economics, tỷ lệ lạm phát sẽ lên mức 4,6% trong tháng 06/2008 và 5,3% trong tháng 07/2008 so với cùng kỳ năm ngoái. Về mặt công nghệ: Hoa Kỳ đã và đang đi đầu trong việc nghiên cứu và sáng tạo công nghệ khoa học kỹ thuật, phần lớn chi phí đến từ tư nhân. Từ việc chế tạo ra chiếc điện thoại đầu tiên, đến chiếc máy hát, bóng đèn điện, máy thu hình, dần dần về sau là xe hơi và vũ khí nguyên tử trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Sự thành công trong chinh phục vũ trụ là bước tiến để phát triển tên lửa, máy vi tính và nhiều lĩnh vực khác. Trong trồng trọt là thực phẩm biến đổi gen… Kết luận: Do Mỹ có tổng dân số đứng thứ 3 thế giới nên tạo ra một lượng cầu rất lớn, đặc biệt với thu nhập trung bình cao nên việc chi tiêu cho các nhu yếu phẩm cũng như việc thư giãn, giải trí cao. Thêm vào đó với nền kinh tế phát triển và các ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến đã tạo ra nhiều cơ hội lớn cho việc mở rộng các phương thức kinh doanh quốc tế ở Mỹ với các nước. Môi trường văn hóa – xã hội: Hoa Kỳ phát triển từ một nền tảng văn hóa đa dạng, tính đa dạng về văn hóa này cũng là yếu tố quan trọng tạo nên tính đặc thù trong văn hóa Mỹ. Mỹ chủ yếu là dung tiếng Anh và một số ít dùng tiếng Tây Ban Nha. Tôn giáo(thống kê năm 2004): Tin lành:54% Công giáo La Mã: 24% Không có:10% Do Thái: 3% Hồi giáo: 1% Các tôn giáo khác:4% Đạo đức, thẫm mỹ, lối sống, nghề nghiệp:Người Mỹ có xu hướng làm việc nhiều giờ hơn mỗi năm so với công nhân tại các quốc gia phát triển khác, dùng ngày lễ và nghỉ phép ít hơn và ngắn hơn. Phong tục tập quán truyền thống: người Mỹ thích uống cà phê hơn uống trà, hơn phân nữa dân số trung bình một người lớn uống ít nhất 1 tách cà phê trong ngày. Theo kết quả điều tra ngẫu nhiên qua điện thoại hồi tháng 1 trong báo cáo "Những xu hướng tiêu dùng cà phê trên toàn quốc năm 2006", có 57% trên tổng số gần 3.000 thanh niên được hỏi cho biết họ uống cà phê mỗi ngày, cao hơn so với 56% năm 2006. 51% người được hỏi cho biết họ uống nước ngọt hàng ngày, thấp hơn tỷ lệ 27% cách đây một năm. Người Mỹ thường ngủ rất ít để dành thời gian làm việc nên họ thường dùng cà phê, trà hay thuốc lá để tạo cảmm giác hưng phấn tinh thần sảng khóai để làm việc tốt. Và với Mỹ mời nhau uống cà phê là tượng trưng cho lòng hiếu khách. Kết luận: Do có đa dạng tôn giáo, cũng như đa dạng chủng tộc dẫn đến hình thành nhiều nhóm văn hóa khác nhau. Xung đột tôn giáo, dân tộc thường xuyên xảy ra cộng với nạn phân biệt chủng tộc càng nặng nề. Nhưng đây cũng là một ưu điểm của Mỹ, phát triển kinh tế đa đạng các loại hình kinh doanh. Do đó các nước khi quan hệ với Mỹ cần tìm hiểu thật kỹ về văn hóa Mỹ để có chiến lược kinh doanh cụ thể mà không gây phản cảm đối với người tiêu dùng. Ví dụ: phần lớn người Mỹ theo đạo Tin lành nên trong các mẩu quảng cáo hay bao bì, slogan của các mặt hàng phải tránh để các biểu tựơng hay hình ảnh xúc phạm đến tín ngưỡng của họ…. Từ việc phân tích môi trường vĩ mô của Mỹ, chúng ta cũng đã nhận diện được những cơ hội và thách thức cho các nước nói chung và Việt Nam nói riêng khi quan hệ kinh doanh quốc tế của Mỹ. Cơ hội về các mặt hàng nhập khẩu của Mỹ (chủ yếu là nông sản nhiệt đới như cà phê, cacao, socola..và các loại trái cây như thanh long, chuối…; giày dép, dệt may, các loại thủy hải sản như tôm, cá ), cơ hội cho một quan hệ với một nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, cơ hội tiếp cận với nhiều nền văn hóa chỉ trong một quốc gia… Song song đó cũng có những thách thức, đó là một hệ thống chính trị phức tạp của Mỹ và một hệ thống pháp luật với nhiều văn bản luật và những rào cản nhằm bảo vệ những doanh nghiệp trong nước, thách thức vì có nhiều đối thủ cạnh tranh, thách thức vì trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ của ta còn rất yếu kém… Trên cơ sở những cơ hội và thách thức này, dưới góc độ là nhà quản trị ra nước ngoài chúng tôi xin lựa chọn mặt hàng cà phê để tập trung đầu tư vào Mỹ vì những lý do: Có lợi thế về trồng cà phê về diện tích và sản lượng. Mỹ đang nước tiêu thụ và nhập khẩu lớn nhất trên thế giới Và lý do quan trọng là cà phê Việt Nam trên thị trường cà phê thế giới chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho mình. Vì thế mà chúng tôi xin đưa ra một vài phương thức đầu tư cà phê vào thị trường Mỹ. Môi trường vi mô: Phân tích môi trường vi mô chính là tìm ra những thuận lợi và khó khăn của một ngành cụ thể. Để tìm hiểu về những thuận lợi và khó khăn của cà phê trên thị trường Mỹ, chúng ta dựa vào mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Porter phân tích về môi trường ngành cà phê của Hoa Kỳ. Mô hình này bao gồm 5 lực: nhà cung ứng, khách hàng, những nhà cạnh tranh tiềm ẩn, sản phẩm thay thế, đối thủ cạnh tranh hiện tại. Nhà cung ứng: Theo tài liệu mà chúng tôi nghiên cứu và phân tích về tự nhiên thì hầu như Mỹ không trồng được các loại nông sản nhiệt đới, mà cà phê là một cây trồng ở miền nhiệt đới. Loại cây này yêu cầu về môi trường sinh thái rất phức tạp. Vì cà phê có nhiều loại, trong đó 2 lọai phổ biến nhất là Arabica và Robusta. Mỗi loại đều có yêu cầu về nhiệt độ và lượng mưa khác nhau (Arabica: 15 – 240C, Robusta :24 – 300C, lượng mưa thích hợp cho cả hai thì vào khoảng từ 1500 – 3000 mm), và rất kỵ với sương muối. Đây chính là khó khăn cho Mỹ trong việc tự trồng và sản xuất cà phê. Nhưng Hoa Kỳ có một lợi thế là trang thiết bị, trình độ khoa học kỹ thuật rất phát triển nên Hoa Kỳ có thể nhập cà phê thô từ các nước có sản lượng cà phê lớn như Brazil, Việt Nam, Colombia, Indonexia, Ấn Độ…Từ đó đưa vào trong nước kết hợp với công nghệ có sẵn để tiếp tục chế biến cà phê thành những thành phẩm có giá trị hơn để xuất khẩu thu được lợi nhuận. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), kim ngạch nhập khẩu cà phê và các sản phẩm cà phê của nước này trong năm 2006 ước đạt 3,3 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2005. Trong năm 2007, Việt Nam đã cung ứng cho Hoa Kỳ 130 ngàn tấn cà phê, dự đoán năm 2008 sẽ là từ 120 – 125 ngàn tấn. Brasil là nước cung ứng cà phê lớn nhất cho thị trường Mỹ nhưng Colombia là nước có kim ngạch lớn nhất trên thị trường này. Do đó, có thể tăng kim ngạch xuất khẩu cà phê hơn nữa về lâu dài thì Hoa Kỳ cần phải chú ý đến yếu tố nhà cung ứng cà phê cho mình, phải làm cho nhà cung ứng thấy được rằng mình chính là khách hàng quan trọng nhất, duy trì được các nhà cung ứng lớn như Brasil, Việt Nam, Colombia… Kết luận: ảnh hưởng rất lớn đến phát triển cà phê của của Mỹ, đây là yếu tố nguồn nguyên liệu đầu vào cho Mỹ ž khả năng bị phụ thuộc là rất lớn. Khách hàng: Hầu hết cà phê của Hoa Kỳ sản xuất đều dung cho xuất khẩu và một phần dùng cho tiêu dùng trong nước. Khách hàng nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ là Canada, Mêhicô, …Đây là những khách hàng lớn của Hoa Kỳ và nhu cầu của họ về cà phê là rất lớn. Điều đáng lo ngại của Mỹ là làm sao để có thể giữ được khách hàng hiện tại và tìm kiếm khách hàng tiềm năng trong tương lai. Hoa Kỳ phải thay đổi trong khâu thiết kế, kiểm tra chất lượng sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm để ngày càng thõa mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, có thể giữ được khách hàng, khách hàng không thay đổi nhà cung ứng khác. Hiện nay trên thị trường cà phê có rất nhiều quốc gia xuất khẩu cà phê tinh chế như Bỉ, Italia, Đức… Một ví dụ điển hình như Bỉ, năm 2007, sản lượng cà phê xuất khẩu của Bỉ đạt 393 triệu euro, tương đương 147.000 tấn. Trong khi đó năm 2006, kim ngạch xuất khẩu cà phê và các sản phẩm cà phê của Mỹ đã đạt mức kỷ lục 451,3 triệu USD, tăng 20% so với năm 2005. Do đó cơ hội để khách hàng hiện tại, những nước nhập khẩu cà phê tinh chế từ Hoa Kỳ thay đổi nhà cung ứng là chuyện rất dễ dàng. Vì thế áp lực của yếu tố khách hàng lên các nhà sản xuất cà phê trong nước và ngay cả chính phủ là không phải nhỏ. Kết luận: khách hàng có nhiều sự lựa chọn, ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu cà phê của Mỹ ž thu ngoại tệ cho quốc gia giảm. Các đối thủ tiềm năng: Chính là các đối thủ tiềm ẩn sắp thâm nhập vào thị trường cà phê. Vì các đối thủ này mới bắt đầu kinh doanh nên có thể có những sáng tạo, tạo ra sản phẩm mới có nhiều đột phá. Họ có thể tạo ra sản phẩm vượt qua sự mong đợi của khách hàng. Đồng thời năng lực về tài chính của họ cũng rất mạnh. Một điều nữa là họ có thể là một liên minh giữa các nước xuất khẩu cà phê thô cho Hoa Kỳ trước đây, Hoa Kỳ sẽ mất đi một nhà cung ứng dồi dào, sản lượng cao và chất lượng đạt yêu cầu. Họ sẽ giành mất thị phần của Hoa Kỳ. Nhưng có một thuận lợi mà Hoa Kỳ có chính là một nền kinh tế phát triển ổn định nhất trên thế giới. Mặc dù hiện nay có chút khó khăn nhưng cũng còn đủ khả năng gây ảnh hưởng đến nền kinh tế của tất cả các nước trên thế giới. Và điều quan trọng nữa là phải cẩn thận nếu họ dùng các phương thức cạnh tranh như: giá thấp hơn,dịch vụ tốt hơn, các chương trình khuyến mãi, hậu mãi… Hiện Indonesia là nhà sản xuất và xuất khẩu cà phê đứng thứ 4 thế giới, diện tích trồng cà phê của nước này lớn thứ 2 thế giới. Hiện Indonesia không còn xuất khẩu cà phê nguyên liệu thô nhưng chất lượng cà phê đã qua chế biến của nước này vẫn chưa được khách hàng đánh giá cao Brazil hay Việt Nam cũng như một số nước cung ứng café thô cho thị trường thế giới cũng có thể trở thành các đối thủ tiềm năng của Mỹ bởi họ có thể trồng được café thô và nếu có điều kiện về công nghệ- kĩ thuật cao họ cũng có khả năng xuất khẩu được café tinh chế tốt hơn Mỹ…. Các đối thủ tiềm ẩn này cũng có thể là những nước phụ thuộc hoàn toàn vào việc nhập khẩu cà phê từ nước ngoài. Họ sẽ lôi kéo nhà cung ứng, khách hàng về phía họ. Một đối thủ ẩn mà Hoa Kỳ cũng phải đặc biệt quan tâm. Kết luận: đối thủ mới mạnh về tài chính, có khả năng chia sẻ bớt thị phần cà phê của Mỹ trong tương lai. Lợi thế của Mỹ chính là nền kinh tế phát triển ổn định và mạnh ž có thể mất đi nhà cung cấp và khách hàng. Các đối thủ hiện tại: Sức ảnh hưởng của yếu tố này đối với Mỹ là rất lớn. Nó chính là các đối thủ cùng là nước sản xuất cà phê xuất khẩu hiện nay như Bỉ chẳng hạn. Năm 2007, sản lượng cà phê xuất khẩu của Bỉ đạt 393 triệu euro, tương đương 147.000 tấn. Hay là như Brazil, Costa Rica đã chọn hướng đi là phát triển cà phê đặc sản, có hương vị riêng, nhằm vào đối tượng khách hàng có thu nhập khá để làm phân khúc thị trường. Đó là đối thủ trong lĩnh vực xuất khẩu, trong nhập khẩu cũng có đối thủ, Bỉ chẳng hạn. Do đó Mỹ ngoài việc tìm phương án kinh doanh trong tương lai phải dự đoán được những phản ứng của đối thủ cạnh tranh để có thể đưa ra những biện pháp, chính sách đối phó lại. Vì nguồn cà phê của 2 bên là giống nhau (cạnh tranh nhau về nhà cung ứng). 2 bên phải có những biện pháp để giành nhà cung ứng về phía mình không phải trong ngắn hạn mà còn trong dài hạn. Kết luận: ảnh hưởng đến thị phần cà phê ở hiện tại ž cũng là mất đi nhà cung ứng và khách hàng Các sản phẩm thay thế: Sản phẩm thay thế ở đây có thể là một loại sản phẩm có chức năng công dụng như sản phẩm hiện tại. Hiện nay một loại sản phẩm có thể thay thế được cho cà phê chính là cacao. Ngoài ra, sản phẩm thay thế này có thể như trà, nước giải khát, nước ép trái cây…. Hiện nay có rất nhiều nước có sản lượng cacao lớn như Indonexia, Ghana, Ấn Độ, Nigiera, Brazil… được chế biến rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm. Nhiều nhất là bánh kẹo và các thức uống. Nói đến bánh kẹo có nguồn gốc từ cacao người ta thường nghĩ ngay đến sôcôla, nổi tiếng nhất là nhiều loại sôcôla được sản xuất từ Thụy sỹ, Ðức… Người Châu âu rất thích ăn sôcôla, tính bình quân mỗi ngưòi tiêu thụ khoảng 11,9 kg/năm (trong số đó đàn bà 35%, đàn ông 25%, phần còn lại vẫn là những „mần non tiêu thụ“). Do nhu cầu tiêu thụ càng ngày càng cao nên cacao trong tương lai vẩn là mặt hàng nông sản có giá, ít bị „mạo hiểm về giá cả “ như cà phê hoặc tiêu. Vì có lợi thế về năng lực sản xuất sản phẩm thay thế nên những nước này có thể tạo ra một sự đột phá trong việc sáng tạo, tìm ra sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của khách hàng, có thể thay thế cà phê. Như vậy sẽ tạo ra trên thị trường một sự cạnh tranh khá gay gắt. Những sản phẩm mới này có thể rẻ hơn, thơm ngon hơn hay một yếu tố nào đó mà có thể làm cho khách hàng quan tâm, thõa mãn được nhu cầu. Những nhà sản xuất cacao có thể chiếm được thị phần ngày càng lớn đe dọa đến những nhà sản xuất cà phê xuất khẩu như Mỹ. Một khó khăn mà Mỹ phải đối mặt, phải đưa ra những giải pháp để có thể không mất thị phần về cà phê. Mỹ phải kiểm tra xem mức độ xâm nhập của sản phẩm thay thế này vào như trường như thế nào, cao hay thấp để từ đó có những biện pháp đối phó cho thích hợp. Một yếu tố mà sự ảnh hưởng của nó không ít đến thị trường cà phê ở Mỹ. Kết luận: ảnh hưởng đến vị thế của cà phê trên thị trường Mỹ ž thị phần cà phê bị giảm PHƯƠNG THỨC KINH DOANH QUỐC TẾ CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM TẠI HOA KỲ Theo như những phân tích của chúng em về môi trường Hoa Kỳ, chúng em thấy được những thuận lợi và khó khăn của thị trường cà phê tại Mỹ. Nếu đứng trên góc độ của những nhà quản trị Việt Nam ra nước ngoài, chúng em có một vài đề xuất về phương thức đầu tư cà phê Việt Nam trên thị trường Mỹ, đó là xuất khẩu (phương thức mà Việt Nam đang áp dụng), l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích môi trường mỹ và đề xuất phương thức kinh doanh quốc tế của cà phê việt nam tại mỹ.doc
Tài liệu liên quan