Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Trang

1. Khái quát chung về thuế nhập khẩu

1.1. Khái niệm, đặc điểm của thuế nhập khẩu 1

1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu 3

2. Khái quát chung về pháp luật thuế nhập khẩu 5

3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay 6

4. Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian gần đây 11

5. Một số đề xuât nhằm hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam hiện nay

5.1. Những định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu 12

5.2. Một số đề xuất hoàn thiện 13

 

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3616 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ặc chuyển ra khỏi biên giới của một nước. Trong xã hội hiện đại ngày nay, xuất hiện ngày càng nhiều loại hàng hóa vô hình được chuyển vào hoặc đưa ra khỏi biên giới một nước nhưng không phải bằng phương thức thông thường mà cơ quan Hải quan có thể kiểm soát được. Ví dụ điển hình cho những loại hàng hóa này chính là những sản phẩm phần mềm công nghệ thông tin được giao dịch hàng ngày qua mạng máy tính toàn cầu (Internet). Ngoài ra, điểm rất đáng được lưu ý là những “dịch vụ” tuy cũng được xuất khẩu, nhập khẩu trên thực tế giữa các quốc gia nhưng hầu như pháp luật về thuế của các nước đều không đó là một phần trong đối tượng chịu thuế nhập khẩu. Có lẽ điều này xuất phát từ sự khó khăn của các cơ quan công quyền trong việc kiểm soát hành vi xuất, nhập khẩu “dịch vụ”. Thứ hai, thuế nhập khẩu về bản chất là thuế gián thu, tuy nhiên, tính gián thu chỉ có ý tương đối. Điều này thể hiện ở chỗ, khi một nhà nhập khẩu nộp thuế nhập khẩu và tự tiêu dùng số hàng hóa nhập khẩu đó chứ không bán ra bên ngoài thì khi đó khoản thuế nhập khẩu đã nộp có tính chất là thuế trực thu vì chính người nhập khẩu vừa là người nộp thuế đồng thời là người chịu thuế. Ngược lại, khi nhà nhập khẩu đã nộp thuế nhập khẩu và bán lại số hàng hóa đó cho người khác thì số tiền thuế nhập khẩu đã nộp chuyển sang cho người mua hàng chịu và khi đó, khoản thuế nhập khẩu này lại có tính chất là thuế gián thu, vì người nộp thuế và người chịu thuế không phải là một. Sở dĩ có điều này là vì theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 và Luật hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 thì không có sự phân biệt tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa có mục đích kinh doanh và không kinh doanh. Thứ ba, thuế nhập khẩu gắn liền với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia trong cùng thời kỳ bởi hoạt động ngoại thương là một trong những hình thức hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại mà thuế nhập khẩu là công cụ góp phần thực hiện vai trò quản lý, kiểm soát hoạt động ngoại thương của Nhà nước. Việc tác động bằng thuế nhập khẩu vào hàng hóa nhập khẩu không chỉ để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn thể hiện cả những chủ trương, chính sách đối ngoại của nhà nước đó. Thứ tư, thuế nhập khẩu được quản lý thu bởi cơ quan chuyên trách là cơ quan Hải quan. Thứ năm, thuế nhập khẩu bị chi phối bởi nhiều yếu tố đặc biết là yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia. Vai trò của thuế nhập khẩu Thuế nhập khẩu là một công cụ quan trọng và cần thiết của mỗi nhà nước để thực hiện các mục tiêu sau: Thứ nhất, thuế nhập khẩu tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Cũng giống như bất kỳ loại thuế nào, thuế nhập khẩu có chức năng tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Ở nước ta, trong những năm đầu của thập kỷ 90, do Nhà nước có chính sách mở rộng hoạt động ngoại thương nên đã thúc đẩy các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa phát triển. Theo đó, số thu về thuế suất, nhập khẩu cũng tăng nhanh, chiếm tỷ trọng đáng kể (từ 25% đến 30%) trong tổng số thu về thuế và trở thành khoản thu quan trọng của ngân sách Nhà nước. Những năm gần đây, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại, Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế nhưng thuế nhập khẩu vẫn là nguồn động viên một phần quan trọng cho ngân sách Nhà nước. Thứ hai, thuế nhập khẩu là công cụ điều tiết hoạt động ngoại thương, hướng dẫn tiêu dùng xã hội. Thuế nhập khẩu là thuế gián thu, việc đánh thuế nhập khẩu cao hay thấp nó ảnh hưởng đến giá cả, từ giá cả ảnh hưởng đến sức mua, qua đó nhà nước điều tiết hoạt động ngoại thương và hướng dẫn tiêu dùng xã hội. Chẳng hạn, Nhà nước muốn giảm bớt nhập khẩu các hàng hóa mà nhà nước không khuyến khích vì ảnh hưởng tới đời sống, môi trường, đạo đức xã hội (ví dụ như rượu bia, thuốc lá, ô tô…), Nhà nước sẽ đánh thuế nhập khẩu cao vào hàng hóa này dẫn đến giá bán của hàng hóa đó cao, người tiêu dùng không dễ dàng thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình nên hạn chế tiêu dùng, sức mua của hàng hóa đó giảm xuống. Như vậy buộc nhà nhập khẩu hàng hóa đó hạn chế nhập khẩu vì nhập khẩu nhiều sẽ không tiêu thụ được. Thứ ba, thuế nhập khẩu là công cụ hỗ trợ và bảo hộ nền sản xuất trong nước. Thông qua thuế nhập khẩu, nhà nước gián tiếp tác động vào việc điều tiết sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu đánh thuế ở mức khác nhau đối với từng loại hàng hóa nhập khẩu, từ đó điều chỉnh khả năng cạnh tranh của hàng hóa chịu thuế trên thị trường và từ đó tạo ra sự phân bổ lại nguồn lực trong các ngành sản xuất. Điều đó thể hiện như sau: Khi một ngành sản xuất được nhà nước chú trọng đầu tư phát triển thì chính sách thuế nhập khẩu dành cho nguyên liệu, máy móc, trang thiết bị sản xuất phải nhập khẩu từ nước ngoài sẽ thấp trong khi thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa tiêu dùng lại cao hơn. So với các loại thuế nội địa khác như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập cá nhân… thì thuế nhập khẩu có vai trò khá đặc thù, đó là bảo hộ nền sản xuất trong nước, góp phần tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước với hàng hóa ngoại nhập. Điều này xuất phát từ đặc trưng cơ bản của thuế nhập khẩu là đánh vào các hàng hóa nhập khẩu và sau đó được cấu thành trong giá cả của hàng hóa đó. Vai trò này của thuế nhập khẩu được thể hiện như sau: Đối với hàng hóa nhập khẩu, do bị đánh thuế nhập khẩu nên về lý thuyết, giá cả của loại hàng hóa này trên thị trường nước nhập khẩu sẽ tăng lên, trong khi đó các hàng hóa được sản xuất trong nước do không phải chịu thuế nhập khẩu nên giá thành sản phẩm của loại hàng hóa này có xu hướng rẻ hơn và do đó có sức cạnh tranh cao hơn so với hàng hóa ngoại nhập. Điều này cho thấy việc đánh thuế nhập khẩu thực chất là một biện pháp để bảo hộ nền sản xuất trong nước, khi Chính phủ nhận thấy những bất lợi nghiên về phía các hàng hóa được sản xuất từ các doanh nghiệp trong nước. Đối với nước ta có một số ngành công nghiệp non trẻ cần được đầu tư, về lâu dài nó có khả năng sinh lợi và phát triển cần được sự bảo hộ trong khoảng thời gian nhất định. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho nó phát triển đồng thời có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho nó phát triển đồng thời có chính sách thuế quan có tính bảo hộ hợp lý ngành sản xuất trong nước đó theo tinh thần bảo hộ có chọn lọc – có điều kiện và có thời hạn, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Ngoài ra, thuế nhập khẩu còn là cơ sở cho việc đàm phán trong thương mại quốc tế. Đối với những nước kinh tế phát triển, thuế nhập khẩu còn có mục tiêu chính trị: áp dụng chính sách thuế quan ưu đãi với một số quốc gia thân thiện hoặc sử dụng nó như biện pháp trả đũa trong chính sách đối ngoại hoặc gây sức ép chính trị với quốc gia khác. Khái quát chung về pháp luật thuế nhập khẩu Pháp luật về thuế nhập khẩu dùng để chỉ tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lý các vi phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu, phát sinh giữa Nhà nước với người nộp thuế. Xét vè phương diện hình thức, pháp luật về thuế nhập khẩu bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật như văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội, nghị định và nghị quyết của Chính phủ, quyết định và chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, quyết định, thông tư và chỉ thị của các bộ… Còn xét trên phương diện nội dung, pháp luật về thuế nhập khẩu lại bao hàm các vấn đề chủ yếu như phạm vi áp dụng (được thể hiện qua các quy định về chủ thể nộp thuế và đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu nộp thuế nhập khẩu), căn cứ tính thuế nhập khẩu, chế độ miễn giảm thuế nhập khẩu và hoàn thuế nhập khẩu, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về thuế nhập khẩu. Ngày nay, trong bối cảnh tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu hướng toàn cầu thì việc hình thành, thực hiện các điều ước quốc tế có liên quan đến thuế nhập khẩu là điều tất yếu. Do đó, nội hàm của khái niệm thuế nhập khẩu không chỉ quy định trong pháp luật quốc gia mà còn bao hàm cả quy định trong pháp luật quốc tế có liên quan trực tiếp đến thuế nhập khẩu như Hiệp định CEPT (Common Effective Preferential Tariff – Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung), Hiệp đinh thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Hiệp định WTO… Nguồn của pháp luật thuế nhập khẩu còn là các điều ước song phương hoặc đa phương khác mà quốc gia tham gia hoặc ký kết. Những hiệp định này sau khi có hiệu lực sẽ được áp dụng trực tiếp ngay cho các quan hệ về thuế nhập khẩu giữa Nhà nước và người nộp thuế hoặc được “nội luật hóa” tại các nước thành viên hiệp định để áp dụng một cách hiệu quả. Như vậy, nội hàm của khái niệm “pháp luật về thuế nhập khẩu” phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm không chỉ các quy định trong pháp luật quốc gia mà còn bao gồm cả các quy định trong pháp luật quốc tế về thuế nhập khẩu. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay Trong điều kiện Việt Nam đang ở trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế theo xu hướng chung của thế giới thì pháp luật thuế nhập khẩu bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là bị chi phối của các quan hệ kinh tế. Trong rất nhiều yếu tố chi phối đến pháp luật thuế nhập khẩu thì có một số yếu tố cơ bản sau: Thứ nhất, chính sách phát triển kinh tế của nhà nước. Chính sách kinh tế của một quốc gia là sự điều hành của nhà nước đối với nền kinh tế của một quốc gia. Chính sách kinh tế thực chất thể hiện thái độ, quan điểm của nhà nước đối với các quan hệ kinh tế và được thể hiện thông qua hệ thống pháp luật. Pháp luật thuế nhập khẩu nằm trong hệ thống các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế của quốc gia nên khi hệ thống này có sự thay đổi thì bản thân pháp luật thuế nhập khẩu cũng có sự thay đổi để phù hợp với toàn bộ hệ thống. Điều này thể hiện rõ nhất khi có sự thay đổi trong chính sách kinh tế đối ngoại. Pháp luật thuế nhập khẩu thể hiện chính sách thương mại quốc tế của quốc gia. Chính sách thương mại gồm hai dạng điển hình là chính sách tự do hóa thương mại và chính sách bảo hộ mậu dịch. Hai xu hướng này tuy về mặt lý thuyết chúng trái ngược nhau nhưng trên thực tế chúng lại tồn tại song song với nhau. Chính sách tự do hóa thương mại nhằm thúc đẩy khả năng cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa ngoại nhập thông qua việc cắt giảm thuế xuất khẩu hoặc các biện pháp khuyến khích khác để thúc đẩy xuất khẩu, xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế nhập khẩu để hàng hóa nước ngoài tràn vào nhằm mở rộng thị trường nội địa, đặc biệt là hàng hóa nước mình sản xuất với chi phí cao. Đây là quá trình giảm bớt sự can thiệp mang tính chất bảo hộ của nhà nước vào hoạt động thương mại, theo đó vai trò của nhà nước chỉ nên giới hạn ở việc tạo ra môi trường phù hợp cho các quan hệ thương mại. Chính sách bảo hộ mậu dich lại bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài bằng cách áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu. Pháp luật thuế nhập khẩu có chức năng đặc thù là bảo hộ nền sản xuất trong nước, chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước và hàng hóa nước ngoài. Nhưng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới thì pháp luật thuế nhập khẩu cũng phải theo xu hướng giảm dần mức thuế suất. Như vậy, pháp luật thuế nhập khẩu luôn bị ảnh hưởng của chính sách thương mại quốc tế trong quá trình hội nhập. Thứ hai, những yêu cầu và cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Về mặt hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế biểu hiện ở việc các quốc gia tham gia ngày càng sâu rộng vào các liên minh kinh tế quốc tế thông qua các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương. Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc phải đáp ứng và thực thi các điều ước quốc tế mà quốc gia là một bên ký kết hoặc tham gia. Những thỏa thuận và cam kể trong khuôn khổ các hiệp định này hình thành nên những khung pháp lý định hướng cho quá trình hoạch định chính sách và xây dựng hệ thống pháp luật ở mỗi quốc gia thành viên. Luật thuế nhập khẩu là một bộ phận của hệ thống pháp luật quốc gia, nó phản ánh rõ nhất mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia đó và vì vậy nó chịu sự tác động và chi phôi mạnh mẽ của các điều ước quốc tế. Trên thực tế, để đáp ứng yêu cầu hội nhập, pháp luật thuế nhập khẩu ở mỗi nước được xây dựng và hoàn thiện theo hai hướng cơ bản: Một là, chuyển hóa các cam kết quốc tế thành các quy định pháp luật trong nước bằng cách đưa vào luật những quy định mới hoặc sửa đổi, điều chỉnh những quy định đã có cho tương thích với các quy định của điều ước quốc tế mà quốc gia đó đã hoặc sẽ tham gia. Hai là, thừa nhận các quy định quốc tế để áp dụng vào đó sửa đổi luật pháp cho phù hợp với các quy định quốc tế. Đây chính là giải pháp “nội luật hóa” các điều ước quốc tế. Đối với Việt Nam, những thay đổi lớn lao và quan trọng trong chính sách thuế nhập khẩu thực sự đã được khởi động từ năm 1998 (thực hiện cam kết giảm thuế theo quy định của AFTA). Ngày 7/11/2006, Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) và trở thành thành viên chính thức của WTO từ ngày 11/1/2007. Trước khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam đã tiến hành cải cách hệ thống pháp luật như ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005, Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005… để tương thích với các quy chế của WTO. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật bổ sung, hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật thời hậu WTO. Thứ ba, thực trạng kinh tế - xã hội của quốc gia. Pháp luật bao giờ cũng là sự phản ánh dưới hình thức pháp lý các quan hệ xã hội, một sự phản ánh lệ thuộc vào những biến đổi xã hội. Để phát huy được vai trò, tác dụng của mình trong đời sống xã hội, pháp luât luôn phản ánh đúng, đầy đủ hiện thực khách quan, những tiến trình đang diễn ra trong cuộc sống xã hội. Nếu không có những khảo sát, đánh giá từ thực tiễn cuộc sống thì không thể có cơ sở khoa học và thực tiễn xác đáng để xây dựng và thực hiện pháp luật không phát huy được vai trò của nó trong cuộc sống. Đối với pháp luật thuế nhập khẩu có mục tiêu quan trọng là công cụ khuyến khích hỗ trợ bảo vệ nền sản xuất trong nước, việc ban hành, sửa đổi, bổ sung bộ phận pháp luật này cần thiết căn cứ thực trạng phát triển của nền sản xuất trong nước, sức cạnh tranh của hàng hóa nước mình trên thị trường quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, các quốc gia phải cam kết giảm thuế quan theo lộ trình nhất định. Vì vậy, mỗi quốc gia cần phải nghiên cứu, đánh giá những lợi thế so sánh trong từng ngành hàng cụ thể để xác định những ngành hàng sản xuất nào cần được bảo hộ, mức độ bảo hộ và thời hạn bảo hộ… Đối với hàng hóa có uy tín trên trường quốc tế có khả năng cạnh tranh cao thì không cần sự bảo hộ mà lấy đó làm cơ sở cho việc đàm phán về thuế quan với các quốc gia khác… Qua đó có những cơ sở cho việc đàm phán thương mại và quy định mức thuế đối với từng nhóm hàng hóa nhập khẩu trong pháp luật thuế nhập khẩu của mình. Từ thực trạng hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa để phát hiện ra hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế và tác động cụ thể của nó đối với nền kinh tế quốc gia, để từ đó ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật thuế nhập khẩu nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia mình trong khuôn khổ cho phép. Thứ tư, nhu cầu thu ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước được hình thành để Nhà nước thực hiện việc điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội, đồng thời tạo ra các hàng hóa, dịch vụ công cộng phục vụ cho người dân. Thuế, trong đó có thuế nhập khẩu, là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Thuế nhập khẩu tuy có chức năng chính là bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài nhưng đối với Việt Nam – một nước đang phát triển thì thuế nhập khẩu là một nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Những số liệu về tỉ trọng của số thu hải quan so với tổng thu ngân sách nhà nước những năm qua đã thể hiện rõ điều đó (từ năm 2000 đến năm 2005 số thu hải quan luôn chiếm tới hơn 20% trong tổng thu ngân sách nhà nước). Khi hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ký kết và thực hiện các cam kết về thương mại quốc tế, trong đó có những cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu. Việc cắt giảm này cũng gây ra những tác động đến nguồn thu ngân sách nhà nước. Khi thuế nhập khẩu bị cắt giảm, giá cả một số mặt hàng như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu nhập từ nước ngoài cũng giảm theo. Từ đó, những sản phẩm sản xuất trong nước cũng tăng lên về sản lượng và giảm giá thành. Việc hàng hóa trong nước tăng về số lượng và giảm về giá thành sẽ thúc đẩy nhu cầu mua sắm, tiêu dùng trong nước và làm tăng thu ngân sách nhà nước từ các loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp… Mặt khác, khi Việt Nam thực hiện các cam kết thương mại quốc tế thì những nước thành viên khác cũng phải cắt giảm thuế quan. Điều này sẽ kích thích các doanh nghiệp trong nước tăng lượng hàng xuất khẩu và từ đó sẽ tăng thu ngân sách từ các hoạt động xuất khẩu đó. Như vậy, việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước và tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên việc giảm thuế nhập khẩu cũng làm cho nguồn hàng nhập khẩu trở nên dồi dào với giá thành thấp, từ đó đặt hàng hóa trong nước vào tình thế phải cạnh tranh khốc liệt với hàng hóa ngoại nhập. Các doanh nghiệp trong nước sẽ phải tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lương đồng thời hạ giá thành sản phẩm nếu như không muốn bị loại ra khỏi cuộc chơi. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu cũng làm giảm đi một nguồn thu khá quan trọng của ngân sách nhà nước và cũng giảm đi một phần thu từ các loại thuế khác liên quan đến nhập khẩu như thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt… Như vậy, việc cắt giảm thuế nhập khẩu vừa làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước từ hàng nhập khẩu nhưng đồng thời lại làm tăng nguồn thu tương ứng cho ngân sách nhà nước từ các loại thuế khác. Số thu ngân sách nhà nước sẽ không thay đổi nhiều nếu như Việt Nam thực hiện các cam kết thương mại quốc tế. Tuy nhiên sẽ có sự thay đổi trong cơ cấu thu ngân sách nhà nước. Vì vậy, khi tiến hành xây dựng chính sách pháp luật thuế nhập khẩu thì phải tính đến nhu cầu thu ngân sách nhà nước để bảo đảm cho ngân sách quốc gia có được nguồn thi ổn định lành mạnh. Thứ năm, trình độ năng lực quản lý của bộ máy quản lý thu thuế nhập khẩu. Pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế nhập khẩu nói riêng ban hành phải được tổ chức thực hiện nghiêm túc trên thực tiễn. Nếu pháp luật thuế quá phức tạp vượt quá trình độ quản lý của bộ máy hành thu thì sẽ dẫn đến tình trạng thất thu, lạm thu hoặc pháp luật thuế đó không được thực thi đầy đủ trong thực tế. Bởi vậy, khi ban hành pháp luật về chính sách thuế, quản lý thuế phải tính đến yếu tố này nhằm bảo đảm sự phù hợp và tính khả thi của nó trong thực tiễn. Trong những năm vừa qua nhà nước nước ta đã chăm lo nhiều đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, phẩm chất đạo đức, tác phong cho đội ngũ cán bộ quản lý thuế; tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý thuế, đổi mới cơ cáu tổ chức ngành thuế cho phù hợp, đổi mới cải cách thủ tục hành chính… Nói chung, Nhà nước thực hiện các giải pháp nâng cao trình độ năng lực quản lý của cả bộ máy quản lý thuế để tiến đến việc ban hành các quy định mới trong pháp luật thuế như quản lý thuế thực hiện theo cơ chế tự khai, tự nộp; quản lý thuế trên cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ… thực hiện quản lý thuế hiện đại theo chuẩn mực chung của quốc tế. Nếu Việt Nam không chú trọng đến công tác nâng cao trình độ năng lực quản lý thuế của bộ máy hành thu thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong quản lý thuế nhập khẩu, đặc biệt là trong việc quản lý giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu hiện nay. Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt nam trong thời gian gần đây Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày 14/5/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 về cơ bản đã xây dựng được một hành lang pháp lý phù hợp với những quy tắc và định chế của pháp luật trong thương mại quốc tế, ngày một hoàn thiện các cam kết pháp lý với WTO, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế trong và người nước cũng như vấn đề đối ngoại. Luật đã có những điểm mới trong quy định về đối tượng không chịu thuế và miễn thuế, giá trị hải quan, kiểm tra hải quan. Chính điều này đã tạo ra môi trường bình đẳng cho các loại hàng hóa nhập khẩu vào nước ta. Tuy nhiên sau 2 năm thực hiện, Bộ luật cũng đã thể hiện một số điểm bất cập như sau: Có nhiều quy định còn chưa thống nhất và gây khó hiểu như: quy định “Thuế suất thông thường được quy định không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng do Chính phủ quy định”. Điều này làm cho người đọc dễ hiểu là thuế suất thông thường chỉ nhỏ hơn hoặc bằng 70% thuế suất ưu đãi. Nhưng cũng có thể hiểu là: có thể áp dụng mức thuế suất trong khoảng 100%-170% so với thuế suất ưu đãi của hàng hóa tương ứng. Hơn nữa, theo Nghị định 149/2005/NĐ-CP, mức thuế suất này lại là 150%. Chính từ sự thiếu đồng bộ và minh bạch này đã gây ra không ít cản trở trong quá trình thực thi pháp luật thuế nhập khẩu. Những quy định của pháp luật thuế nhập khẩu còn chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Như quy định tại Điều 15 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 đã đề ra những thời hạn nộp thuế rõ ràng trong khi khoản 1 Điều 28 Luật hả quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 lại quy định về kiểm tra, đăng ký hồ sơ hải quan lấy tiêu chí ý thức chấp hành tốt luật này là chính. Khi thực hiện thu thuế sẽ gây những chồng chéo nhất định cho cả chủ thể nộp thuế và cơ quan quản lý thuế. Trong khi Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 đặt ra những điều kiện đối với những đối tượng hàng hóa nhập khẩu (Điều 15) thì Nghị định số 149/2005/NĐ-CP (Điều 14) và Thông tư số 113/2005/TT-BTC (mục III, phần C) lại lấy tiêu chí sự tuân thủ của chủ thể nộp thuế là chính. Chỉ tính từ năm 2005 đến nay, do biến động của thị trường thế giới và trong nước, biểu thuế nhập khẩu đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần trong đó riêng mặt hàng xăng dầu nhập khẩu thuộc nhóm 2170 đã có 14 lần sửa đổi mức thuế suất. Tính trong khoảng nửa đầu năm 2007, mặt hàng sữa bột nhập khẩu cũng thay đổi 4 lần thuế suất thuế nhập khẩu. Theo nhận định của các đổi tác nước ngoài, việc thường xuyên thay đổi biểu thuế suất thuế nhập khẩu sẽ làm cho chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam không minh bạch theo quy định của WTO. Hiện nay, biểu thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam còn phức tạp. Đặt trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO, việc tồn tại hai biểu thuế nhập khẩu khác nhau với mức chênh lệch nhiều (AFTA và MFN áp dụng chung) có thể gây khó khăn trong việc quản lý hàng hóa và thuế nhập khẩu giữa hai khu vực này. Nếu thuế suất áp dụng đối với các nước ngoài khu vực (thành viên khác của WTO) vẫn duy trì khoảng cách với ASEAN quá nhiều sẽ tạo nên sự chệch hướng thương mại, đồng thời là giảm thu ngân sách từ thuế nhập khẩu. Hơn nữa, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 hiện nay chỉ mang tính chất luật khung, quy định những điểm cơ bản và tổng quát nhất về hoạt động thu nộp thu nộp thuế nhập khẩu còn những vấn đề quan trọng và nhạy cảm như thuế suất, giá tính thuế… lại được quy định chi tiết trong các văn bản dưới luật với giá trị pháp lý chưa cao, thiếu tính ổn định. Từ sự thiếu đồng bộ và tính thống nhất, ổn định của hệ thống pháp luật sẽ dễ dẫn đến tâm lý lo lắng của các doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư vào thị trường Việt Nam. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam hiện nay Những định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu Trước thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng luật thuế nhập khẩu như trên, yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu là một yêu cầu cấp thiết nhằm đáp ứng những đòi hỏi chặt chẽ của tiến trình thực thi cam kết WTO, đưa Việt Nam lên một vị thế mới trên trường quốc tế. Vấn đề này về cơ bản phải dựa trên các định hướng sau: Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu cần phải quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, phải chủ động tích cực hội nhập để phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đầy đủ cam kết của mình trong tiến trình hội nhập. Thứ hai, trong điều kiện thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, chức năng bảo hộ của thuế nhập khẩu cần được điều chỉnh lại cho phù hợp, thuế nhập khẩu cần được sửa đổi theo hướng bảo vệ, hỗ trợ những ngành sản xuất có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Chính sách thuế nhập khẩu phải góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu, định hướng phát triển các ngành kinh tế phù hợp với mục tiêu đã đề ra. Không thực hiện chính sách bảo hộ tràn lan đối với tất cả các ngành kinh tế, chỉ thực hiện sự bảo hộ một cách có chọn lọc, có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBai tap lon hoc ky.doc
  • docMo bai Ket bai.doc
  • docMuc luc.doc
  • docTai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan