MỤC LỤC
A. Lời mở đầu.
B. Nội dung.
I. Nguyên tắc phân chia quyền lực.
1. Nội dung cơ bản.
2. Các hình thức phân chia quyền lực.
a. Phân quyền ngang.
b. Phân quyền dọc.
II. Sự vận dụng tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản.
1. Phân quyền trong nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống.
2. Phân quyền trong nhà nước theo chính thể cộng hòa đại nghị.
3. Phân quyền trong nhà nước theo chính thể cộng hòa hỗn hợp.
C. Kết luận.
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5676 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích nguyên tắc phân chia quyền lực và áp dụng này trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. Lời mở đầu.....................................................................................................
B. Nội dung..........................................................................................................
I. Nguyên tắc phân chia quyền lực....................................................................
1. Nội dung cơ bản..............................................................................................
2. Các hình thức phân chia quyền lực..............................................................
a. Phân quyền ngang..........................................................................................
b. Phân quyền dọc..............................................................................................
II. Sự vận dụng tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản............................................................
1. Phân quyền trong nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống.............
2. Phân quyền trong nhà nước theo chính thể cộng hòa đại nghị..................
3. Phân quyền trong nhà nước theo chính thể cộng hòa hỗn hợp..................
C. Kết luận..........................................................................................................
LỜI MỞ ĐẦU
Phân chia quyền lực là một khái niệm đã được biết đến từ lâu nhờ sự xuất hiện của các bản Hiến pháp tư sản. Nguyên tắc phân quyền từ khi mới ra đời cho đến nay đã trở thành xương sống của việc tổ chức quyền lực của các nhà nước tư sản khắp nơi trên thế giới. Các quy định trong những bản hiến pháp tạo cơ sở thừa nhận sự tồn tại độc lập, kiềm chế lẫn nhau giữa 3 cơ quan: lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tổ chức song song với nhau, và qua đó kiểm tra, giám sát hoạt động lẫn nhau. Theo thể chế này, không một cơ quan nào có quyền lực tuyệt đối trong sinh hoạt chính trị của quốc gia. Vì vậy sau đây em xin trình bày để tài "Phân tích nguyên tắc phân chia quyền lực và áp dụng này trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản" để làm rõ hơn nguyên tắc trên. Với trình độ kiến thức còn hạn hẹp, nên trong bài làm còn có sai sót. Rất mong thầy cô sửa chữa để giúp em hoàn thiện kiến thức hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I. Nguyên tắc phân chia quyền lực.
1. Nội dung cơ bản.
Trước chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào trong tay một cá nhân. Chính đây là căn nguyên cho mọi hành vi độc tài, chuyên chế của các công việc nhà nước. Vì vậy, muốn chống chế độ này, một lý thuyết của nhiều học giả tư sản đã được nêu ra, đó là thuyết phân chia quyền lực. Tư tưởng phân quyền đã có từ thời Hy lạp cổ đại được khơi nguồn từ Aristotle và được các nhà tư tưởng lớn Jonh Locke và C.L. Montesquieu phát triển thành một hệ thống học thuyết hoàn chỉnh. Nội dung cốt lõi của học thuyết này cho rằng, quyền lực nhà nước luôn có xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực là xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước thì phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền lực nhà nước. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các công cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập trung quyền lực, mà là phân chia nó ra. Muốn hạn chế quyền lực nhà nước thì trước hết phải phân quyền, và sau đó phải làm cho các nhánh quyền lực đã được phân chỉ được phép hoạt động trong phạm vi quy định của pháp luật. Sự phân quyền không đơn thuần chỉ diễn ra ở một chiều ngang, mà còn cần thiết ở cả chiều dọc, và ở bất cứ lĩnh vực nào của nhà nước.
2. Các hình thức phân chia quyền lực.
a. Phân quyền ngang.
Đây là cách thức phân quyền cổ điển theo đó: Quyền lực nhà nước được phân chia thành 3 cơ quan : lập pháp ,hành pháp và tư pháp. Hoạt động của các cơ quan quyền lực này có sự chuyên môn hóa và luôn kiềm chế đối trọng lẫn nhau. Nội dung cơ bản của tư tưởng phân quyền ngang là:
- Quyền lực nhà nước được phân chia thành các nhánh khác nhau, do các cơ quan khác nhau nắm giữ để không một cá nhân hay tổ chức nào nắm được trọn vẹn quyền lực nhà nước.
- Hoạt động của các cơ quan quyền lực công có sự chuyên môn hóa, mỗi cơ quan chỉ hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình, không làm ảnh hưởng tới hoạt động của các cơ quan khác.
- Quyền lực giữa các cơ quan quyền lực cân bằng, không có loại quyền lực nào vượt trội hơn. Các cơ quan quyền lực giám sát, kiềm chế đối trọng và chế ước lẫn nhau, để không có một cơ quan nào có khả năng lạm quyền.
Phân quyền dọc được thực hiện theo hai phương pháp là phân quyền theo lãnh thổ và phân quyền theo chuyên môn. Vận dụng tư tưởng này, hiện nay Hiến pháp của các nhà nước tư sản đều khẳng định nguyên tắc này là một nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức quyền lực nhà nước,nó trở thành nguyên tắc hiến định trong hiến pháp Hoa Kỳ,Pháp,Nga...Ở một số quốc gia tuy không ghi nhận nguyên tắc này trong hiến pháp nhưng việc tổ chức bộ và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng dựa trên nguyên tắc này.
b. Phân quyền dọc
Phân quyền dọc được chia theo lực lượng chính trị khác nhau trong xã hội, giữa cơ quan nhà nước trung ương với cơ quan địa phương, giữa liên bang với tiểu bang, giữa liên minh với các nước thành viên hay giữa các cơ quan với nhau. Chính ở sự phân quyền này mà quyền lực nhà nước trung ương bị hạn chế. Đến lượt mình, quyền lực của cơ quan địa phương – chính phủ địa phương lại bị phân chia thành lập pháp địa phương và hành pháp địa phương. Nội dung chủ yếu của tư tưởng phân quyền dọc như sau:
- Tồn tại hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước do dân bầu ở các cấp địa phương, song song với bộ máy nhà nước trung ương.
- Có sự phân công nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn cụ thể giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong những lĩnh vực cụ thể; mà chủ yếu là chính quyền trung ương sẽ giải quyết các vấn đề công, vì lợi ích của cả cộng đồng xã hội, như vấn đề: chủ quyền lãnh thổ, dịch vụ công,...; còn chính quyền địa phương sẽ phụ trách các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục, văn hóa ở địa phương, ngoài ra còn có thể chủ động tiến hành hợp tác, giao lưu với các địa phương khác hoặc các tổ chức quốc tế trong quyền hạn của mình.
Tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền trong nhiệm vụ và quyền hạn của mình là tương đối độc lập với nhau. Chính quyền trung ương không có quyền điều hành, chỉ đạo chính quyền địa phương, mà chỉ có thể xây dựng chủ trương chính sách, tạo dựng khuôn khổ pháp lý, và kiểm tra, giám sát hoạt động của các chính quyền cấp dưới, mọi phạm vi của chính quyền địa phương sẽ do Tòa án Hành chính xét xử độc lập.
II. Sự vận dụng tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sn.
1. Phân quyền trong nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống. Việc tổ chức quyền lực của nhà nước theo chính thể này áp dụng học thuyết phân chia quyền lực nhà nước một cách tuyệt đối, mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong chính thể cộng hoà tổng thống được phân định một cách rõ ràng cụ thể. Vì vậy, ở đây lập pháp không được quyền đứng ra thành lập hành pháp và hành pháp không phải chịu trách nhiệm trước lập pháp. Chúng là hai thiết chế hoàn toàn độc lập, cùng do dân bầu ra và cùng chịu trách nhiệm trước dân. Chính việc áp dụng nguyên tắc phân quyền chặt chẽ này là cơ sở cho việc không chịu trách nhiệm lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp. Lập pháp và hành pháp kìm chế và đối trọng lẫn nhau để không cơ quan nào có thể tiếm quyền. Tổng thống có thể khống chế một phần quyền lực của nghị viện trong việc ban hành luật và chi phối hoạt động tòa án tối cao bằng việc bổ nhiệm chánh án. Tuy nhiên tổng thống không có quyền giải tán nghị viện, bãi chức thẩm phán và nghị viện cũng không có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ. Nếu tổng thống vi phạm pháp luật, nghị viện có quyền luận tội và bãi nhiệm tổng thống trước thời hạn. Về hình thức, tòa án có thể coi là tương đối độc lập đối với các cơ quan nhà nước khác. Tuy nhiên mỗi chính thể tổng thống của từng nước có những nét riêng đặc thù nên nhìn chung chỉ thể hiện những đặc trưng nhất định của tư tưởng phân chia quyền cứng rắn như trên. Hoa Kì là nhà nước tư sản điển hình cho nguyên tắc phân quyền trong chính thể cộng hòa tổng thống. Theo đó quyền lập pháp thuộc về nghị viện; nghị viện bao gồm Thượng viện và Hạ viện. Chức năng chủ yếu của nghị viện là sử dụng quyền lực của mình để làm nên các đạo luật cần thiết và phù hợp với quy định của Hiến pháp. Chủ thể nắm giữ quyền hành pháp là tổng thống do nhân dân bầu ra không phụ thuộc vào tuyển cử viên. Tổng thống đứng đầu bộ máy nhà nước, hoàn toàn độc lập với nghị viện. Tuy nhiên giữa tổng thống và nghị viện vẫn có sự thỏa thuận, trao đổi, thương thuyết và chịu trách nhiệm với nhau. Vừa thể hiện sự hợp tác vừa thể hiện sự kiềm chế, đối trọng lẫn nhau giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Chủ thể của quyền tư pháp là tòa án tối cao và các tòa án cấp dưới do nghị viện thành lập. Với tư cách là cơ quan thực thi pháp luật, được pháp luật trao cho quyền năng hoàn toàn độc lập với lập pháp và hành pháp. Đồng thời còn độc lập với dân chúng vì cơ quan tư pháp không do dân bầu ra, không chịu trách nhiệm trước nhân dân. Tuy nhiên, tòa án cũng có quyền khởi tố các vụ việc lạm quyền, tham nhũng của các quan chức cấp cao trong nghị viện và cả tổng thống. Hiến pháp của Hoa Kì còn quy định những điều khoản hạn chế quyền lập pháp của nghị viện mà chỉ có tòa án mới có thể bảo đảm thực hiện. Nhưng nhìn chung cách thức tổ chức của ba cơ quan này có sự độc lập với nhau.
2. Phân quyền trong nhà nước theo chính thể cộng hòa đại nghị. Ở chính thể này, nguyên thủ quốc gia là các vị Hoàng đế, còn chính phủ - bộ máy hành pháp - được thành lập và được hoạt động khi nào vẫn còn sự tín nhiệm của Hạ nghị viện. Các bộ trưởng và người đứng đầu hành pháp phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện (Hạ viện). Trên thực tế, việc thành lập và hoạt động của các chính phủ đều nằm trong tay đảng chiếm đa số ghế trong Hạ viện. Nhà vua hầu như không tham gia vào giải quyết các công việc của nhà nước và phải dần dần nhường quyền lập pháp cho Quốc hội, sau đó là quyền điều hành đất nước cho Chính phủ, mà đứng đầu là Thủ tướng. Nhà vua hay nữ hoàng chỉ còn lại một phần của quyền hành pháp. Nghị viện là cơ quan có vai trò tối cao và có quyền giải quyết mọi vấn đề của nhà nước. Chính phủ phải được Nghị viện thành lập từ thành phần Hạ nghị viện. Vì vậy Chính phủ chỉ được hoạt động khi vẫn còn sự tín nhiệm của Nghị viện. Trong trường hợp không còn sự tín nhiệm của Nghị viện, thì Chính phủ phải từ chức, Nghị viện thành lập ra Chính phủ mới. Trong trường hợp không thành lập được Chính phủ mới thì Nghị viện bị giải tán. Mặc dù Nghị viện là cơ quan lập pháp, nhưng có một nhiệm vụ quan trọng trên hết và phải thực hiện trước khi lập pháp là phải thành lập ra Chính phủ. Ngoài việc phải thực hiện chức năng cơ bản của mình là lập pháp, Nghị viện còn phải thành lập chính phủ và phải giám sát chính phủ. Ở đây, chính phủ có thể bị lật đổ theo quyết định của Nghị viện, hoặc có thể tự rút lui theo quyết định của người đứng đầu chính phủ. Theo cách thức tổ chức của nhà nước đại nghị, lấy Anh quốc là điển hình, Chính phủ - hành pháp và Quốc hội/ Hạ nghị viện – lập pháp đều cùng phản ánh ý chí của đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền là đảng chiếm đa số ghế trong Quốc hội thông qua một cuộc đầu phiếu phổ thông bầu ra Nghị sỹ Quốc hội, có quyền đứng ra thành lập Chính phủ. Thủ lĩnh của Đảng cầm quyền sẽ là Thủ tướng Chính phủ. Các thành viên của Chính phủ về nguyên tắc đều là những người có chân trong ban lãnh đạo của đảng cầm quyền. Với nguyên tắc nghị sỹ của đảng nào chỉ được bỏ phiếu cho ý chí của đảng đó, cộng với quyền trình dự án luật trước Quốc Hội, nên gần như có một nguyên tắc là mọi dự luật đều xuất phát từ Chính phủ - hành pháp. Mọi hoạt động của Quốc hội – lập pháp và Chính phủ - hành pháp đều do đảng cầm quyền quyết định. Quốc hội chỉ còn lại công việc là kiểm soát Chính phủ và sẵn sàng thay đổi Chính phủ đang cầm quyền của đảng đối lập. Theo con số thống kê của nhiều nghị viện, có tới hơn 90% tổng số các dự án luật được Quốc hội/Nghị viện thông qua là dự án đệ trình từ Chính phủ.
3. Phân quyền trong nhà nước chính thể cộng hòa hỗn hợp. Chính thể cộng hòa hỗn hợp là sự kết hợp các yếu tố của chính thể cộng hòa nghị viện và cộng hòa tổng thống. Có cách áp dụng tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước cứng rắn ở quan hệ này, mềm dẻo ở quan hệ khác. Đặc trưng của chính thể này đó là tổng thống do cử tri hoặc đại cử tri bầu ra nên quyền lực rất lớn kể cả quyền giải tán nghị viện trước thời hạn và là nhân vật trung tâm của hệ thống các cơ quan cao nhất của nhà nước. Tổng thống có tác động khá mạnh mẽ và nhiều khi có ý nghĩa quyết định đối với việc ban hành luật. Một số nước còn cho phép tổng thống ban hành các văn bản qui phạm có giá trị như luật trong những lĩnh vực không thuộc thẩm quyền ban hành luật của nghị viện , hoặc nghi viện có thể ủy quyền cho tổng thống ban hành luật trong những trường hợp nhất định. Chính phủ do tổng thống bổ nhiệm. về mặt pháp lý, tổng thống không đứng đầu chính phủ mà người đứng đầu chính phủ là thủ tướng, song tổng thống có quyền điều hành hoạt động của chính phủ. Mặc dù pháp luật qui định chính phủ phải chịu trách nhiệm trước nghị viện, song khả năng của nghị viện trong việc kiểm tra các hoạt động của chính phủ rất hạn chế.
Pháp và Liên bang Nga là hai nhà nước điển hình cho kiểu áp dụng trên. Tổng thống do nhân dân bầu ra, không dựa trên cơ sở của Nghị viện, giống như hình thức chính thể tổng thống. Nhưng tổng thống lại chỉ nắm giữ vai trò là người đứng đầu chính phủ; làm trọng tài, điều hòa ba nhánh quyền lực và điều hành các cơ quan nhà nước. Tổng thống có quyền bổ nhiệm thủ tướng, thủ tướng mới là người nắm giữ quyền hành pháp trong tay, thực hiện những đề nghị của tổng thống giống như trong hình thức chính thể đại nghị. Tuy nhiên tổng thống cũng có thể chủ tọa các phiên tòa, các phiên họp hội đồng bộ trưởng, bổ nhiệm thẩm phán, có quyền yêu cầu nghị viện thảo luận lại các dự luật đã được thông qua và có quyền giải tán nghị viện. Chính phủ vừa chịu trách nhiệm trước tổng thống vừa chịu trách nhiệm trước nghị viện. Điều này cho thấy quyền hành pháp và lập pháp được san sẻ giữa hai cơ quan lớn nhất trong nhà nước, tư tưởng phân chia quyền lực vừa mềm dẻo vừa cứng rắn. Về tư pháp, nhìn chung trong mọi hình thức chính thể đều tương đối độc lập nhưng trong hình thức cộng hòa lưỡng tính, cơ quan tư pháp vừa dưới sự chỉ đạo trực tiếp của tổng thống vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp.
KẾT LUẬN
Phân chia quyền lực là một tư tưởng hết sức phức tạp, đa diện nên có rất nhiều quan điểm khác nhau. Song về cơ bản nó là một tư tưởng dân chủ và tiến bộ, chiếm vị trí khá quan trọng trong việc tổ chức bộ máy nhà nước. Hiện tại, phân quyền vẫn là một yếu tố đảm bảo cho nền dân chủ, chống lại sự chuyên chế, sự lạm quyền trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân mở ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của loài người.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình "Lý luận Nhà nước và Pháp luật", Trường ĐH Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân năm 2009
2. Giáo trình "Lý luận Nhà nước và Pháp luật", NXB Giao thông vận tải 10/2008, tác giả GS.TS Phạm Hồng Thái-PGS.TS Đinh Văn Mậu
3. "Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại. Lý luận và thực tiễn" - PGS.TS Thái Vĩnh Thắng, NXB Tư pháp, năm 2010
4. www.vi.wikipedia.org
5. www.Sinhvienluat.com
6. www.diendanphapluat.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập lớn lý luận nhà nước và pháp luật.doc