Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay

Mục lục

Lời mở đầu 1

Phần nội dung 1

I. Khái quát chung về pháp luật thuế GTGT 1

1. Khái niệm về pháp luật thuế GTGT 1

2. Đặc điểm của pháp luật thuế GTGT. 1

II. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT pử Việt Nam hiện nay. 1

1. Các yếu tố khách quan. 1

a) Đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước 1

b) Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 3

c) Chi phối bởi yêu cầu thu ngân sách Nhà nước. 4

d) Phụ thuộc tính khả thi và mức đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật 5

2) Các yếu tố chủ quan. 6

a) Cơ cấu, trình độ, năng lực quản lý thuế của các cơ quan quản lý thuế. 6

b) Ý thức chấp hành pháp luật thuế của người dân. 9

II. Chiều hướng thay đổi các yếu tố trên để việc thực thi pháp luật Thuế GTGT đạt hiệu quả cao. 11

1. Phương hướng chung. 11

a) Về các yếu tố khách quan 11

b) Về các yếu tố chủ quan 12

2. Một số phương hướng cụ thể. 13

Lời kết 14

Tài liệu tham khảo 15

 

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5132 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể chế hóa chiến lược phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước. Bên cạnh ban hành các mức thuế suất hợp lý thì việc quy định 25 nhóm đối tượng không chịu thuế GTGT cũng là một ví dụ thể hiện sự thể chế hóa này: Để phát triển, nâng cao trình độ internet, viễn thông cho người dân: quy định đối tượng không chịu thuế là dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích và In-ter-net phổ cập theo chương trình của Chính phủ. (Khoản 10, Điều 5 Luật thuế GTGT 2008). Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp: quy định đối tượng không chịu thuế là tưới, tiêu nước; cày, bừa đất; nạo vét kênh, mương nội đồng phục vụ sản xuất nông nghiệp; dịch vụ thu hoạch sản phẩm nông nghiệp. (Khoản 3, Điều 5, Luật thuế GTGT 2008). Thúc đẩy việc sử dụng các phương tiện giao thông, công cộng: Vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt, xe điện. (Khoản 16 Điều 5, Luật thuế GTGT 2008). v.v.. Giả sử, nếu pháp luật không có những quy định về các đối tượng không chịu thuế như trên, mà Nhà nước vẫn yêu cầu thực hiện thành công các chiến lược quốc gia, thì chắc chắn, việc thực thi thuế GTGT sẽ kém, không đạt hiệu quả cao. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, thực trạng tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng là một nhân tố làm ảnh hưởng đáng kể tới sự thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay. Trước khi tìm hiểu xem sự phát triển của nền kinh tế - xã hội của đất nước tác động như thế nào đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT thì cần xem xét pháp luật thuế GTGT có ảnh hưởng như thế nào đối với nền kinh tế - xã hội. Thuế GTGT có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và thu nhập nên căn cứ vào từng tình huống kinh tế, Nhà nước có thể sử dụng thuế làm công cụ điều chỉnh nền kinh tế. Các qui định về đối tượng, pham vi đánh thuế, thuế suất,điều kiện miễn, giảm thuế… Xét về hiện tượng thì mang tính cưỡng chế nhưng bản chất là nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế nhất định, nhằm khuyến khích hay hạn chế đầu tư vào ngành nghề, sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Bởi đơn giản là, ngườinộp thuế sẽ thấy đầutư vào đâu thì có lợihơn. Tóm lại, thông qua thuế Nhà nước tác động tích cực đến việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý mọi nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh quan hệ cung cầu và cơ cấu kinh tế. Như vậy, việc thực thi thuế là nhằm những mục đích về kinh tế - xã hội. Vì vậy, sự phát triển của nền kinh tế - xã hội sẽ có những tác động nhất định tới việc thực thi pháp luật thuế GTGT. Hiện nay, nước ta đang bước vào nền kinh tế thị trường với những thành tựu đáng kể. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đạt 5,83%, gấp gần 1,9 lần tốc độ tăng trong quý I/2009. Đáng chú ý là sự phục hồi diễn ra ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt: Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,8%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,6%; thị trường trong nước tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao, trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế tăng 24,1%, hoạt động du lịch sôi nổi, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng 36,2% so với cùng kỳ năm trước; thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội ước tính tăng 26,23% so với cùng kì năm trước đặc biệt là khu vực ngoài nhà nước tăng tới 46,38%;... Như vậy, nhìn một cách tích cực, mọi mặt của đời sống, kinh tế, xã hội đều có sự tiến bộ rõ rệt. Ngày càng có nhiều hàng hóa, dịch vụ được sinh ra. Từ quá trình sản xuất đến lưu thông, hàng hóa và dịch vụ này đều có sự tăng thêm đáng kể về giá trị. Vì thế, về phía nhà nước, khoản thuế thu thêm sẽ ngày càng tăng. Bởi lẽ, người tiêu dùng (người chịu thuế) có đời sống khá giả hơn, sẵn sàng bỏ ra khoản tiền lớn để mua những hàng hóa đã được tính thuế GTGT. Về phía người nộp thuế, họ cũng sẽ thực thi pháp luật thuế hiệu quả hơn nếu như bước vào nền kinh tế thị trường, nền kinh tế phát triền. Bởi trong môi trường này, uy tín của một doanh nghiệp sẽ ngày càng chiếm vị trí quan trọng trên thương trường, nó còn cao hơn cả những món lợi nhất thời mà Doanh nghiệp có thể thu được từ việc trốn thuế. Ngược lại, nếu tình hình kinh tế - xã hội khó khăn thì việc thực thi pháp luật thuế GTGT sẽ có thể tiển theo chiều hướng xấu. Lúc đó, sự làm ăn gặp nhiều khó khăn hơn thì có thể lợi nhuận, tiền bạc mới là cái mà các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu. Điều này rất dễ xảy ra nếu tình hình đất nước phát triển giống như những tháng đầu năm 2010: “Việc huy động vốn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhất là vốn tín dụng với lãi xuất co xu hướng tăng khi phải vay với lãi xuất thỏa thuận. Hiệu quả đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, trong khi đó áp lực cạnh tranh của nước ngoài trên thị trường quốc tế và cả ở thị trường trong nước ngày càng gay gắn hơn.,4 Bên cạnh việc chịu chi phối bởi nền kinh tế - xã hội trong nước, nền kinh tế quốc tế cũng có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT. Hiện nay, Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xu hướng chung là phải mở cửa, giảm thuế quan đối với hàng hóa, dịch vụ nói chung và giảm thuế GTGT nói riêng. Nếu các mức thuế suất mà Luật thuế GTGT phù hợp với những cam kết quốc tế thì việc thực thi sẽ có chiều hướng tốt. Đối với chủ thể nộp thuế, chịu thuế cũng cảm thấy dễ chịu và chủ thể thực thi việc thu thuế cũng sẽ dễ dàng hơn trong việc thực thi nhiệm vụ của mình. Chi phối bởi yêu cầu thu ngân sách Nhà nước.  Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Thuế GTGT là một trong những loại thuế giữ vai trò này. Hiện nay, nguồn thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chịu sức ép của quan hệ “mua bán sòng phẳng”,“có vay, có trả”, thuế GTGT phải là công cụ quan trọng góp phần tích cực giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế - xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển đất nước lâu dài. Vì vậy, yêu cầu thu ngân sách nhà nước là một yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực thi pháp luật thuế GTGT. Điều này thể hiện ở một số điểm sau: Thứ nhất, nhu cầu thu về thuế gián thu. Ở Việt Nam hiện nay, đa số các nguồn thu đều xuất phát từ thuế gián thu. Thuế GTGT là một loại thuế gián thu. Vì vậy, đối với các tổ chức thu thuế, việc thu loại thuế này khá dễ dàng, không vấp phải sự phản đối của nộp, cũng như người chịu thuế. Thứ hai, nhu cầu thu của Nhà nước về thuế. Một nhà nước cần một nguồn thu lớn để vận hành bộ mày nhà nước và thực hiện những công việc của đất nước thì các loại thuế sẽ được đặt ra càng nhiều. Mặt khác, nếu nhu cầu thu cao thì nhà nước cần phải thiết lập một bộ máy thực thi việc thu thuế có hiệu quả, từ đó cũng phần nào tránh được việc trốn thuế, gian lận thuế. Tuy nhiên, cũng không thể tránh khỏi trường hợp, nếu nhà nước quy định quá nhiều mức thuế cao trong luật thuế GTGT thì người dân sẽ khó mà có thể thực thi đúng đắn được. Phụ thuộc tính khả thi và mức đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật Không một loại thuế nào có thể đứng độc lập một cách tuyệt đối trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Thuế GTGT cũng vậy. Thuế GTGT cần có sự tương thích, phù hợp với các văn bản pháp luật khác có liên quan như các văn bản pháp luật về quản lý đất đai, về thanh toán không dùng tiền mặt, v.v.. Có như vậy, sự thực thi mới thực sự đạt hiệu quả. Không hiếm trường hợp, văn bản pháp luật thuế GTGT quy định một kiểu, văn bản pháp luật của các ngành khác lại quy định một kiểu. Rất nhiều trường hợp thuế GTGT có quy định nhưng các văn bản khác lại không quy định, không làm rõ, không có mối liên hệ với pháp luật thuế GTGT dẫn tới hiện tượng thực hiện rất khó khăn, thậm chí là không thể thực hiện được luật thuế GTGT. Ví dụ, về thuế GTGT trên thị trường bất động sản. Theo Thông tư 129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 có hiệu lực từ ngày 1/1/2009 về thuế GTGT, các giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải chịu thuế GTGT. Thông tư này cũng quy định chi tiết rằng thu nhập chịu thuế GTGT là giá trị chuyển nhượng bất động sản trừ đi giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm chuyển nhượng. Tuy nhiên, trong thực tế, có nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện mà các đối tượng chịu thuế gặp phải. Đó làm thế nào để có thể xác định và thống nhất giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm chuyển nhượng cho mục đích giảm trừ tính thuế GTGT? Thông tư 129/2008/TT-BTC lại có những quy định khác với một số công văn khác của Bộ tài chính quy định về vấn đề này. Vấn đề khác nữa là đối với giao dịch bán căn hộ chung cư, đặc biệt là chung cư cao tầng, làm thế nào để tính phân bổ giá trị quyền sử dụng đất chung cho từng căn hộ chung cư cho mục đích khấu trừ thuế GTGT? Thông tư hiện hành về thuế không đề cập hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Việc tham khảo Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và các quy định thực hiện liên quan khác là cần thiết trong trường hợp này và đây là vấn đề rất phức tạp về mặt pháp lý. Hay vướng mắc trong một lĩnh vực khác, đó là quá trình thực hiện quản lý thuế GTGT đối với loại hình nhập sản xuất xuất khẩu Chi cục Hải quan quản lý hàng Gia công tại điểm 20 mục II phần A Thông tư 129/2008/TT-BTC ngày 16/12/2008. Vướng mắc ở đây là đã có quy định nhưng chưa có hướng dẫn dẫn đến trường hợp không nhập được số liệu thuế GTGT đối với hàng nhập sản xuất xúât khẩu nên rất khó khăn trong việc đôn đốc nộp thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu theo loại hình tại quy định này có thuế suất bằng 0% vì phải quản lý thủ công. 2) Các yếu tố chủ quan. Đây là các yếu tố có ảnh hưởng rõ rệt hơn so với các nhân tố khách quan. Vì thế, các yếu tố chủ quan này thường mang tính quyết định đối với việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở nước ta hiện nay. a) Cơ cấu, trình độ, năng lực quản lý thuế của các cơ quan quản lý thuế. Ø Về cơ cấu, hiện nay hệ thống quản lý thuế của nước ta được tổ chức như sau: Ở Trung ương có Tổng cục thuế thuộc Bộ tài chính. Bộ máy giúp việc cơ quan Tổng cục gồm các phòng chức năng và các phòng nghiệp vụ. Ở  các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các Cục thuế. Các Cục thuế chịu sự chỉ đạo song trùng của Tổng cục thuế và Uy ban nhân dân cùng cấp. Ở cấp quận, huyện và cấp tương đương có Chi cục thuế thuộc Cục thuế. Chi cục thuế chịu sự chỉ đạo song trùng của Cục thuế và Uy ban nhân dân cùng cấp. Như vậy, cơ cấu trên là hợp lí và tương đối chặt chẽ. Cơ cấu đó có tác động lớn tới việc thực thi thuế GTGT. Cụ thể, việc thống nhất hệ thống tổ chức bộ máy quản lý về thuế không những cho phép Nhà nước quản lý thống nhất chế độ thuế trong cả nước, mà còn tạo cơ sở về mặt tổ chức bảo đảm thực hiện thành công đường lối đổi mới và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực thuế. Ø Về trình độ, năng lực quản lý thuế của các cơ quan này. Rõ ràng, nếu trình độ, năng lực quản lý thuế cũng như đạo đức của cán bộ quản lý thuế tốt thì việc thực thi luật thuế GTGT sẽ đạt hiệu quả cao và ngược lại. Hiện nay, trình độ của các cán bộ quản lý thuế là tương đối tốt. Các hiện tượng gian lận thuế, trốn thuế GTGT hầu như không xuất phát từ nguyên nhân trình độ của cán bộ quản lý thuế, bởi lẽ thực thi thu thuế, khấu trừ, hoàn thuế và các nghiệp vụ khác của thuế GTGT đều căn cứ vào các giấy tờ và có sự hỗ trợ của thiết bị máy tính hiện đại. Tuy nhiên, việc thực thi luật thuế GTGT hiện nay vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Một phần là do chính đạo đức, tinh thần trách nhiệm của của những cán bộ này. Có những cơ quan thuế thiếu trách nhiệm, gây thất thu thuế cho nhà nước. Ví dụ, Cục Thuế Hà Nội thiếu trách nhiệm trong quản lý thuế làm thất thu thuế GTGT và thuế TNDN qua giá bán trong kinh doanh xe máy, ô tô từ năm 2005-2007 hơn 459 tỉ đồng. Trầm trọng hơn, còn xuất hiện hiện tượng cán bộ thuế thông đồng, giảm số thuế đi để cùng có lợi. Như vậy, việc thực thi luật thuế GTGT đã không hiệu quả. Ø Về cơ chế quản lý thuế Hiện nay, Nhà nước đang có công cuộc cải cách về cơ chế quản lý thuế. Cải cách này thể hiện ở cơ chế tự khai, tự nộp. Cơ chế tự khai, tự nộp là cơ chế quản lý thuế hiện đại, hiệu quả, được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng, nó cho phép các cơ quan thuế phân bổ nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa, chuyên sâu trong quản lý cải tiến các quy trình quản lý rõ ràng làm tăng sự minh bạch trong quản lý thuế, đồng thời giảm bớt chi phí quản lý, thúc đẩy cải cách hành chính thuế. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý thuế đã có nhiều cải cách khác. Nhờ cải cách trong công tác quản lý đó nên cũng đã tạo ra một môi trường quản lý nề nếp, văn minh, buộc cán bộ thuế, cơ quan thuế thay đổi phong cách tiếp xúc với người nộp thuế thông qua cách thức đón tiếp chu đáo, lịch sự, công khai, minh bạch, với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người nộp thuế. Ø Về công tác thu nợ và cưỡng chế thuế. Hiện nay, tình trạng nợ đọng thuế khá phổ biến, số nợ thuế gần như không giảm qua các năm. Cơ quan Thuế lại chưa có bộ phận chuyên trách thực hiện chức năng thu nợ tại các cục thuế, các cán bộ quản lý thu thực hiện nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc thu nợ cùng với các nhiệm vụ khác như hướng dẫn, hỗ trợ đối tượng nộp thuế, thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp. Công tác thu nợ chưa được thực hiện khoa học, chưa ứng dụng được tin học vào thu nợ và phân tích nợ. Việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế thực hiện chưa nghiêm do một số mức hình phạt chưa hợp lý, biện pháp xử lý chưa cương quyết, thiếu sự phối hợp giữa các ngành trong việc thực hiện xử lý, thủ tục còn phức tạp. Việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế chưa khả thì do thiếu sự phối kết hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật với cơ quan Thuế. Các trình tự, thủ tục về cưỡng chế chưa được quy định rõ ràng, cụ thể và chưa có quy định pháp lý về trách nhiệm của các bên có liên quan trong việcphối hợp với cơ quan Thuế trong việc thu nợ. Cán bộ thuế không đủ thẩm quyền, kiến thức và nghiệp vụ để tiến hành các biện pháp cưỡng chế. Ø Về các hoạt động tuyên truyền thực hiện các văn bản thuế nói chung và luật thuế GTGT nói riêng. Sáu tháng đầu năm 2009 ngành thế đã tổ chức 1.335 hội nghị, đối thoại với 14.453 DN, Doanh nhân, các cơ sở kinh doanh về thủ tục hành chính thuế và tinh thần, thái độ phục vụ của cán bộ thuế. Đã trả lời ngay tại Hội nghị 3.169/3.203 câu hỏi. Số còn lại nhưng vướng mắc về cơ chế chính sách đã được Tổng cục thuế nghiên cứu, giải quyết giứt điểm. Những vướng mắc đã được giải đáp kịp thời, do đó được dư luận xã hội và cộng đồng doanh nghiệp hoan nghênh. Tổng cục Thuế cũng đã mở trang website điện tử, xuất bản các loại ấn phẩm về thuế để tuyên truyền hướng dẫn về các nội dung chính sách thuế; thủ tục về thuế. Như vậy, các hoạt động này đã có ảnh hưởng tốt đối với việc thực thi các văn bản thuế nói chung và luật thuế GTGT nói riêng. Bởi lẽ, thông qua những hoạt động này, các vướng mắc của người nộp thuế được giải quyết, cơ quan quản lý thuế qua đó, cũng sẽ thấy được sự khả thi của luật thuế GTGT đang được triển khai trong đời sống, kịp thời khắc phục những hạn chế của thuế GTGT. Ø Về các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ việc quản lý thuế. Không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn. Một doanh nghiệp ở Cà Mau có thể mua bán với các doanh nghiệp ở Lạng Sơn, Gia Lai hoặc Bình Phước, và cũng có thể xuất khẩu thông qua nhiều cửa khẩu. Vì vậy, thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập khẩu phải được phối kiểm trên phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại một địa phương. Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế lại ngắn, nên cơ quan thuế không đủ sức thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên quan. Điều này dễ gây ra những sai sót không chủ ý và xảy ra những sai lệch khi hoàn thuế. Ngay công tác kiểm tra sau thông quan cũng khó mang lại kết quả tốt vì thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điện tử,... b) Ý thức chấp hành pháp luật thuế của người dân. Ý thức chấp hành pháp luật thuế của người dân là yếu tố có ảnh hưởng quyết định tới việc thực thi luật thuế GTGT. Ý thức chấp hành này thể hiện rõ rệt qua hành vi tự khai nộp thuế của các đối tượng kinh doanh. Các Doanh nghiệp ít khi vi phạm về thời gian quy định nộp tờ khai thuế GTGT mà chủ yếu vi phạm về cơ chế tự khai, tự nộp thuế. Nguyên nhân là do ý thức tự giác chấp hành pháp luật thuế của người dân Việt Nam còn kém. Nhiều người có tư tưởng, nộp đủ thuế là “khác người”, vậy nên, họ tìm mọi cách để gian lận, mà gian lận dễ dàng nhất là dùng hóa đơn chứng từ khống để nộp thuế và hoàn thuế GTGT. Chất lượng kê khai được thông qua việc thực hiện đúng theo biểu mẫu quy định, các chỉ tiêu kê khai phù hợp với thực tế phát sinh trong quan hệ mua, bán hàng hoá dịch vụ tại cơ sở kinh doanh. Hiện nay, hầu hết các cơ sở kinh doanh có quy mô vừa và lớn đang kê khai nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, nếu chất lượng kê khai thấp sẽ gây thất thu thuế cho NSNN là không nhỏ và dẫn đến không công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế. Ở đây, nếu doanh nghiệp muốn gian lận thuế GTGT, doanh nghiệp chỉ cần tìm cách ghi trên các hoá đơn mua hàng vào số tiền thật lớn, tương ứng số thuế thật nhiều và tìm cách làm cho giá trị hàng bán ra thật thấp để có số thuế tương ứng, hoặc lập hồ sơ hàng bán ra là xuất khẩu để có số thuế GTGT = 0. Khi đó doanh nghiệp sẽ được Nhà nước hoàn toàn bộ số thuế GTGT đầu vào. Thực tế vừa qua cho thấy, nhiều người lập doanh nghiệp để lập hồ sơ mua hàng khống, rồi lập hồ sơ xuất khẩu khống, để lập thủ tục hoàn thuế, lấy tiền của ngân sách quốc gia. Hiện nay, qua số liệu kê khai nộp thuế cho thấy, tỷ lệ giữa số thuế GTGT phát sinh âm trên số thuế GTGT phát sinh dương của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn lớn hơn so với doanh nghiệp nước ngoài; có nhiều doanh nghiệp liên tục không phát sinh số thuế GTGT phải nộp. Đối với doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường có số thuế GTGT phát sinh dương lớn hơn thuế GTGT phát sinh âm (thuế GTGT đầu ra lớn hơn thuế GTGT đầu vào); từ đó có số thuế GTGT nộp vào NSNN. Còn đối với lĩnh vực ngoài quốc doanh thì ngược lại; nhiều doanh nghiệp có quy mô kinh doanh khá lớn nhưng thuế GTGT đầu ra lại nhỏ hơn thuế GTGT đầu vào nên luôn tồn tại số thuế còn được khấu trừ.  Với thực trạng nêu trên đã nói lên phần nào chất lượng của công tác kê khai nộp thuế đối với DN thuộc lĩnh vực ngoài quốc doanh còn hạn chế Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể nói trước hết là từ công tác tổ chức bộ máy kế toán tại doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã có tổ chức bộ máy kế toán khá chặt chẽ, hạch toán và ghi sổ kế toán tương đối đúng quy định. Từ đó, kết quả kê khai, báo cáo tài chính trong khu vực kinh tế này cơ bản phản ánh đúng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh mặc dù đã thực hiện chế độ kế toán theo quy định nhưng tổ chức bộ máy kế toán phần lớn không rõ ràng; một kế toán có thể làm việc cho nhiều doanh nghiệp nên theo dõi hạch toán không đầy đủ và còn nhiều sai sót; thậm chí có doanh nghiệp hàng năm không có báo cáo tài chính. Một nguyên nhân khách quan là các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu cung cấp hàng hoá dịch vụ cho người kinh doanh nên đòi hỏi việc sử dụng hoá đơn chứng từ là chặt chẽ, đúng với thực tế giá cả. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thực hiện chức năng còn lại là cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng; trong khi người tiêu dùng lại không có thói quen yêu cầu người bán hàng cung cấp hoá đơn. Chính vì vậy, nhiều trường hợp doanh nghiệp cung cấp hàng hoá, dịch vụ không xuất hoá đơn hoặc có xuất hoá đơn nhưng phản ánh không đúng thực tế nên làm giảm đáng kể số thuế phải nộp. Như vậy, chất lượng công tác kê khai nộp thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ phụ thuộc rất nhiều vào tính trung thực, tự giác của doanh nghiệp. Trong việc hoàn thuế, những năm gần đây, số lượng các vụ kê khai khống hóa đơn GTGT để được hoàn thuế vẫn chưa chấm dứt. Ví dụ, ngày 28/3/2008, Phòng CSĐT tội phạm về TTQLKT & CV Công an TP Hồ Chí Minh đã hoàn tất điều tra vụ án, đề nghị Viện KSND TP Hồ Chí Minh truy tố Lê Minh can tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và Đặng Văn Lĩnh can tội "Lưu hành các giấy tờ có giá giả khác"…Mặc dù công ty không có hàng hóa để xuất khẩu, nhưng Lê Minh  - Giám đốc Công ty Mi Cô đã ký nhiều bộ tờ khai xuất khẩu hàng may mặc cho người khác sang nước ngoài và sử dụng nhiều hóa đơn GTGT khống của Công ty TNHH Tiến Thành, do Đặng Văn Lĩnh làm Giám đốc, chiếm đoạt hơn 313,4 triệu đồng. Hay vụ việc: Chiều ngày 11.8/2009, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về quản lý kinh tế và chức vụ (PC15), Công an TP Đà Nẵng cho biết vừa tiến hành lệnh bắt tạm giam nguyên Giám đốc chi nhánh Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam tại Đà Nẵng (Vinafor Đà Nẵng, trụ sở tại KCN Hòa Khánh), ông Nguyễn Tấn (52 tuổi, trú 41 Thủ Khoa Huân, P.An Hải Đông, Q.Sơn Trà, TP Đà Nẵng) vì hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền thuế GTGT với số tiền lên đến hàng tỉ đồng. II. Chiều hướng thay đổi các yếu tố trên để việc thực thi pháp luật Thuế GTGT đạt hiệu quả cao. Phương hướng chung. Muốn luật thuế GTGT thực thi đạt hiệu quả cao thì cần tận dụng các yếu tố khách quan và chủ quan trên một cách tích cực nhất. Sau đây là một số hướng khắc phục chung. Về các yếu tố khách quan Đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Đảm bảo tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng, áp dụng thuế thống nhất cho mọi đối tượng nộp thuế. Pháp luật thuế phải có tính hệ thống, đồng bộ, ổn định và đơn giản. Tương thích luật quốc tế, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Hệ thống luật thuế phải thực sự minh bạch, người dân có thể dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu chính sách thuế. Để áp dụng cơ chế quản ký thuế tiên tiến đòi hỏi đối tượng nộpthuế phải nắm chắc các quy định của luật thuế để tự mình kê khai, tính toán đúng số thuế phải nộp cho Nhà nước. Muốn vậy, các luật thuế phải đơn giản , dễ hiểu, minh bạch, từng quy định trong các luật thuế phải được rõ ràng, không mơ hồ, không làm cho người dân muốn hiểu thế nào cũng được. Về các yếu tố chủ quan Thứ nhất, khắc phục những tồn tại của Luật thuế GTGT hiện hành về mặt nội dung, làm cho Luật thuế GTGT phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội và định hướng của Nhà nước về phát triển kinh tế trong thời kỳ tới; đảm bảo mức động viên từ thuế và phí vào ngân sách nhà nước; góp phần làm cho hệ thống chính sách thuế của nước ta tương đồng với hệ thống thuế của các nước, phù hợp với thông lệ quốc tế.  Thứ hai, khắc phục Luật thuế GTGT về mặt kỹ thuật. Thuế GTGT phải thể hiện đơn giản, rõ ràng, trung lập, ổn định và công bằng, nâng cao hiệu quả công tác thu thuế theo xu hướng tiếp tục cải cách thủ tục hành chính về thuế, tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh.  Thứ ba, các thủ tục về thuế phải đơn giản để giúp các tổ chức, cá nhân dễ dàng hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước.Đồng thời cơ quan thuế phải luôn luôn thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế vì gian lận, trốn lậu thuế là một căn bệnh kinh niên tồn tại song song cùng với việc thu thuế của Nhà nước. Thứ tư, tạo điều kiện về cơ sở, vật chất, cũng như nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các cơ quan quản lý thuế. Tính thuế GTGT là công việc khổng lồ, đòi hỏi chuyên môn cao. Vì vậy, nâng cao trình độ cán bộ quản lý, thu thuế là điều tất yếu. Công tác này có mạnh có nghiêm thì mới tăngcường kỉ cương, phép tắc giúp hạn chế tốiđa những cán bộ thoái hoá, biếnchất. Còn những ngườiđã tốt, trong sạch thì cóđược môi trường “trong lành” để phát huy. Thứ năm, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của cơ quan chức năng trong việc kê khai, nộp thuế của các đối tượng nộp thuế để phát hiện kịp thời xử lý nghiêm minh những hành vi gian lận, trốn lận thuế.  Thứ sáu, khi áp dụng mô hình quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thì các chế tài pháp luật nghiêm minh là rất cần thiết, rất quan trọng trong bối cánh khả năng lợi dụng sự cho phép tự giác của Nhà nước để trốn lậu thuế là khá cao, nhất là đối với nước ta- một nước có trình độ phát triển chưa cao về mọi mặt. Thứ bảy, tích cực tuyên truyền, vận động để nâng cao ý thức tự nguyện, tự giá chấp hành các luật thuế GTGT của đối tượng nộp thuế. Vì đối tượng nộp thuế là người trực tiếp tính toán số thuế mà mình phải nộp cho ngân sách nhà nước, do đó đòi hỏi họ phải có một kiến thức cơ bản để hiểu được các quy định của luật thuế. Mặt khác, cơ chế tự khai, tự nôp đòi hỏi sự tự giác cao của đối tượng nộp thuế do vậy mà người dân cần phải có ý thức tuân thủ pháp luật tốt. để đạt được điều kiện này thì cơ quan quản lý thuế phải đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến các chính sách thuế. Thứ tám, gáo dục người dân – đối tượng chịu thuế - nhận thức được tầm quan trọng của hoá đơn khi đi mua sắm: người tiêu dùng cần phải lấy hoá đơn khi mua sắm bất kỳ hàng hoá nào nhằm tránh những hành động gian lận về thuế, giúp nhà nước thu đủ số thuế. Một số phương hướng cụ thể. Thứ nhất, chống hiện tượng gian lận thuế bằng cách kê khai có tính chất khó xác minh sự thật và ý thức nộp thuế của người dân cần có công tác tuyên truyền của Nhà nước. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và ý thức nộp thuế của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ( GTGT ) ở Việt Nam hiện nay và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực th.doc
Tài liệu liên quan