Trong ví dụ về tội giết người trên bị cáo Trần Thế Long có lỗi cố ý trực tiếp (Theo khoản 1 điều 9 bộ luật hình sự Việt Nam sửa đổi năm 2009; người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra). Động cơ giết người ở đây là do Long biết anh Tân có nhiều tài sản nên nảy sinh ý định giết anh Tân để chiếm đoạt tài sản, với động cơ đó bị cáo Long đã nảy sinh ý định và muốn thực hiện ý định giết người của mình, rõ ràng trong thâm tâm của mình mọi sự chuẩn bị cho hành vi giết người của Long đã được suy tính hết, đây là động lực cơ bản và quan trọng trong hành vi vi phạm pháp luật của vụ án. Từ động cơ đó mới dẫn tới mục đích giết người của Long là để chiếm đoạt tài sản của anh Tân, mục đích của Long mang tính chất cục bộ, tiêu cực. Chỉ vì ham muốn bản thân Long đã cướp đi tính mạng của anh Tân một cách không thương xót. Hành vi đó của Long phải xứng đáng bị xã hội lên án và phải được xét xử đúng pháp luật.
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 32834 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích những yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật thông qua một ví dụ cụ thể, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Bất kỳ nhà nước nào, một xã hội đương đại nào dù được quản lý tốt đến đâu, ý thức trách nhiệm cao đến mấy thì những hiện tượng tiêu cực trong xã hội đó, nhà nước đó vẫn luôn tồn tại bên cạnh những giá trị tốt đẹp. Một trong những hiện tượng tiêu cực đó: là hành vi vi phạm pháp luật, một hiện tượng tiêu cực của xã hội đã, đang và sẽ diễn ra trong một thời gian dài. Mặt khác trong bất kỳ một xã hội nào vẫn còn những mâu thuẫn về lợi ích, dẫn tới xung đột lợi ích, đấu tranh đòi lợi ích của các giai tầng khác. Trong bối cảnh như vậy những hiện tượng tiêu cực mà cụ thể là những vi phạm pháp luật diễn ra là không thể tránh khỏi. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề vi phạm pháp luật sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc đề ra các biện pháp đúng đắn để đấu tranh với vi phạm pháp luật. Với ý nghĩa đó em đã chọn đề tài: “phân tích những yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật thông qua một ví dụ cụ thể” để từ đó có thể hiểu rõ hơn về bản chất cũng như đặc điểm của vi phạm pháp luật.
NỘI DUNG
I. cơ sở lý luận
1. Khái niệm vi phạn pháp luật.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật có lỗi của chủ thể có năng lực (khả năng) chịu trách nhiệm pháp lý, đã xâm hại tới đối tượng (quan hệ xã hội) được pháp luật bảo vệ.
Vi phạm pháp luật được cấu thành bởi 4 yếu tố: Mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể vi phạm pháp luật.
2. Cấu thành của vi phạm pháp luật (căn cứ thực tế để truy cứu trách nhiệm pháp lý)
2.1. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật.
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan của vi phạm pháp luật. Nó bao gồm hành vi trái pháp luật, sự thiệt hại cho xã hội và quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội, thời gian, địa điểm, công cụ vi phạm. Trước hết phải xác định xem vụ việc vừa xảy ra có phải do hành vi của con người hay không, nếu phải thì hành vi đó có trái pháp luật không, nếu trái pháp luật thì trái như thế nào. Sự thiệt hại cho xã hội là những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần do hành vi trái pháp luật gây ra. Quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội là việc xác định xem hành vi trái pháp luật có phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự thiệt hại cho xã hội hay không và sự thiệt hại cho xã hội có phải kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật hay không, vì thực tế có trường hợp hành vi trái pháp luật không trực tiếp gây ra sự thiệt hại cho xã hội, mà sự thiệt hại đó do nguyên nhân khác. Ngoài ra con phải xác định: thời gian vi phạm pháp luật là giờ, ngày, tháng, năm nào. Địa điểm vi phạm pháp luật là ở đâu. Phương tiện thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là gì. Tất cả các yếu tố trên chính là cơ sở khách quan để truy cứu trách nhiệm pháp lý của hành vi vi phạm pháp luật. Nhưng để lam sáng tỏ hơn về hành vi vi phạm pháp luật cần phải xét tới các yếu tố tiếp theo.
2.2. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật.
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật gồm lỗi, động cơ, mục đích vi phạm pháp luật: Lỗi là một trạng thái tâm lý thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hậu quả xấu trong hành vi của mình (nhìn thấy trước được hậu quả xấu trong hành vi của mình mà vẫn thực hiện) và trong chính hành vi đó (hành vi chủ động, có ý thức….) tại thời điểm chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật đó; Lỗi được chia thành hai loại: cố ý và vô ý; lỗi cố ý gồm (cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp), lỗi vô ý gồm (vô ý do cẩu thả và vô ý do quá tự tin). Động cơ là cái thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích là kết quả cuối cùng mà chủ thể vi phạm pháp luật mong đạt tới.
2.3. Chủ thể vi phạm pháp luật.
Chủ thể vi phạm pháp luật: là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý và đã thực hiện hành vi trái pháp luật của mình. Mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng tùy thuộc vào mức độ xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
2.4. Khách thể vi phạm pháp luật.
Khách thể vi phạm pháp luật: là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi trái pháp luật xâm phạm. Tính chất của khách thể vi phạm pháp luật cũng là một yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm trong hành vi trái pháp luật. Là một trong những căn cứ để phân loại hành vi vi phạm pháp luật.
II. Cơ sở thực tế
1. Các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật thông qua một ví dụ cụ thể.
Xét một vi phạm pháp luật cụ thể là vụ án giết người vào ngày 11/8/2010 có nội dung vụ án như sau:
Khoảng tháng 3/2010, anh Đỗ Văn Tân (29 tuổi, quê ở Phú Thọ, là nhân viên một công ty tại Hà Nội, trú tại nhà trọ ở ngõ 260 đường Cầu Giấy, Hà Nội) qua chat trên mạng Internet đã quen với Trần Thế Long (22 tuổi, quê Nam Định). Đầu tháng 7/2010, Long từng lên Hà Nội và vào phòng trọ của anh Tân chơi. Đến ngày 7/8/2010, Long điện thoại nói với anh Tân lại sẽ lên Hà Nội và hẹn vào chơi với anh Tân. Khoảng 17h cùng ngày, Long lên Hà Nội và đến nhà nghỉ ở khu vực đường Doãn Kế Thiện, quận Cầu Giấy ngủ qua đêm với một người đàn ông khác. Sáng hôm sau Long mới đến nơi trọ của anh Tân chơi và ở lại đó. Gần 2 ngày Long ở tại nhà trọ của anh Tân, anh Tân đã báo với cơ quan nghỉ làm để ở nhà chơi với Long. Anh Tân có khuyên Long quay về quê nhưng Long chưa muốn về. Tới sáng 10/8, anh Tân khoá cửa phòng đi làm nên Long đi chơi điện tử ở khu vực Mễ Trì, 19h cùng ngày, Long lại quay về nhà anh Tân ăn cơm và ngủ lại. Biết anh Tân có nhiều tài sản có giá trị, Long nảy sinh ý định giết anh Tân để chiếm đoạt tài sản. Sáng hôm sau, khi ngủ dậy, thấy anh Tân đang nằm ở chiếu trải trên sàn nhà, Long lấy con dao nhọn ở trên bàn đâm mạnh hai nhát vào tim và phổi anh Tân, dùng chiếc gối đầu bằng vải đè bịt mặt, mũi anh Tân cho tới khi tắt thở. Sau đó Long lục soát, lấy của anh Tân 2 điện thoại, một máy tính cá nhân, một ví da trong có một số giấy tờ tuỳ thân và 90 nghìn đồng, 1 xe máy Honda Lead (tổng giá trị tài sản là 36 triệu đồng). Một lát sau, đồng nghiệp từ cơ quan tới nhà trọ tìm anh Tân, khi lên tới nơi, anh này phát hiện thấy nạn nhân đã chết nên báo công an. Còn Long sau khi giết và cướp được tài sản, y đã bỏ chạy về quê. Hai ngày sau, Long đã bị lực lượng công an điều tra, phát hiện, bắt giữ.
1.1. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật trong ví dụ.
Trong ví dụ trên, hành vi giết người của Trần Thế Long là hành vi trái pháp luật được quy định trong Hiến pháp 1992 (Điều 3 và điều 12) và Bộ luật hình sự Việt Nam sửa đổi năm 2009 (khoản 2 điều 8), đây là hành vi trái pháp luật biểu hiện dưới dạng hành động (dùng dao giết người). Hành vi của Trần Thế Long đã gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng dẫn đến cái chết của anh Đỗ Văn Tân. Nguyên nhân dẫn đến cái chết của nạn nhân Tân là do bị dao nhọn đâm mạnh hai nhát vào tim và phổi rồi bị (bị cáo) dùng chiếc gối đầu bằng vải đè bịt mặt, mũi cho tới khi nạn nhân tắt thở (mối quan hệ nhân quả). Thời gian thực hiện hành vi giết người vào sáng ngày 11 tháng 8 năm 2010. địa điểm xảy ra án mạng là tại phòng trọ của anh Đỗ Văn Tân ở ngõ 260 đường Cầu Giấy, Quan Hoa, Cầu Giấy, Hà Nội. Phương tiện dùng để thực hiện hành vi giết người được xác định là một con dao nhọn.
1.2. Mặt chủ quan của ví phạm pháp luật trong ví dụ.
Trong ví dụ về tội giết người trên bị cáo Trần Thế Long có lỗi cố ý trực tiếp (Theo khoản 1 điều 9 bộ luật hình sự Việt Nam sửa đổi năm 2009; người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra). Động cơ giết người ở đây là do Long biết anh Tân có nhiều tài sản nên nảy sinh ý định giết anh Tân để chiếm đoạt tài sản, với động cơ đó bị cáo Long đã nảy sinh ý định và muốn thực hiện ý định giết người của mình, rõ ràng trong thâm tâm của mình mọi sự chuẩn bị cho hành vi giết người của Long đã được suy tính hết, đây là động lực cơ bản và quan trọng trong hành vi vi phạm pháp luật của vụ án. Từ động cơ đó mới dẫn tới mục đích giết người của Long là để chiếm đoạt tài sản của anh Tân, mục đích của Long mang tính chất cục bộ, tiêu cực. Chỉ vì ham muốn bản thân Long đã cướp đi tính mạng của anh Tân một cách không thương xót. Hành vi đó của Long phải xứng đáng bị xã hội lên án và phải được xét xử đúng pháp luật.
1.3. Chủ thể vi phạm pháp luật trong ví dụ.
Theo quy định của Bộ luật hình sự, thì người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Từ 16 tuổi trở lên: Chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm (Điều 12 luật hình sự Việt Nam, sửa đổi 2009). Tại thời điểm xảy ra vụ án bị cáo Trần Thế Long 22 tuổi, không có bệnh làm hạn chế đến khả năng nhận thức hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình, Long biết trước hậu quả xấu do hành vi trái pháp luật của mình gây ra mà vẫn thực hiện. Tội “Giết người” là tội đặc biệt nghiêm trọng (vì có khung hình phạt cao nhất đến tử hình). Do đó, về mặt chủ thể bị cáo Long phải chịu trách nhiệm hình sự và với tội giết người một cách dã man (đâm nạn nhân hai lần vào tim và phổi rồi dùng chếc gối bằng vải bịt mặt, mũi làm cho nạn nhân ngạt thở), với hành vi đó Trần Thế Long đã bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên an tử hình về tội giết người và 5 năm tù giam về tội cướp tài sản, tổng hình phạt chung dành cho bị cao là án tử hình. Đây là kết quả xét xử thích đáng dành cho bị cáo và xoa dịu dư luận xã hội.
1.4. Khách thể vi phạm pháp luật trong ví dụ.
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm (Điều 3, điều 71 Hiến pháp Việt Nam 1992). Quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người điều này được quy định rất rõ trong điều 3 Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền: Theo đó “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.” Cuộc sống của mỗi con người bắt đầu từ khi họ sinh ra cho đến khi họ chết. Tội giết người trực tiếp xâm phạm đến quyền sống của con người, cụ thể ở đây là nạn nhân Đỗ Văn Tân. Đối tượng tác động của tội giết người chính là thân thể của anh Tân (bị đam hai nhát vào tim và phổi, bị bịt mặt, mũi cho đến khi chết). Ngoài ra hành vi giết người của bị cáo Trần Thế Long còn làm ảnh hưởng tới quan hệ nhân thân giữa nạn nhân (Đỗ Văn Tân) với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, cơ quan… Và những quan hệ xã hội khác. Làm tổn thương về mặt tinh thần đối với gia đình và người thân. Mà từ sự ảnh hưởng này có thể dẫn tới những nguyên nhân khác.vì vậy khi xét tới yếu tố khách thể vi phạm pháp luật cần phải xét tới những ảnh hưởng mà hành vi trái pháp luật làm xâm hại tới các quan hệ được pháp luật bảo vệ.
• Từ sự phân tích các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật và trong ví dụ trên giúp chúng ta có những hiểu biết cần thiết, đầy đủ và có cách nhìn đa chiều hơn về vi phạm pháp luật. Đồng thời nhận biết được những hậu quả nguy hiểm của vi phạm pháp luật mang lại cho cộng đồng. Từ đó mỗi công dân có thể tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với những quy định của pháp luật, không xâm phạm đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, góp phần nâng cao ý thức pháp luật, thực hiện và tuân thủ pháp luật.
KẾT LUẬN
Tìm hiểu về các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật giúp chúng ta làm việc tuân theo những quy tắc sử xự chung và chấp hành những quy định của pháp luật. Các mối quan hệ xã hội mà con người tham gia đều được pháp luật bảo vệ để mang lại hạnh phúc cho nhân dân và đảm bảo trật tự an ninh xã hội. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau hiện tượng vi phạm pháp luật vẫn đang diễn ra và trở thành một vấn nạn lớn trong công cuộc gìn giữ trật tự xã hội của mỗi quốc gia. Tình hình vi phạm pháp luật trên thế giới diễn ra ngày càng phức tạp với nhiều hình thức, cách thức hoạt động phức tạp luôn là đề tài nóng hổi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Với việc tìm hiểu các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật thông qua ví dụ cụ thể trên giúp em có thêm những nhận thức mới hơn, tổng quát hơn về các hiên tượng tiêu cực (vi phạm pháp luật) trong xã hội. Cũng từ đó giúp em tiếp cận pháp luật, thực hiện pháp luật dưới góc độ là một trong những sinh viên ngành luật.
Trong quá trình làm bài không thể tránh khỏi những hạn chế về nhận thức, cách trình bày và các sai xót khác. Vì vậy em mong các thầy, cô đóng góp ý kiến để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
En xin chân thành cảm ơn !
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hướng dẫn ôn tập môn học Lý luận nhà nước và pháp luật
NXB Tư pháp – 2010. (PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi)
2. Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
NXB Tư Pháp – 2010. PGS.TS Nguyễn Văn Động (chủ biên)
3. Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam – NXB Lao Động – 2010
4. Bộ luật hình sự Việt Nam sửa đổi năm 2009
5. http//:phapluattp.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích những yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật thông qua một ví dụ cụ thể.doc