Ý thức của các nhà nhập khẩu chưa cao
Có thể nói đây là yếu tố gây ảnh hưởng lớn nhất tới việc thực thi luật TNK. Quy định của pháp luật hiện hành rất coi trọng sự tự giác của các nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, có thể nói quy định này chưa thực sự phù hợp. Các nhà nhập khẩu luôn hướng tới lợi nhuận tối đa cho bản thân. Từ đó, luôn tìm cách “lách luật” nhằm trốn thuế, gây thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước. Mục đích của việc thực thi luật thuế nhập khẩu không đạt đươc.
Dưới đây, xin đề cập tới một số cách thức mà các nhà nhập khẩu sử dụng để trốn thuế - những hành vi trái pháp luật, là yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến việc đưa luật thuế nhập khẩu vào thực tiễn, thực thi hết vai trò mà các nhà làm luật đã kỳ vọng khi xây dựng lên nó.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3199 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, hiệp định…)
2.2, Thực tiến áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu Việt Nam
Luật TXK,TNK đầu tiên của Việt Nam được ban hành năm 1991 (được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1993 và 1998). Tuy nhiên, luật này đã bộc lộ nhiều bất cập, quy định không hợp lý dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật thuế, gây thất thu lớn cho ngân sách và ảnh hưởng đến sản xuất trong nước.
Để khắc phục, Luật TXK,TNK 2005 đã ra đời. Bên cạnh đó là hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Đạo luật này đã khắc phục được nhiều bấp cập của Luật TXK,TNK 1991. Trong quá trình thực thi từ 1/1/2006 đến nay, đạo luật này đã thể hiện nhiều ưu điểm, song vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
2.2.1, Thành tựu đạt được
Luật TXK,TNK 2005 ra đời đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho việc thực hiện các chính sách thuế, góp phần thúc đẩy hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Trong điều kiện quốc tế hóa nền kinh tế, Việt Nam gia nhập WTO, chính sách về TNK ngày càng được mở rộng, mức độ mở cửa thị trường ngày càng cao đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước phải thúc đẩy sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu.
Pháp luật TNK đã phản ảnh chủ trương mở rộng kinh tế quốc tế, mở rộng ngoại giao của nước ta. Việc xóa bỏ hàng rào thuế quan, có các ưu đãi thuế quan, xác định giá tính thuế phù hợp với pháp luật quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Từ đó, thúc đẩy quan hệ ngoại giao với các quốc gia liên quan.
Nguồn thu từ TNK là một nguồn thu ổn định của ngân sách nhà nước. Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan, tính từ 1/1/2011 đến 31/3/2111, thu ngân sách nhà nước của ngành hải quan ước đạt 44.000 tỷ đồng, tăng khoảng 12,6% so với cùng kỳ năm trước.
Luật TXK,TNK 2005 ra đời đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao sự minh bạch trong hoạt động hải quan, theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Như vậy, Luật TXK,TNK 2005 nói chung là TNK nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
2.2.2, Những hạn chế còn tồn tại
Mặc dù đã rút kinh nghiệm từ Luật TXK,TNK 1991, song, trong quá trình áp dụng, Luật TXK,TNK 2005 vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Đặc biệt là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO 1/2007. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, rườm rà và còn chưa thống nhất với các cam kết quốc tế; cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn… đã khiến cho việc thực thi pháp luật trở nên khó khăn, tạo kẽ hở cho các nhà nhập khẩu trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Theo thống kê của ngành hải quan, trong năm 2009, có gần 1000 doanh nghiệp trốn thuế, số tiền nợ đọng thuế lên tới hơn 3000 tỷ đồng. Sau khi phân loại, khoảng 2500 tỷ đồng được xếp vào loại nợ khó đòi…
II, NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU
1, Những yếu tố tích cực
Thứ nhất, những quy định của luật mới đã tạo ra một cơ sở pháp lý thống nhất về thu TXK,TNK nói chung và TNK nói riêng. Trên tinh thần hội nhập và hoàn thiện quy định của pháp luật, Luật TXK,TNK hiện hành tỏ ra minh bạch và hiệu quả hơn những luật thuế trước đây. Theo đó, luật đã có những quy định phù hợp với Luật Hải quan như quy định về trị giá hải quan, kiểm tra hải quan. Luật đã quy định mở rộng hơn về đối tượng không chịu thuế và miến thuế, phát huy tinh thần tích cực và chủ động của các chủ thể nộp thuế, tạo môi trường bình đẳng cho các loại hàng hóa nhập khẩu vào nước ta… Sự thống nhất của hệ thống pháp luật, hợp lý với hoàn cảnh thực tế chính là điều kiện cố yếu để pháp luật thuế nhập khẩu nói riêng và pháp luật nói chung được thực thi một cách hiệu quả.
Thứ hai, chúng ta đã áp dụng những phương pháp mới trong việc thực hiện hoạt động nhập khẩu. Hiện nay, chúng ta đang triển khai mô hình thực hiện hải quan điện tử theo Quyết định 103/2009/QĐ-TTg, Thông tư 222/2009/TT-BTC. Mô hình này đã đạt được những thành tựu nhất định. Đối với 13 cục hải quan tỉnh, thành phố, số doanh nghiệp tham gia thủ tục hải quan điện tử đã đạt 43.168 doanh nghiệp; số tờ khai thực hiện thủ tục hải quan điện tử đạt 1,58 triệu tờ khai, chiếm tỷ lệ 70%; kim ngạch thực hiện hải quan điện tử đạt 116,7 tỷ USD, chiếm tỷ lệ 70,3%
. Hải quan điện tử mang lại nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp như giảm chi phí thủ tục, thời gian…, giảm việc sách nhiễu, tiêu cực.
Số chi cục thực hiện hải quan điện tử cũng đã đạt 80 chi cục, chiếm tỷ lệ 95%. Ngày 23/3/2011, Văn phòng Chính phủ ban hành công văn số 1757/VPCP-KTTH về việc mở rộng thí điểm thủ tục hải quan điện tử, theo đó đồng ý mở rộng thực hiện hải quan điện tử cho 7 đơn vị mới. Việc này giúp cho hoạt động kiểm tra, giám sát nhập khẩu được dễ dàng, thuận tiện hơn, giúp cho pháp luật thuế nhập khẩu có thể được thực hiện một cách triệt để hơn.
2, Những yếu tố tiêu cực
2.1, Hệ thống văn bản pháp luật chưa đầy đủ, quy định không thống nhất, nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau
- Thứ nhất, hệ thống pháp luật còn chưa đầy đủ. Hiện nay, hoạt động thương mại ngày càng được mở rộng, mức độ cạnh tranh ngày càng cao, hàng hóa được nhập khẩu vào nước ta từ nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau với giá cả cạnh tranh. Luật TXK,TNK đã quy định các biện pháp về thuế bổ sung như thuế chống bán phá giá, thuế tự vệ, thuế chống trợ cấp và thuế chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa nhằm bảo vệ doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, trên thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới ban hành ba pháp lệnh: Pháp lệnh thuế tự về năm 2002, Pháp lệnh thuế chống bán phá giá năm 2004 và Pháp lệnh thuế chống trợ cấp năm 2004. Tuy nhiên, đến nay, mới chỉ có một nghị định hướng dẫn cho thuế chống bán phá giá. Riêng thuế chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa chưa có một văn bản nào quy định cụ thể mà mới chỉ tồn tại trong Luật TXK,TNK.
Việc thiếu sót những văn bản quy định cụ thể, văn bản hướng dẫn như vậy gây nên rất nhiều khó khăn trong quá trình thực thi pháp luật TNK nói riêng và Luật TXK,TNK nói chung. Điều này còn tạo ra bất lợi lớn trong quá trình bảo hộ hợp lý các ngành sản xuất trong nước.
- Thứ hai, một số quy định của pháp luật chưa thực sự phù hợp với các hiệp định của WTO, do đó, tính thực tiễn của các quy định này là không cao. Trong điều kiện nước ta đã gia nhập WTO, ngày càng mở cửa nền kinh tế, nếu những quy định không phù hợp đó vẫn tiếp tục tồn tại thì sẽ là một yếu tố có ảnh hưởng xấu, gây khó khăn cho quá trình thực thi luật thuế nhập khẩu với mục đích bảo hộ nền sản xuất trong nước.
- Thứ ba, quy định của pháp luật thuế nhập khẩu còn chưa thống nhất. Ví dụ như quy định về thuế suất thông thường không thống nhất, thậm chí còn dễ gây khó hiểu. Trong Luật TXK,TNK, thuế suất thông thường là không quá 70% thuế suất ưu đãi (điểm c khoản 2 Điều 10 Luật TXK,TNK). Theo tư duy thông thường, nếu chỉ đọc luật mà không đọc các văn bản hướng dẫn, người đọc sẽ dễ hiểu là thuế suất thông thường thấp hơn thuế suất ưu đãi, chỉ bằng 70% thuế suất ưu đãi, chứ không phải là 170% như ý nhà làm luật muốn truyền tải.
Như vậy, theo quy định này của Luật TXK,TNK, Bộ Tài chính có thể quy định một mức thuế suất trong một khung lớn từ 100% đến 170% so với thuế suất ưu đãi của hàng hóa tương ứng. Những Bộ Tài chính đã tỏ ra cứng nhắc khi quy định “Thuế suất thông thường được áp dụng thống nhất bằng 150% mức thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi” (điểm b.3 khoản 3 Điều 92 Thông tư 194/2010/TT-BTC hướng dẫn về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu).
Những quy định mâu thuẫn như vậy sẽ gây ra nhiều khó khăn trong việc thực thi pháp luật TNK trên thực tế. Các nhà nhập khẩu và cá nhân, cơ quan có thẩm quyền sẽ lúng túng trong việc chọn văn bản áp dụng. Tuy theo lý thuyết, cần phải áp dụng văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Nhưng trên thực tế, văn bản nào gần với chủ thể nhất, hướng dẫn rõ ràng nhất thì sẽ được áp dụng, tức là văn bản hướng dẫn luật. Do đó, yếu tố này gây ảnh hưởng xấu tới việc áp dụng quy định của nhà làm luật, pháp luật được thực thi không đúng với tinh thần của những người xây dựng pháp luật.
2.2, Ý thức của các nhà nhập khẩu chưa cao
Có thể nói đây là yếu tố gây ảnh hưởng lớn nhất tới việc thực thi luật TNK. Quy định của pháp luật hiện hành rất coi trọng sự tự giác của các nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, có thể nói quy định này chưa thực sự phù hợp. Các nhà nhập khẩu luôn hướng tới lợi nhuận tối đa cho bản thân. Từ đó, luôn tìm cách “lách luật” nhằm trốn thuế, gây thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước. Mục đích của việc thực thi luật thuế nhập khẩu không đạt đươc.
Dưới đây, xin đề cập tới một số cách thức mà các nhà nhập khẩu sử dụng để trốn thuế - những hành vi trái pháp luật, là yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến việc đưa luật thuế nhập khẩu vào thực tiễn, thực thi hết vai trò mà các nhà làm luật đã kỳ vọng khi xây dựng lên nó.
2.2.1, Giá tính thuế nhập khẩu
* Đây là một trong những vấn đề luôn được quan tâm, nhân viên hải quan tại các cửa khẩu rất khó khăn trong việc xác định chính xác giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu. Theo thống kê của ngành hải quan thì trong số các vụ trốn TNK, số vụ do gian lận về giá chiếm tỷ lệ cao nhất. Với quy định của pháp luật hiện hành, việc kê khai thuế chủ yếu dựa trên thái độ trung thực của người nhập khẩu, giá tính thuế nhập khẩu được tính theo trị giá giao dịch thực tế của hàng hóa. Tuy nhiên, từ lý thuyết đến áp dụng vào thực tiễn còn rất nhiều khó khăn, và nhà nhập khẩu luôn có rất nhiều cách để trốn thuế:
- Khai báo giá không trung thực: bên nhập khẩu sẽ thông đồng với nhà sản xuất để khai báo giá trị hàng hóa nhập khẩu thấp hơn so với giá trị hàng hóa trên thực tế. Các hợp đồng, chứng từ thanh toán qua ngân hàng như L/C chỉ thể hiện phần nào nội dung mà cơ quan hải quan đang kiểm tra, chứ không thể hiện đầy đủ giá trị khai báo. Nhà xuất khẩu thì đều muốn làm vừa lòng khách hàng để giữ giao dịch. Do đó, hiện nay xuất hiện tình trạng một giao dịch được thực hiện theo hai hay nhiều hợp đồng để đối phó với hải quan.
Trường hợp tháng 3/2009, một doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh làm thủ tục nhập khẩu lô hàng qua Chi cục Hải quan cảng Sài Gòn khu vực 1. Lô hàng gồm 520 chiếc ghế ngồi dùng để sửa xe ô tô, khung nhôm có đệm và 70 chiếc ghế nằm dùng để sửa xe ô tô khung nhôm có đệm, mới 100% xuất xứ từ Trung Quốc (đây là mặt hàng mới). Theo giá khai báo nhập khẩu, giá mỗi chiếc ghế nêu trên chỉ có 2USD, theo đó số thuế phải nộp chỉ khoảng 9,2 tỷ đồng. Trong khi kết quả tham vấn giá trị tính thuế của hải quan đối với ghế ngồi dùng để sửa xe ô tô được xác định là 138 USD/chiếc (tăng 69 lần so với giá khai báo) và ghế nằm dùng để sửa xe ô tô giá 124 USD/chiếc (tăng 62 lần so với giá khai báo của doanh nghiệp). Như vậy, với mức thuế suất nhập khẩu 33% và thuế giá trị gia tăng 10%, với lô hàng gần 600 chiếc ghế chuyên dùng nêu trên, số thuế doanh nghiệp phải thực nộp tăng thêm hơn 623 tỷ đồng so với mức 9,2 tỷ đồng theo khai báo ban đầu www.ktckhanhhoa.com/Tron-thue-noi-lo-canh-canh-cua-nganh-hai-quan.htm
- Khai thấp về chất lượng hàng hóa: ví dụ như doanh nghiệp nhập khẩu hàng vải, sợi, sắt, thép… khai báo hàng hóa của họ là hàng thứ phẩm, hàng tồn kho, hàng loại A,B,C,D hoặc hàng vỡ vụn nhiều…nhằm làm giảm giá khai báo, trốn thuế.
- Khai báo hàng không thanh toán, hàng hỗ trợ tiếp thị quảng cáo: vì theo công văn hướng dẫn của ngành hải quan, nếu doanh nghiệp có hàng hóa khuyến mãi thì sẽ được miễn thuế đối với hàng hóa đi kèm. Do đó, nhiều doanh nghiệp đã biến hàng hóa của mình thành hàng khuyến mãi để trốn thuế.
- Khai thấp dần trị giá khai báo so với các lô hàng cùng loại, tương tự nhập khẩu trước đó.
- Dựa vào danh mục dữ liệu giá của cơ quan hải quan để khai báo trị giá các lô hàng giống hệt, tương tự với giá thấp hơn giá dao dịch thực tế.
- Dựa vào xác nhận giá của sứ quán, tham tán thương mại, phòng thương mại tại nước xuất khẩu để khai trị giá thấp hơn giá giao dịch thực tế.
- Khai thấp trị giá đối với hàng nhập thử, sau đó ồ ạt nhập theo trị giá thấp đã khai trước đó.
- Khai thấp trị giá đối với những mặt hàng nhạy cảm có thuế suất cao, nhập khẩu số lượng lớn rồi bỏ trốn hoặc giải thế.
- Hoặc mới đây là vụ trốn thuế lên đến hàng nghìn tỷ đồng của hàng loạt các tên tuổi lớn là thành viên Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) như Toyota Việt Nam, Ford Việt Nam, Vidamco, Vinamotor…Cuối tháng 3/2011, cơ quan Hải quan nhận thấy một số linh kiện phụ tùng như ống xả, kính sườn cửa trượt (của xe Transit)… không đáp ứng đủ mức độ rời rạc theo quy định hiện hành để có thể áp mức thuế nhập khẩu theo dạng linh kiện, phụ tùng (có thuế suất từ 0-27%). Trong khi đó, theo Thông tư 184/2010 của Bộ Tài chính, chỉ cần một linh kiện phụ tùng không đảm bảo mức độ rời rạc theo Quyết định 05/2005/QĐ-BKHCN của Bộ Khoa học Công nghệ thì sẽ phải áp thuế theo thuế suất xe nguyên chiếc (thuế suất 82%).
Từ kết quả này, Chi cục Hải quan Hải Dương đã liên tiếp ra các quyết định ấn định thuế theo xe nguyên chiếc với lô hàng nhập khẩu của Ford Việt Nam với lý do “Lô hàng không đủ điều kiện tính thuế cho từng linh kiện, chi tiết, cụm chi tiết”. Tổng số tiền thuế còn phải nộp của liên doanh này chỉ trong ba tờ khai hải quan ngày 22/2/2011, 22/3/2011, 25/3/2011 đã lên tới trên 15 tỷ đồng
.
- Ngoài ra, “chiêu bài phổ biến nhất mà doanh nghiệp áp dụng để trốn thuế là thường xuyên kê khai thua lỗ, dù thực tế vẫn…mở rộng hoạt động kinh doanh. Theo số liệu thống kê, riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh, đến cuối năm 2009, số doanh nghiệp kê khai lỗ và thu nhập bằng 0 lên đến hơn 2000. Sau khi tiến hành thanh tra 826 doanh nghiệp, đã truy thu hơn 760 tỷ đồng, phạt hơn 246 tỷ đồng2…
Với những thủ đoạn như vậy, việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu, cụ thể là hoạt động thu thuế, cán bộ hải quan phải thu thập các nguồn thông tin, đồng thời phải có kỹ năng nghiệp vụ giỏi mới có cơ sở bác bỏ giá trị khai báo của doanh nghiệp nhập khẩu.
* Bên cạnh đó, công tác xác định trị giá tính thuế còn gặp nhiều khó khăn khi tham vấn giá với các doanh nghiệp trong các trường hợp sau:
- Bán hàng độc quyền, trị giá tính thuế khai báo rất thấp và riêng mặt hàng đó chỉ có duy nhất một công ty nhập và phân phối trên thị trường. Như vậy, không thể tiến hàng đối chiếu giá. Bên cạnh đó, rất khó có thể cập nhật chính xác giá nhập khẩu vì nhà sản xuất không bao giờ cung cấp mà chỉ định đến liên hệ với đại lý của chính hãng – chính là doanh nghiệp nhập khẩu. Ngành rượu và mỹ phẩm thường là xảy ra tình trạng này.
- Hai bên giao dịch thông đồng với nhau khai thấp giá trị hàng hóa
- Mối quan hệ đặc biệt trong giao dịch có ảnh hưởng đến trị giá giao dịch đối với những người trong gia đình theo mô hình công ty mẹ - con. Tình huống này đòi hỏi cán bộ hải quan phải có nguồn thông tin có sắc, có nghiệp vụ kiểm toán và được quyền đọc sổ sách tài chính của công ty, nếu không sẽ rất khó để bác bỏ giá trị giao dịch mà doanh nghiệp khai báo.
- Việc xuất khẩu sản phẩm đến nước của nhà nhập khẩu nhưng không phải đóng thuế nhập khẩu tại nước đó cũng là một trường hợp khó xác định. Sản phẩm khi được bán thông qua đó đánh giá được nhu cầu thị trường mở rộng nguồn tiêu thụ hoặc trưng bày quảng cáo thương hiệu sản phẩm mới, được thực hiện thông qua hàng F.O.C như trên hoặc tính gộp vào giá hàng nhập, đôi bên đều có lợi: nhà nhập khẩu được lợi từ trị giá của hàng hóa sau khi bán, nhà xuất khẩu không cần tốn chi phí quảng cáo thăm dò thị trường.
* Công tác xác định giá gặp nhiều khó khăn do hệ thống cơ sở dữ liệu giá (GTT22) chưa thực sự hoàn hảo vì thông tin chưa được cập nhật đầy đủ, chưa có hình ảnh dữ liệu về món hàng. Định giá qua mô tả thì độ chính xác không cao.
2.2.2, Thuế suất thuế nhập khẩu
Chúng ta đã có quy định rõ ràng về thuế suất trong các văn bản pháp luật và cam kết quốc tế. Song việc thực thi, áp dụng các quy định của pháp luật trên thực tế lại vô cùng phức tạp. Trở ngại lớn nhất là các các hình thức biến hóa của các nhà nhập khẩu nhằm trốn thuế, hưởng thuế suất thấp hơn để thoát khỏi hặc giảm bớt một phần nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
- Gian lận thuế qua xuất xứ hàng hóa
+ Làm giả C/O: Đây là giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng các thuế suất ưu đãi đặc biệt được áp dụng cho hàng nhập khẩu có xuất xứ từ nước trong khối ASEAN. Trong thời gian qua, một số doanh nghiệp đã làm giả C/O để được hưởng mức thuế ưu đãi đối với hàng nhập khẩu. Chi cục hải quan cảng Sài Gòn khu vực 4 cho biết, thời gian qua khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa cho doanh nghiệp, chi cục đã phát một một số doanh nghiệp xuất trình C/O giả thông qua xác minh tại nơi cấp C/O form D.
+ Khai báo sai xuất xứ: Đây là hình thức các doanh nghiệp khai sai xuất xứ nhập khẩu hàng hóa để gian lận thuế. Cụ thể là trường hợp 23 lô hàng nhập khẩu tại cửa khẩu Cầu Treo năm 2008 với chứng nhận 100% giá trị sản phẩm Thái Lan, được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi theo AFTA. Tuy nhiên, các lô hàng này lại đều mang các nhãn hiệu Nhật như Sony, Panasonic, Hitachi, Sharp… chỉ tính riêng tivi đã lên đến gần 730.000 USD, tương đương 11,9 tỷ đồng
.
- Khai báo gian dối về tên hàng hóa nhập khẩu để được áp mã và hưởng thuế suất thấp hơn. Ví dụ như trường hợp Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Thành phố Hồ Chí Minh Yteco, Cục Điều tra chống buôn lậu đã phát hiện 6 tờ khai hải quan nhập loại thuôc nimfast với 49.102 hộp, trị giá 132.024 USD. Nhưng trong quá trình làm thủ tục nhập loại thuốc trên, Yteco đã chỉ đạo nhân viên tráo đổi toa trốn thuế, bỏ chữ “giảm đau” trên toa thuốc, để hạ mức thuế nhập khẩu từ 10% xuống còn 0%, làm thất thu 200 triệu đồng tiền thuế của nhà nước
.
2.3, Quy định pháp luật về quy trình hành thu thuế nhập khẩu bị lợi dụng
2.3.1, Kê khai thuế nhập khẩu
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc kê khai TNK là do chủ thể tiến hành hoạt động nhập khẩu tự thực hiện, điều này đòi hỏi sự tự giác trung thực, nghiêm chỉnh từ phía nhà nhập khẩu.
Nội dung kê khai thuế trong các tờ khai hải quan bao gồm kê khai về mặt hàng nhập khẩu, số lượng hàng nhập và trị giá hải quan. Cả ba nội dung này trên thực tế đều không được kê khai một cách trung thực và khó có thể dựa trên ý thức tự giác của nhà nhập khẩu.
Việc kiểm tra của cán bộ hải quan tiến hành rất khó khăn. Trong khi đó, hàng nhập khẩu rất phong phú và đa dạng, khó có thể phân biệt và mã hóa một cách chính xác. Phần lớn các lô hàng nhập khẩu đều thừa về số lượng so với khai báo, nhưng lại rất khó để kiểm tra chính xác số lượng và có hàng lậu kèm theo trong lô hàng không, đặc biệt là đối với nguyên liệu dệt may.Nên thực tế công việc không thể kiểm soát hết được hàng hóa, và hàng lậu thì vẫn theo những lô hàng hợp pháp tràn vào Việt Nam một cách tự do.
2.3.2, Nộp thuế nhập khẩu
Thời hạn nộp thuế được quy định khá rõ ràng trong Điều 15 Luật TXK,TNK, nhưng việc thực hiện quy định này trên thực tế gặp phải không ít khó khăn. Nhiều nhà nhập khẩu đã lợi dụng chính sách ân hạn thuế để gây thất thu thuế cho Nhà nước.
Minh chứng cho trường hợp này là vụ việc của Ngô Nhật Phương – người sáng lập công ty cổ phần Kinh Bắc (Kinh Bắc group). Phương đã thuê người thành lập công ty “ma” TNHH Ngự Bình tại Gò Vấp (Thành phố Hồ Chí Minh). Thông qua tư cách pháp nhân của công ty Ngự Bình, từ tháng 7 đến tháng 9/2002, Phương đã nhập khẩu hơn 75.000 tấn giấy (trị giá gần 265.000 USD) từ Singapore), nợ thuế nhập khẩu hơn 3,8 tỷ đồng. Phương được chậm nộp thuế nhập khẩu trong 30 ngày theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 15 Luật TXK,TNK. Tuy nhiên, sau khi nhận và bán hàng xong, công ty “ma” này đã trốn khỏi địa chỉ đăng ký kinh doanh. Trước đó, Phương đã thành lập hai công ty Thắng Lợi (huyện Hóc Môn) và Đại Phong (quận Tân Bình) bằng thủ đoạn tương tự, trốn thuế hơn 10 tỷ đồng.
2.4, Các nhà nhập khẩu lợi dụng ưu đãi miễn giảm, thuế nhập khẩu để trốn thuế
- Theo quy định tại khoản 5 Điều 16 Luật TXK,TNK năm 2005, hàng hóa nhập khẩu trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế của người nhập cảnh được miễn thuế. Lợi dụng quy định này, nhiều vụ nhập lậu, đặc biệt là điện thoại theo đường phi mậu dịch và xách tay qua các sân bay đã được thực hiện trót lọt, gây thất thu hàng chục tỷ đồng thuế của nhà nước. Sử dụng cách thứ này chủ yếu là nhân viên hàng không, thuyền viên hoặc người đi công tác, đi du lịch hay sinh viên di học. Và loại hàng hóa chủ yếu là điện thoại di động.
- Theo quy định tại khoản 4 Điều 16 Luật TXK,TNK thì hàng hóa nhập khẩu theo một hợp đồng gia công cho bên nước ngoài cũng nằm trong diện được miễn thuế. Do đó, một số doanh nghiệp đã làm giả hợp đồng gia công nhằm trốn thuế, gây thất thu thuế cho Nhà nước.
- Lợi dụng chính sách tạm nhập, tái xuất, đối tượng buôn lậu chuyển hàng bằng tàu biển đến khu vực giáp ranh biên giới Việt Nam – Trung Quốc, mở kẹp chì chuyển thuốc lá lậu sang cano siêu tốc chạy sát bờ biển Việt Nam rồi chuyển sang cano nhỏ hoặc thuyển đánh cá đưa sâu vào nội địa
Thực tế đã cho thấy việc áp dụng Luật TXK,TNK năm 2005 trên thực tế vô cùng phức tạp do số lượng cũng như tính chất các vụ trốn thuế nhập khẩu ngày càng tăng và tinh vi hơn. Theo Cục điều tra chống buôn lậu, tình trạng buôn lậu đang diễn ra hết sức phức tạp tại các cảng biển. Đặc biệt, các thủ đoạn trốn thuế ngày càng có cơ hội phát triển khi Việt Nam phổ biến giá áp tính thuế trên tờ khai theo những cam kết với WTO, doanh nghiệp tự khai báo, tự xác định trị giá tính thuế trên tờ khai. Chính sách thông thoáng, miễn kiểm tra hoặc kiểm tra theo tỷ lệ của nhà nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, các đối tượng lại lợi dụng những ưu đãi này để nhập hàng hóa thừa so với hợp đồng khai báo hải quan, nhập nguyên liệu hàng hóa xuất khẩu nhưng lại đem tiêu thụ trái phép trong nước, giả hợp đồng gia công…
Bên cạnh đó, các yếu tố ảnh hưởng xấu đến việc thực thi luật thuế nhập khẩu ở nước ta còn một phần do quy định của pháp luật còn nhiều kẽ hở. Mặt khác do lực lượng hải quan của ta còn thiếu và còn yếu, trong khi các đối tượng buôn lậu ngày càng liều lĩnh và tinh vi hơn. Điều này đòi hỏi pháp luật thuế nhập khẩu phải không ngừng hoàn thiện để bám sát thực tế, tránh tình trạng buôn lậu hoành hành gây thất thoát thuế của Nhà nước.
2.5, Đội ngũ cán bộ hải quan còn thiếu và yếu, một số cán bộ bị suy thoái, biến chất; Cơ sở vật chất lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu
2.5.1, Cán bộ hải quan
Thực tế cho thấy, lực lượng cán bộ hải quan Việt Nam còn mỏng về số lượng và chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, chất lượng cán bộ không đồng đều. Thậm chí, nhiều cán bộ còn vì cái lợi trước mắt mà thông đồng với những kẻ buôn lậu, trốn thuế. Năm 2007, Cơ quan điều tra đã thực hiện lệnh bắt giam đối với một loạt cán bộ Hải quan Lào Cai (Đinh Bá An – Cục trưởng, Phạm Xuân Thường – Chi cục trưởng Hải quan Bát Xát; Khuông Mạnh Hùng – Chi cục trưởng…) vì đã nhận hối lộ của các công ty để “phớt lờ” họ nhập khẩu thuốc lá và trốn thuế. Công ty Thiên Lợi Hòa và Thành Sơn nhập qua lối mở thuộc Chi cục Bát Xát quản lý hơn 2000 tấn nguyên liệu nhưng không thực hiện kê khai hải quan. Số tiền dùng để “bôi trơn” lực lượng Hải quan Lào Cai lên đến hơn 1 tỷ đồng
.
Năng lực, kỹ năng nghiệp vụ yếu kém của nhiều cán bộ cũng là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực thi luật thuế nhập khẩu. Vì họ tuy có phẩm chất đạo đức tốt, nhưng lại không đủ khả năng để nhận biết, phát giác những hành vi trốn thuế ngày càng tinh vi của các đối tượng, gây thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước, và ảnh hưởng đến mục đích điều tiết hàng hóa, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước của luật thuế nhập khẩu.
2.5.2, Cơ sở vật chất
Không thể phủ nhận là cơ sở vật chất của ngành hải quan đang ngày càng được hoàn thiện. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều bất cập, thiếu thốn, là yếu tố trở ngại cho việc thực thi thuế nhập khẩu. Đơn cử như tại cảng Cát Lái (Quận 2 Thành phố Hồ Chí Minh) – cảng container lớn nhất cả nước. Các doanh nghiệp cũng như cán bộ hải quan vẫn đang gặp nhiều khó khăn do đường truyền hải quan điện tử bị nghẽn và máy móc làm hàng tại cảng có vấn đề. Việc đưa container qua máy soi, chuyển container sang bãi chuyển hóa… làm rất chậm. Phương tiện, trang thiết bị trợ giúp cho cán bộ hải quan vẫn còn lạc hậu, gây ra nhiều khó khăn, đặc biệt là trong công tác chống buôn lậu. Ví dụ như công tác bắt hàng lậu trên biển, các đối tượng buôn lậu dùng xuồng có công suất lớn nên cán bộ hải quan không tiếp cận được và để thoát. Số tàu, xuồng cao tốc đưcọ trang bị cho các Hải độc chống buôn laaij trên biển hiện đã quá lạc hậu, tốc độ chỉ khoảng 20 hải lý/giờ, bằng 1/3 so với loại xuồng mà các đối tượng buôn lậu sử dụng.
Nơi làm việc cho cán bộ công chức tại trụ sở Cục hải quan Thành phố cũng như tại các Chi cục cửa khẩu có nhiều khó khăn do mặt bằng làm việc chật hẹp. Tại các cửa khẩu Hải quan không có đất để xây dựng trụ sở mà phải lệ thuộc vào cơ quan chủ quản trên địa bàn (Cảng biển, sân bay, bưu điện…) nên rất khó khăn, bị động trong triển khai nghiệp vụ.
Bên cạnh đó, hệ thống trang thiết bị, công nghệ thông tin cũ, không đồng bộ, phần mềm quản lý chưa hoàn thiện nhưng chưa được trang bị mới, nâng cấp, chưa được trang bị đầy đủ những thiết bị cần thiết như: camera quan sát, máy soi, máy phát hiện ma túy…
Chính những khó khăn,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu.doc