Tiểu luận Phân tích môi trường Nam Phi - Đề xuất phương thức kinh doanh quốc tế cho sản phẩm dệt may của Việ Nam

Những mặt hàng bị cấm nhập khẩu vào Nam Phi

- Ma tuý hoặc thuốc gây nghiện ở bất kỳ hình thức nào.

- Vũ khí không số, dùng trong quân đội và hoàn toàn tự động, chất nổ và pháo.

- Các chất, tài liệu, đồ kích thích và kiêu dâm.

- Các chất, tài liệu, đồ gây phản và kích động.

- Thuốc độc và các chất độc hại khác.

- Thuốc lá với khối lượng nhiều hơn 2kg/1000.

- Những mặt hàng được kinh doanh hoặc nhãn hiệu đăng ký bị vi phạm luật (chẳng hạn như hàng giả)

- Các bản sao chép bất hợp pháp của bất kỳ một tác phẩm nào có bản quyền.

- Các mặt hàng do các nhà tù làm ra.

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2144 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích môi trường Nam Phi - Đề xuất phương thức kinh doanh quốc tế cho sản phẩm dệt may của Việ Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỳ hình thức nào. - Vũ khí không số, dùng trong quân đội và hoàn toàn tự động, chất nổ và pháo. - Các chất, tài liệu, đồ kích thích và kiêu dâm. - Các chất, tài liệu, đồ gây phản và kích động. - Thuốc độc và các chất độc hại khác. - Thuốc lá với khối lượng nhiều hơn 2kg/1000. - Những mặt hàng được kinh doanh hoặc nhãn hiệu đăng ký bị vi phạm luật (chẳng hạn như hàng giả) - Các bản sao chép bất hợp pháp của bất kỳ một tác phẩm nào có bản quyền. - Các mặt hàng do các nhà tù làm ra. Thuế quan Nam Phi đã giảm bớt một số loại thuế và hầu như tuân theo các mức thuế quan của WTO. Nam Phi cũng đã thay thế việc đánh thuế theo số lượng hàng hoá và thuế formula bằng đánh thuế theo giá hàng, ngoại trừ một số lĩnh vực trong nông nghiệp. Tiếp đó Nam Phi cũng đã cắt giảm từ 80 mức thuế khác nhau xuống còn 8 mức thuế lên xuống trong khoảng từ 0% đến 30% với một số ngoại lệ. Hai ngoại lệ đó là quần áo và vải dệt sẽ phải tuân theo các biểu thuế của WTO trong 12 năm thay cho 5 năm, và mức thuế tối đa sẽ chỉ giảm xuống 45% (chỉ đối với quần áo) thay cho 30%. Các nhà sản xuất ôtô có tối đa là 8 năm để lắp ráp thay cho 5 năm, và sẽ phải đóng một mức thuế tối đa cuối cùng không nhiều hơn 50%. Xu hướng chung là thuế quan sẽ được cắt giảm nhằm khuyến khích các ngành công nghiệp cạnh tranh hơn nữa và để giảm bớt chi phí. Thuế quan đối với mặt hàng nông sản Nam Phi gần đây mới tăng mức thuế đánh vào một số mặt hàng nông sản. Một số mặt hàng nông sản sau đây đã bị ảnh hưởng: - Ngũ cốc: Thuế đánh vào giá nhập khẩu tối thiểu đối với ngũ cốc nhập khẩu đã tăng từ 15 đôla Mỹ lên 25 đôla Mỹ vào 5/11/1999. Khi giá cả bị kiểm soát giảm xuống khoảng từ 70 đến 80 đôla, thì thuế đánh cao nhất là 35 đôla/ tấn, giảm đi cho phù hợp với việc tăng giá ngũ cốc. Nếu giá cả vượt quá 110 đôla/ tấn, thì thuế sẽ được miễn giảm. - Lúa mì: Thuế quan đánh vào lúa mì được tính rất khác nhau nhưng cơ bản thì vẫn dựa trên giá nhập khẩu ban đầu. Mức thuế điều chỉnh cuối cùng được tính dựa trên sự chênh lệch giữa giá tham khảo trên thế giới mà mức thuế điều chỉnh trước đó dựa trên với mức trung bình dao động trong 3 tuần của cùng một mức giá được tính hàng tuần. Khi mức chênh lệch này vượt quá 10 đôla/ tấn trong 3 tuần liên tiếp thì mức thuế mới sẽ được đưa ra và mức giá mới tham khảo trên thế giới sẽ được ấn định. Vào ngày 5/1/2000, giá tham khảo trên thế giới là 112,67 đôla/ tấn và giá tham khảo ban đầu của Nam Phi là 157,00 đôla/ tấn. Sự chênh lệch giữa hai mức giá này là 44,33 đôla/ tấn chính là mức thuế quan đánh vào lúa mì hiện hành. - Gia cầm: Bất kể Chính phủ Mỹ cố gắng cắt giảm thuế quan, nhưng cục thuế quan và thương mại lại đưa ra các mức thế đánh vào các bộ phận gà đông lạnh nhập khẩu tăng từ mức thuế đồng loại 27% lên 2,2 ran/ kg. Việc Nam Phi thực hiện tăng mức thuế đánh vào một số mặt hàng nông sản để nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong nước khi giá cả trên thế giới giảm xuống dưới mức cố định. Tuy nhiên với mức cung-cầu chênh lệch như hiện nay thì ngành nông sản vẫn phải nhập khẩu một khối lượng lớn. Đây là cơ hội cho các nước xuất khẩu mặt hàng này như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam… Thuế quan đối với thép và bìa các tông Nam Phi đã tăng các mức thuế quan đối với một số loại bìa các tông và các sản phẩm từ giấy cũng như một số sản phẩm từ thép để đạt được sự thống nhất hơn nữa về thuế quan. Nam Phi đã tiến hành việc cắt giảm thuế quan chung đối với giấy và bìa các tông vào năm 1995, điều này sẽ làm cho hầu hết các mức thuế quan giảm xuống 10% theo giá hàng vào năm 2000 và 5% vào năm 2005. Một số điều khoản về việc cắt giảm thuế đã được đưa ra đối với một số loại giấy và bìa các tông không sản xuất trong nước, cho phép cắt giảm thuế hoàn toàn đối với nhập khẩu một số loại bìa các tông và giấy gói hàng loại dày có bọc và không bọc, bìa các tông và giấy bọc ,và bìa các tông và giấy có dính nhựa đường. Thuế quan đối với ngành Dệt Thuế quan đối với ngành dệt sẽ phải tuân theo các mức thuế bắt buộc của WTO trong 7 năm (chấm dứt vào năm 2002) thay cho 12 năm như đã đàm phán với WTO. Thuế quan đối với vải dệt Thuế quan đối với vải dệt sẽ phải tuân theo các mức thuế bắt buộc của WTO trong vòng 7 năm (kết thúc vào năm 2002) thay cho 12 năm như đã đàm phán với WTO. Theo chương trình đã được Ban thuế quan và thương mại thông qua, thuế quan của Nam Phi đối với vải dệt sẽ giảm xuống năm mức như sau: Quần áo 40-45 (%) Vải dệt bằng tay 30-30(%) Vải 22-25 (%) Chỉ 15-17.5 (%) Sợi 7.5-10 (%) Tuy đây là mức thuế quan khá cao nhưng từ đó cũng nhận thấy những thuận lợi lâu dài về thuế quan đối với ngành Dệt và vải dệt, tạo cơ hội cho hàng dệt may xuất khẩu của các nước khác. Quy định đối với mỹ phẩm và các sản phẩm dùng cho tóc Đánh thuế là một vấn đề chính yếu gây cản trở cho sự phát triển của thị trường các sản phẩm chăm sóc tóc và mỹ phẩm. Cả hai sản phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu đều phải chịu thuế theo giá hàng. Thuế theo giá hàng đối với mỹ phẩm, dầu gội đầu và các đồ cạo râu hiện đang là 5%. Mức thuế thấp đối với mặt hàng này cộng với việc áp dụng chung cho các sản phẩm trong nước và nhập khẩu, do đó ngành hàng này có thể trở thành mặt có khả năng để xuất khẩu. Tiêu chuẩn đối với mặt hàng nông sản Tổng cục Tiêu chuẩn và Y tế thực vật thuộc Bộ Nông nghiệp và Tổng cục Kiểm tra thực phẩm thuộc Bộ Y tế là hai cơ quan chịu trách nhiệm quy định và đặt ra tiêu chuẩn đối với một số mặt hàng nông sản và các mặt hàng nông sản có liên quan về thầnh phần cấu tạo, chất lượng, đóng gói, tiếp thị và ghi nhãn cũng như các phân tích về vi sinh, hoá học, sinh lý học và vật lý. Chính phủ Nam Phi quy định phải có giấy phép nhập khẩu đối với một số sản phẩm bị kiểm soát. Nhà nhập khẩu phải xuất trình giấy phép nhập khẩu lên cơ quan chức năng ít nhất là 30 ngày trước khi sản phẩm được nhập khẩu. Nam Phi đã kiến nghị với WTO xem xét lại sai số cho phép đối với một số hạt độc hại có trong thóc lúa (ưu tiên lúa mì, hạt ngũ cốc và hạt có dầu). Mức độ sai số tối đa cho phép hiện nay thấp hơn tiêu chuẩn thế giới và được xem là hạn chế trong kinh doanh. Nhập khẩu thịt chiếu xạ từ bất kỳ nước nào cũng bị cấm vì sức khoẻ cộng đồng. [1] Môi trường văn hóa: Ngôn ngữ chính thức: Tại Nam Phi 11 ngôn ngữ quốc gia của các dân tộc và nhóm tộc người khác nhau sống trên lãnh thổ đất nước: Afrikaans, tiếng Anh, Ndebele, Kosa, Zulu, Nedi, Suto, Tsvan, Svazi, Venda, Tsonga. Theo số liệu thống kê năm 1996, ngôn ngữ phổ biến nhất là Zulu. Gần 22,9% dân số sử dụng ngôn ngữ này. Ngôn ngữ thông dụng thứ hai là Kosa, sau đó là Afrikaans – 14,4%, sau đó là Nedi – 9,2%. Gần 8,6% dân số nói tiếng Anh. Tuy nhiên chính ngôn ngữ này được sự dụng rộng rãi trong giao tiếp chính thức và thương mại. Tín ngưỡng: Gần 80% dân số Nam Phi theo đạo Thiên chúa. Những nhóm đông tín ngưỡng khác theo đạo phật, đạo hồi và đạo Do thái. Một phần nhỏ dân số không theo một trong các tín ngưỡng chính này, nhưng vẫn nghĩ là phải theo các tín ngưỡng truyền thống hoặc hoàn toàn không có tín ngưỡng. Tôn giáo: Thiên chúa giáo 68% (phần lớn là người da trắng và da màu chiếm 60%; da đen và người Ấn Độ chiếm 40%), Đạo hồi 2%, Đạo Hindu 1,5% (60% là người Ấn Độ), gốc khác 28,5%. Ngôn ngữ: Gồm 11 ngôn ngữ chính thống: Afrikaans, English, Ndebele, Pedi, Sotho, Swazi, Tsonga, Tswana, Venda, Xhosa, Zulu,. Tiến Anh được dùng chủ yếu. Với một thành phần dân cư đa chủng tộc và đa tôn giáo cũng như tiếng nói có thể nói Nam Phi là quốc gia có nền văn hóa rất phong phú và đa dạng Môi trường tự nhiên: Vị trí địa lý: Đất nước nằm ở cực nam của châu Phi. Có biên giới với Namibia, Bostana, Zimbauê, Môzambic, Swaziland và Lesotho (nằm trong lãnh thổ Nam Phi). Phía Đông tiếp giáp Ấn Độ Dương, phía Tây – Đại Tây Dương. Trông ra Đại Tây Dương là mũi Hảo Vọng – mũi đất nổi tiếng nhất thế giới. Đây là vị trí mang tính chất cửa ngõ chiến lược của châu Phi, rất thuận lợi cho sự giao thương buôn bán và trao đổi hàng hóa với các quốc gia khác, đặc biệt cho lĩnh vực giao thông vận tải biển. Điều kiện tự nhiên: Nam Phi được đánh giá là một trong những nước có nền sinh học đa dạng nhất trên thế giới với nhiều loài động thực vật quí hiếm hoang dã và vô cùng phong phú. Nam Phi sở hữu 1/6 sinh vật biển trên thế giới, là điểm đến quan trong cho du lịch ngắm chim (birth watching). Nam Phi còn nổi tiếng về Ngũ đại (Big five) : Sư tử, Voi, Tê giác, Báo và Trâu rừng (trên mặt đất) ; Cá Voi, cá Mập, cá Heo, cá Mác-lin, và cá Ngừ (dưới biển). Với những thuận lợi trên, Nam Phi có điều kiện cho việc phát triển các ngành chế biến nông-lâm-thủy sản và xuất khẩu sang các thị trường khác. Ngoài ra với nhưng cảnh quan thiên nhiên hung vĩ, hệ động vật hoang dã phong phú nêu trên thì đây thực sự là một đất nước đặc sắc và là một điểm đến du lịch tuyệt vời. Diện tích Nam Phi – 1,2 triệu km2. Nam Phi chiếm vùng rìa nam của cao nguyên Nam Phi, cao nguyên chạy qua các vùng (núi Dragon ở phía đông, có những đỉnh cao hơn 3000m) và bị chặn bởi những sườn núi dựng đứng của dãy Ustup Lớn. Phía nam là núi Kap. Địa hình của Nam Phi bao gồm một vùng cao nguyên đá cổ được chia cắt với vùng đồng bằng hẹp ven biển bởi dãy núi Great Escarpment. Vùng cao nguyên chiếm khoảng 2/3 diện tích đất nước. Hơn 65% diện tích đất ở tình trạng khô cằn hoặc nửa khô cằn. Khí hậu và thời tiết: Nam Phi có khí hậu cận nhiệt đới nhưng có sự khác nhau giữa các vùng do ảnh hưởng của độ cao, gió và các dòng hải lưu. Nhiệt độ trung bình tháng 1 là 18-27°C, tháng 7 7–10°C; Lượng mưa trên toàn quốc chỉ bằng một nửa lượng mưa trung bình trên thế giới nên Nam Phi là một quốc gia khô và thiếu nước. Tuy nhiên, vùng Johannesburg lại được hưởng một lượng mưa rào thay vì mưa phùn đều đặn. Lượng mưa trung bình năm từ 60 mm ở bờ biển Đại Tây Dương, 650 mm ở vùng núi và tới 2000 mm ở vùng sườn đông núi Dragon. Những con sông chính – sông Da cam, Limpopo. Phía đông là thảo nguyên, chếch về phía Nam ở 30° vĩ độ Nam là rừng cận nhiệt đới và rừng rậm xanh tốt quanh năm, ở các sườn núi là rừng cận nhiệt đới và gió mùa; những vùng sâu trong đất liền là cao nguyên trống, vùng nửa sa mạc và rừng rậm, sa mạc Karru. Điều này khiến Nam Phi gặp khó khăn phát triển nông nghiệp trên phạm vi lớn nhất là lương thực, thực phẩm.Tuy nhiên lại thuận lợi phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày(ô liu,hạt hướng dương…).Địa hình cao nguyên,diện tích sa-van cây bụi rộng lớn thuận lợi phát triển chăn nuôi trang trại,đại gia súc…Do đó nông lâm nghiệp và nghề cá chỉ chiếm 4,5% GDP của cả nước. Tài nguyên: Nam Phi giàu khoáng sản như vàng, crôm, antimon, than đá, quặng sắt, mangan, niken, phốt phát, thiếc, urani, kim cương, bạch kim, đồng, vanadi, muối, và khí tự nhiên.Các mỏ khoáng sản của Nam Phi có trữ lượng rất lớn và hiếm có trên thế giới như mangan (chiếm 80% trữ lượng toàn thế giới), crom (68%), vanadi (45%), vàng (35%), alumino–silicat (37%), titan, quặng sắt, đồng, ngọc, kim cương, đá quý, than, thiếc, urani, ni kel, phốt phát, muối, khí gas tự nhiên… Đây được coi là mặt thuận lợi lớn nhất cho việc phát triển kinh tế Nam Phi,nhất là trong các lĩnh vực khai thác khoáng sản,luyện kim,cung cấp nguyên,nhiên liệu cho công nghiệp…Đặc biệt Nam Phi nổi tiếng với trữ lượng và sản lượng khai thác kim cương lớn nhất thế giới. Công nghiệp khai khoáng chiếm 7,8% GDP của Nam Phi nhưng lại chiếm 45% lượng sản xuất khoáng sản của cả châu lục. Cảnh quan thiên nhiên: Nam Phi là một đất nước sở hữu nhiều di tích lịch sử và nổi tiếng thế giới về phong cảnh ấn tượng và thiên nhiên hoang dã, rất nổi tiếng với ngành du lịch hiện nay.Nam Phi nổi tiếng với các thành phố Giôhanexbua,Prêtôria,Kếptao,…thu hút khách du lịch từ khắp từ nhiều nơi trên thế giới Hiện nay du lịch được coi là nguồn thu ngoại tệ chính của Nam phi, kinh doanh dịch vụ chiếm 19% GDP cả nước. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN: Trong vài năm gần đây, Nam Phi luôn là bạn hàng lớn nhất của VN ở Châu Phi. Buôn bán hai chiều tăng trưởng đáng kể trong thập kỷ 90. Đặc biệt XK từ VN sang Nam Phi tăng nhanh từ 1,2 triệu USD năm 1992 lên tới 55,5 triệu USD năm 2004. Mặt hàng buôn bán giữa VN và Nam Phi tương đối phong phú về chủng loại. Về XK, các mặt hàng quan trọng nhất là gạo, giày dép, than, sản phẩm nhựa, hàng dệt may... Trong đó gạo là mặt hàng thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng 50-60% giá trị XK. Đặc biệt, là gạo xuất vào Nam Phi phần lớn để tái xuất sang các nước Châu Phi khác trong khối SADC và một số nước ở Tây Phi. Mấy năm gần đây, nước ta cũng bắt đầu XK sang Nam Phi các sản phẩm điện - điện tử, dụng cụ cơ khí, đồ gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ... Về NK, nước ta nhập từ Nam Phi các loại hóa chất, sắt thép, máy móc thiết bị... Ngoài ra, hiện nay VN đã lập quan hệ đại lý với một số ngân hàng của Nam Phi. Về du lịch, Nam Phi là nước có số du khách đến VN đông nhất so với các nước Châu Phi khác. Hiện nay, VN và Nam Phi đang triển khai một số hoạt động hợp tác về du lịch và xúc tiến thương mại ở cấp độ thỏa thuận giữa các DN và cấp cơ quan quản lý thương mại địa phương. Trong những năm gần đây, DN hai nước cũng đã tích cực thăm dò khảo sát để tìm cơ hội hợp tác kinh doanh.Đặc biệt, hiện đã có một số Cty VN đang tiến hành thủ tục mở chi nhánh tại Nam Phi. Cơ cấu mặt hàng NK của Nam Phi cũng rất thuận lợi cho XK của VN. Đó là những mặt hàng mà ta có thế mạnh như gạo, than, hải sản, giày dép, thủ công mỹ nghệ, điện tử... và VN cũng có thể nhập một số sản phẩm từ Nam Phi như sắt thép, máy móc, hóa chất... Khó khăn lớn nhất là người tiêu dùng Nam Phi còn hiểu biết khá ít về VN và hàng VN. Mặt khác, trong chiến lược phát triển thương mại của Nam Phi ở Châu Á, VN chỉ được coi là bạn hàng tiềm năng cho tương lai. Có thể thấy VN còn khá xa lạ và không mấy hấp dẫn ngay cả với những nhà làm chính sách của Nam Phi. Như vậy, để có thể có chỗ đứng ở thị trường này, các cơ quan Nhà nước và các DN VN cần phải có một chương trình hành động lâu dài. Khó khăn thứ hai là VN đang chịu sự cạnh tranh rất lớn trên thị trường này. Các đối thủ cạnh tranh trực tiếp là Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia... Khó khăn thứ ba là hiểu biết của các DN VN về thị trường Nam Phi còn ít do khoảng cách địa lý khá xa, việc nghiên cứu thị trường, đi khảo sát thị trường thường tốn kém và mất thời gian. Nam Phi lại là một thị trường hoạt động chủ yếu qua hình thức môi giới, đại lý nên việc hình thành bạn hàng làm ăn lâu dài và các mạng lưới bán hàng là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, việc xây dựng được một mạng lưới như vậy đối với các DN VN là hết sức tốn kém. Đối với các DN VN, Nam Phi vẫn được coi là một thị trường mới. Thực tế, đây là một thị trường mở nên cạnh tranh rất gay gắt. Việc thành công hay không trong thâm nhập thị trường Nam Phi chủ yếu vẫn nhờ vào sự năng động và quyết tâm của DN. 1.NHỮNG NGÀNH HÀNG/ SẢN PHẨM VIỆT NAM CÓ THỂ XUẤT KHẨU SANG NAM PHI 1. 1 Nông sản Kinh tế nông nghiệp của Nam Phi mang tính 2 mặt bao gồm khu vực thương mại rất phát triển và khu vực sản xuất tự cung tự cấp ở nông thôn. Trong khi nông nghiệp đóng góp cho GDP là 4% thì ngành này tuyển dụng gần 10% số lượng lao động và gần 6 triệu người phụ thuộc vào ngành này. Có khoảng 9 nghìn nông trường sản xuất kinh doanh tại Nam Phi. Bên cạnh đó còn có hàng nghìn nông dân sản xuất với quy mô nhỏ. Khoảng 13,7% diện tích ở Nam Phi có thể sử dụng được cho sản xuất nhưng chỉ có 22% trong số đó là có tiềm năng khai thác cao. Nhược điểm lớn nhất của sản xuất nông nghiệp Nam Phi là nguồn nước. Lượng mưa không phân phối đều trên toàn quốc. Khoảng 50% lượng nước được sử dụng cho mục đích nông nghiệp và chỉ khoảng 1,3 triệu hecta đất có hệ thống tưới tiêu. Tùy theo khí hậu, loại đất trồng trọt và tập quán canh tác. Nam Phi phân chia thành nhiều vùng canh tác nông nghiệp khác nhau. Nam Phi không những đáp ứng được nhu cầu thực phẩm trong nước mà còn là một nước xuất khẩu thực phẩm. Tuy nhiên do lượng mưa thấp và không trải đều suốt năm nên nông nghiệp vẫn chịu tác động của hạn hán. Khoảng 65% tổng sản lượng nông nghiệp được sử dụng làm nguyên liệu đầu vào cho ngành sản xuất. Sản lượng Ngô chiếm nhiều diện tích trồng trọt nhất. Kế đến là mía, lúa mì và hạt hướng dương. Trái cây theo vụ trái cây cận nhiệt đới, trái cây có múi và các loại rau là những sản phẩm nông nghiệp chính của Nam Phi. Ngô cũng là sản phẩm nông nghiệp chinh của Nam Phi và là nguồn cung cấp carbon hidrate quan trọng nhất trong khối SADC cho tiêu thụ của ngườI và gia súc. Sản lượng sản xuất các mặt hàng rau quả tại Nam Phi năm 2002 (Đvt. nghìn tấn) Ngô 1.000 Lúa mì 2.33 1 Mía 23 .000 Lúa miền (grain sorgium) 255 Lạc nhân 133 Hạt hoa hướng dương 965 Trái cây theo mùa l.602 Trái chanh 1.896 Trái cây bán nhiệt đới 616 Rau 2.050 Khoai tây 1.540 (Nguồn: Bộ Nông nghiệp Nam phi) Thu nhập từ xuất khẩu chiếm 1 1% tổng xuất khẩu nông nghiệp. Năm 2002 xuất khấu táo chiếm 38% , lê: 21%, bưởi 19%. Chanh được sản xuất tại các vùng có tưới tiêu tốt như Mpumalanga, Limpopo, Eastcm Cape, Westem Cape và tỉnh Kwazulu Natal Dứa được trồng tại các tỉnh miền Tây và phía Bắc tỉnh Kwazulu Natal. Các trái cây bán nhiệt đối như:bơ, xoài, chuối, vải, đu đủ, lựu và hạt macadamia... chủ yếu được trồng tại Mpumalanga và Limpopo Công nghiệp sản xuất rượu và đồ uống chiếm vai trò quan trọng trong kinh tế nông nghiệp. Nam Phi xếp thứ 8 trên thế giới về sản xuất rượu. Hơn 40% sản lượng khoai tây được trồng ở vùng vùng cao Mpumalanga và Free State. 2/3 diện tích sản xuất khoai tây được cung cấp hệ thống tưới tiêu. 50% sản lượng khoai tây cung cấp cho siêu thị. 16% được gia công chế biến thành các sản phẩm như khoai tây chiên (chip). Hành được trồng chủ yếu tại Mpumalanga, các tỉnh miền Tây và phía Nam của tỉnh Frec State. Bắp cải được sản xuất trên toàn quốc nhưng tập trung tại Các tỉnh Mpumalanga và Kwazulu Natal. Bông được trồng tại Kwazulu Natal và các tỉnh miền Bắc, đóng góp 74% nguyên liệu sản xuất lợi tự nhiên và 42% nguyên liệu sản xuất sợi chế biến. 75% sản xuất vẫn được thu hoạch bằng tay. Thuốc lá Virginia được sản xuất chủ yếu tại Mpumalaga và Limpopo. Một số lượng nhỏ được sản xuất tại miền Tây và Eastern Cape Chè mật ong rừng (honeybush) được trồng chủ yếu tại các tỉnh miền Tây và miền Đông. Hiệp hội chè Mật ong rừng Nam Phi được thành lập năm 1999 để giúp người sản xuất sản phẩm. Các sản phẩm chủ yếu là chè Rooibos. Xuất nhập khẩu Nam Phi là nước sản xuất với qui mô lớn các loại thịt, da các loại, len lấy từ cừu và sữa. Tổng sản lượng thịt hàng năm cung cấp đủ cho 85% nhu cầu nội địa, phần còn lại Nam Phi nhập khẩu từ Namibia, Botswana và Swaziland. Thuốc cho gia súc chủ yếu dược cung cấp bởi Công ty đaquốc gia Onderstepoort Biological Products. Nam Phi tự cung tự cấp phần lớn lương thực cơ bản. Tuy nhiên, Nam Phi vẫn phải nhập khẩu lúa mì, gạo, chè, cà phê và các giống cây có dầu. Nam Phi là nước xuất khẩu ròng một số sản phẩm nông nghiệp như trái cây có múi, đường, nho, táo, lê, và quả mộc qua (quinee). Nam Phi cũng xuất khẩu ngô các loại, rượu nho, lạc, hoa tươi, vải nỉ angora (mohair) và len. EU là thị trường nhập khẩu lớn nhất các mặt hàng nông nghiệp của Nam Phi Bộ Nông nghiệp Nam Phi có trách nhiệm thực hiện các chính sách tại Châu Phi bao gồm Lesotho, Swaziland và Zimbabwe. Bộ Nông nghiệp tham gia đàm phán với Hoa Kỳ. Mecosour: Cairns, WTO, SADC, SACU và Hiệp định Thương mại Tự do với EU về những vấn đề liên quan tới nông sản. Hiệp định Thương mại Tự do với EU đã tạo cho các các sản phẩm trái cây tươi, các sản phẩm bơ sữa, hoa quả đóng hộp, thuốc lá rượu và đồ uống của Nam Phi được hưởng lợi từ thuế hải quan. Các qui định thương mại ảnh hưởng tới xuất khấu nông sản của Việt Nam vào thị trường Nam Phi Các rào cản phi thuế quan: Cục quan là chất lượng và Sức khỏe Cây trồng của Bộ Nông nghiệp có trách nhiệm quản lý về chất lượng của các mặt hàng nông nghiệp Pest Con trol Act: Luật quản lý kiểm soát côn trùng và cây lạ. Thuế nhập khẩu: Xem phần thuế nhập khẩu Tập quán tiêu thụ: Người da đen chủ yếu ăn bột ngô, người da trắng ăn bánh mì và khoai tây, người Châu Á ăn gạo (chủ yếu gạo đồ) Các cơ hội đầu tư Nuôi trồng thủy hải sản (aquaeulture) ; Chế biến lương thực ; Thuộc da và đánh bóng da. Nông sản, chủ yếu là cà phê và hạt tiêu, là một hoặc những nhóm hàng Việt Nam xuất khẩu khá ổn định vào thị trường Nam Phi. Tuy nhiên xuất khẩu gạo không ổn định do người dân Nam Phi (gốc Ấn Độ) chủ yểu ăn gạo đồ. Muốn tăng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông sản,Việt Nam cần chuyển hướng sang xuất khẩu các mặt hàng chế biến như cà phê Trung Nguyên . . . 1. 2 Hàng dệt may Nam Phi không áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may nhập khẩu và tuân theo các hiệp định tự do thương mại với EU, SADC và Zimbabwe. Trên cơ sở các hiệp định đó, Nam Phi áp thuế cho mặt hàng dệt may cũng như các mặt hàng khác. Hiện nay Nam Phi đang tiến hành đàm phán ký kết hiệp định tự do Thương mại với Trung Quốc và Ấn Độ. Ngoài ra Nam Phi cũng có dự định ký kết Hiệp định Tự do thưong mại với khối Mercosur Nam Mỹ. Do nạn thấp nghiệp rất cao (trên 30%), nên ngành may mặc của Nam Phi được nhà nước bảo hộ mạnh bằng hàng rào thuế quan. Tuy nhiên Nam Phi là một trong những sáng lập viên của WTO nên họ phải tuân thủ lộ trình cắt, giảm thuế theo quy định của tổ chức này. Mức thuế Nam Phi áp dụng cho các nước khác ngoài hiệp định song phương thông thường là thuế suất MFN. Ngoài ra, đối với những nước đã ký kết hiệp định xong phương với Nam Phi thì tùy theo từng hiệp định mà Nam Phi áp mức thuế khác nhau. Mức thuế chung là từ 20% đến 60% Các sản phẩm dệt may đang thông dụng tại thị trường Nam Phi được phân biệt theo mẫu da, tầng lớp người tiêu dùng và thị hiếu tiêu thụ. Người đa đen (chiếm tới 77% dân số) thích mặc những loại quần áo rẻ tiền, chủ yếu là quần bò,áo bò, áo phông, áo thun... và ưa chuộng chất liệu bền. Họ thích mầu mè, đặc biệt là những màu đậm. Người da trắng (chỉ chiếm 12% dân số) chuộng phong cách Châu Âu, thích tông màu thanh nhã. Giới trẻ ăn mặc theo xu hướng thời trang. Người da mầu (chủ yếu là gốc người Ấn Độ) có kiểu ăn mặc riêng. Nhìn chung, dân Nam Phi da trắng cũng như da đen thích mặc quần bò, áo phông. Họ không câu nệ và quá chăm chút tới ăn mặc, trừ số ít tầng lớp lao động trí thức văn phòng. Những ngày thứ sáu nhân viên đi đến trụ sở trong bộ đồ thông thường (casual). Ngoài ra, hàng dệt may của Nam Phi còn được phân loại theo mùa và theo vùng. Khí hậu của Nam Phi được chia làm 2 mùa: đông và hè. Mùa hè rõ nét nhất là từ tháng 12 đến tháng 2. Thời tiết bán ôn đới, nóng vào ban ngày nhưng lạnh vào ban đêm. Điều này.khiến tầng lớp ít tiền (chủ yếu là người da đen) muốn mua một chiếc áo ấm để có thể khoác vào ban ngày và đủ ấm để mặc vào ban đêm. Mùa đông thời tiết lạnh hơn, ban ngày nhiệt độ có thể xuống tới 130C, tối khoảng –30C. Tuy nhiên đa phần Nam Phi không có tuyết do khí hậu khô. Yếu tố thời tiết ảnh hưởng rất nhiều tới chủng loại hàng may mặc. 1. 3 Thủy hải sản Nam Phi là nước có truyền thống tự cung từ cấp do chế độ Aparthaid để lại cộng thêm ngành đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản khá phát triển. Nhập khẩu hải sản của Nam Phi rất nhỏ so với tổng cung của thị trường. Hơn nữa người dân Nam phì có tập quán ăn thịt nhiều hơn thủy hải sản. Sản lượng thủy hải sản của Nam Phi hàng năm được kiểm tra nghiêm ngặt để bảo vệ nguồn tài nguyên biển nên không có sự thay đổi lớn trong mấy năm gần đây. Tổng sản lượng đánh bắt năm 2000 đạt khoảng 600 nghìn tấn. Năm 2000, nhập khẩu thủy hải sản các loại của.Nam Phi đạt gần 25,1 nghìn tấn, xuất khẩu đạt 132,8 nghìn tấn. Việc đánh bắt cá meluc, cá bơn Aguthas, cá mòi cơm, cá trồng, sò biển và bào ngư phải xin hạn ngạch. Cá thu bị hạn chế đánh bắt. Hải cẩu và cá voi là hai động vật bị cấm săn bắt. Hàng năm, sản lượng đánh bắt cá của Nam Phi đạt 600 nghìn tấn, tri giá 2,5 triệu Rand doanh thu bán buôn. Nam Phi có khoảng 28.000 lao động và 3.400 chiếc tầu được sử dụng vào ngành này. Sản lượng loại lươn biển ăn được, cá bơn Agulhas, và cá meluc (một loại cá tuyên) chiếm tỷ lệ cao nhất về trị giá và số lượng là 45%, cá biển gồm cá mòi cơm, cá hồi mắt đỏ và cá trồng chiếm 23%,sò biển 11%. Năm 2000, 50% tổng số cá đánh bắt của Nam Phi được xuất khẩu, chiếm 9% sản lượng xuất khẩu và khoảng 1% tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Thuế nhập khẩu được áp dụng đối với tất cả các mặt hàng thủy hải sản và được tính trên trị giá hóa đơn thương mại. Nếu có nghi vấn về sự chính xác của giá cả, hải quan Nam Phi sẽ tiến hành kiểm tra và xác định lại. VAT là 14% trị giá hàng bao gồm cả thuế nhập khẩu. Các mức thuế có khả năng sẽ được giảm theo quy định chung của WTO đối với mặt hàng này. Nam Phi không áp đặt hạn ngạch nhập khẩu các mặt hàng thủy hải sản. Về chế độ giấy phép, tất cả các loại cá tươi, đông lạnh, sấy khô, muối, hun khói (mã số 03.02, 03.03, 03.04, 03.05 trừ mã 03.05.41) đều phải xin giấy phép nhập khẩu. Các loài giáp xác, động vật thân mềm các loại (mã 03.06, 03.07) đều phải xin giấy phép nhập khẩu. Ngoài ra các loại tôm, cua, cá, .mực khác không thuộc diện trên đều không phải xin giấy phép nhập khẩu. Đối với các mặt hàng thủy hải sản từ Việt Nam, Hải quan Nam Phi đòi hỏi phải có Giấy chứng nhận kiểm dịch (Phytosanitary certificate). Chất lượng sản phẩm phải đảm bảo không g

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích môi trường Nam Phi-đề xuất phương thức kinh doanh quốc tế cho sản phẩm dệt may.doc
Tài liệu liên quan