Tiểu luận Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa"

Hồ Chí Minh có lòng thương yêu nhân dân gắn liền với lòng tin mãnh liệt vào sức mạnh, tính chủ động sáng tạo của nhân dân và lòng tôn trọng, kính trọng nhân dân. Người khái quát:"Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân“. Một nội dung rất quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là phải chăm lo bồi dưỡng, sử dụng, phát động sức mạnh của con người, của nhân dân. Hồ Chí Minh coi"con người là vốn quý nhất, là lực lượng to lớn nhất“,"dân làm chủ“. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Trong công cuộc kháng chiến phải"động viên toàn dân, vũ trang toàn dân“. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước cũng phải"động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân“.

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2032 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa", để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng xã hội chủ nghĩa là"một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội“. Đó trước hết là cuộc cách mạng con người, vì con người và do con người. Chủ nghĩa xã hội chính là kết quả của của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta, với những con người phát triển cả về trí lực, cả về khả năng lao động, và tính tích cực chính trị"xã hội , và đạo đức, tình cảm trong sáng"(Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành trung ương khoá VII) . Nhận định trên một lần nữa thể hiện rõ quan điểm của Đảng ta coi tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nền tảng tư tưởng quan trọng, thực hiện lời dạy của Bác trong thời gian miền Bắc nước ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, mùa xuân năm 1961:"Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội , trứơc hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa". Lời Người chỉ ra rằng: Con người luôn luôn là chủ thể sáng tạo trong bất cứ sự nghiệp cách mạng nào, do đó chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là sản phẩm của hoạt động tự giác của con người. Tuy cách mạng nước ta được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1930, tuy con người Việt Nam từ đó đến nay đã qua mấy cuộc đổi đời căn bản, đã lập nên những kì tích trong cuộc đấu tranh xoá bỏ ách áp bức dân tộc và ách áp bức giai cấp, nhưng cách mạng xã hội chủ nghĩa đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của con người Việt Nam: tự cải tạo xây dựng mình thành con người xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội - một con đường còn đầy cam go, trắc trở. Hơn nữa, trong tình hình thế giới có nhiều biến động đặc biệt khi Liên Xô đã từng được coi là"thành trì của chủ nghĩa xã hội"bị sụp đổ thì việc nhận thức cho đúng về chủ nghĩa xã hội và tìm ra những hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp để đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến lên phía trước, phù hợp với quy luật khách quan và những điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta là vấn đề cấp thiết cần giải quyết để loại bỏ những sai lầm đã mắc phải trứơc kia để đưa chủ nghĩa xã hội ra khỏi khủng hoảng và tiếp tục giành những thắng lợi ngày càng to lớn hơn. Trước hết, chúng ta đi vào tìm hiểu các khái niệm. I. Chủ nghĩa xã hội là gì? Ước mơ của hàng triệu thế hệ con người là xây dựng nên một xã hội tốt đẹp và họ đã gửi gắm niềm mong ước đó vào trong những câu chuyện cổ tích có nàng tiên, ông bụt, thiên đàng... Song chỉ đến khi chủ nghĩa Mác ra đời thì mới vạch ra được cơ sở khoa học, quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, để đi tới chủ nghĩa xã hội khoa học"một chế độ xã hội xây dựng trên cơ sở giải phóng triệt để giai cấp cần lao, giải phóng triệt để xã hội và con người. Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn xã hội Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường cách mạng không ngừng: Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vận dụng những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã có những phát triển sáng tạo về chủ nghĩa xã hội. Đề cập những nội dung cơ bản, những mục tiên lâu dài của chủ nghĩa xã hội, Người viết:"Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no hạnh phúc“. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội mới mang bản chất tốt đẹp có khả năng giải phóng con người triệt để nhất, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển toàn diện cá nhân. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ không có người bóc lột người, là một chế độ quan tâm đến lợi ích thiết thực nhất của con người, nhân dân lao động là người chủ của xã hội mới. Hồ Chí Minh nêu rõ:"Chủ nghĩa xã hội là xã hội ngày càng tiến tới vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt". Sáng tạo lớn của Người là đề ra mục tiêu trước mắt của chủ nghĩa xã hội một cách thiết thực, cụ thể đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân. CNXH là làm cho con người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do. CNXH là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc, học hành tiến bộ. CNXH là tất cả mọi người ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng Nói một cách tóm tắt mộc mạc CNXH trước hết làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, có việc làm, no ấm, sống cuộc đời hạnh phúc. CNXH là làm cho dân giàu, nước mạnh. CNXH có nền tảng là học thuyết Mác - Lênin được dựa vào quy luật khách quan để vạch ra mục tiêu, điều kiện, phương pháp giải phóng triệt để xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, bóc lột, tha hoá, đói nghèo dưới mọi hình thức. Có thể nói, bản chất của chủ nghĩa xã hội là một xã hội đầy tính nhân văn, tất cả vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh đề cập đến chủ nghĩa xã hội tuy có những khác nhau về chi tiết tuỳ thuộc vào đối tượng, vào thời đIểm Người nói hay viết nhưng nổi lên những đIểm chủ yếu sau: Một xã hội có dân chủ. Một xã hội dân giàu, nước mạnh từng bước xoá bỏ bất công, xoá bỏ bóc lột.. trên cơ sở phát triển sản xuất, dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nông nghiệp hiện đại, khoa học tiên tiến. Gắn phát triển kinh tế với chính sách xã hội, với công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc,"bảo đảm mọi người đều có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành","các dân tộc miền núi tiến kịp các dân tộc miền xuôi". Phát triển văn hóa khoa học giáo dục,"biến nước ta từ một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao, có đời sống tươI vui, hạnh phúc“. Bình đẳng, hữu nghị với các dân tộc, các quốc gia trên thế giới, trên tinh thần hợp tác, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, hai bên cùng có lợi. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong. Những quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh nêu trên là phù hợp với quan đIểm cơ bản của Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội ; phù hợp với nguyện vọng, yêu cầu bức xúc và cơ bản từ ngàn đời của dân tộc Việt Nam, phù hợp với quy luật về con đường cách mạng của Việt Nam. Vì vậy, nó dễ đi vào lòng người, được mọi người dân Việt Nam chấp nhận, tự nguyện phấn đấu cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. II. Con người xã hội chủ nghĩa là gì? Nhân tố con người là một nhân tố quan trọng nhất của mọi hoạt động. Để tìm hiểu nhân tố này ta có thể xem xét trên nhiều phương diện, nhiều khía cạnh khác nhau. Con người có thể nói gồm hai mặt đó là con người sinh học và con người xã hội. Con người sinh học ngoài những tư chất tự nhiên nhất định phục thuộc vào những đặc điểm giải phẫu sinh lí của cơ thể còn có những tố chất quy định khuynh hướng tự nhiên của mỗi cá nhân. Con người sinh học còn tồn tại trong nó những tính xấu như: kèn cựa, ích kỉ, tham lam,.. Song bên cạnh con người sinh học lại có con người xã hội đầy tình người, lòng nhân ái, biết giúp đỡ, tương trợ nhau,... Hai con người này cùng tồn tại trên một cá thể và đấu tranh với nhau. Con người là một cá thể người, nhưng không phải mọi cá thể người nào cũng là con người. Để thể hiện đúng tư cách là con người thì cần phải trải qua một quá trình phát triển nhất định để có một nhân cách đầy đủ, mang tính chính thể. Thuở sơ khai, từ những thực thể hoang dã, chưa đủ sức mạnh để tách ra khỏi giới tự nhiên, sống chung với tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên, con người tách dần ra và từng bước thống trị giới tự nhiên. Mác viết"Chỉ có trong cộng đồng, cá nhân mới có được những phương tiện để phát triển toàn diện những năng khiếu của mình“. Thật vậy, tư chất tự nhiên chưa thể là cơ sở đủ cho việc giảI quyết bản chất nhân đạo của con người. Toàn bộ vấn đề là ở chỗ, mỗi cá nhân bao giờ cũng được sinh ra trong một dân tộc, một quốc gia, một xã hội với một nền văn hoá và các quan hệ kinh tế, chính trị, đạo đức, thẩm mĩ, .. nhất định, và cái chủ yếu nhất là mới một hệ thống phân công lao động xã hội. Tất cả những yếu tố đó tạo nên tình huống khách quan quy định nhu cầu về mặt xã hội của con người. Yếu tố xã hội có ý nghĩa đặc biệt trong việc tạo đIều kiện cho sự hình thành những năng lực trên cơ sở các tư chất của cá nhân. Hoạt động của cá nhân làm phát huy và phát triển năng lực. Còn các điều kiện cho sự thực hiện các hoạt động thì không chỉ là vật chất, kinh tế, kỹ thuật, công nghiệp,.. mà cả các đIều kiện xã hội, văn hoá, đạo đức, thẩm mĩ,.. tức là các điều kiện ở tầng tinh thần. MôI trường tinh thần xã hội quan trọng hàng đầu phải kể đến gia đình, sau đó đến nhà trương và các tổ chức xã hội. Gia đình là cái nôI trực tiếp cho sựu phát triển các tố chất di truyền. Nhà trường nhân lên tố chất đó thông qua tri thức nhân loại. Các tổ chức xã hội bổ sung phông phú vốn sống cho một sự trưởng thành đầy đủ. Tất cả các đIều kiện xã hội - tâm lí, văn hoá, khoa học, đạo đức, thẩm mỹ,.. của gia đình, nhà trường, tập thể như là tổ hợp tri thưc, quan hệ, lối sống,.. với tư cách là môi trường nuôi dưỡng, kích thích, phát huy năng khiếu của cá nhân. Từ cái nhìn toàn diện, phải thấy rằng con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử, cao hơn nữa con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử và đIều còn quan trọng hơn con người phải là những chủ thể văn hoá. Hồ Chí Minh có lòng thương yêu nhân dân gắn liền với lòng tin mãnh liệt vào sức mạnh, tính chủ động sáng tạo của nhân dân và lòng tôn trọng, kính trọng nhân dân. Người khái quát:"Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân“. Một nội dung rất quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là phải chăm lo bồi dưỡng, sử dụng, phát động sức mạnh của con người, của nhân dân. Hồ Chí Minh coi"con người là vốn quý nhất, là lực lượng to lớn nhất“,"dân làm chủ“. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Trong công cuộc kháng chiến phải"động viên toàn dân, vũ trang toàn dân“. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước cũng phải"động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân“. Có thể nói, con người xã hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện, hoàn toàn đi đến không có chủ nghĩa cá nhân. Con người xã hội chủ nghĩa phải mang những đặc điểm chính sau: Đậm đà bản sắc dân tộc: Kiên định giữ vững nền độc lập dân tộc, tự hào dân tộc, yêu quê hương, thương đồng bào, phát triển đất nước theo lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Có trình độ khoa học, công nghệ: Có sức khỏe, được đào tạo có tay nghề, có tư duy tốt, linh hoạt, sáng tạo, thích nghi, có nếp sống và làm việc văn minh, hợp lí, làm việc có hiệu quả, làm giàu cho mình, cho nhà, cho nước. Có tinh thần công dân: Sống và làm việc theo pháp luật, có hiểu biết và ý thức tuân theo pháp luật, có thế giới quan Mác - Lênin - Hồ Chí Minh. Đầy đủ tình nghĩa, nhân nghĩa, đạo đức, đạo lí: Có các quan hệ đẹp trong giao tiếp đầy tính người, tình người, nghĩa cử vì một lí tưởng cao đẹp, hiếu thảo, chân tình, có tinh thần làm chủ, coi trọng tín ngưỡng gia tiên, có cuộc sống văn hoá, phong phú, thanh lịch, đẹp. Biết tiếp thu tinh hoa văn minh nhân loại: Nhân văn, nhân ái, nhân đạo; quốc tế vô sản chân chính, lập trường giai cấp vững vàng, tiến lên chủ nghĩa xã hội; hoà bình, hữu nghị, hợp tác, hội nhập vào xu thế của thời đại và cộng đồng. Đặc biệt về đạo đức chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân".Theo Hồ Chí Minh thì đạo đức gắn liền với năng lực, chính nhờ có đạo đức cách mạng mà mỗi người tự phấn đấu để hoàn thiện mình, hình thành năng lực để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Vì vậy, đạo đức cách mạng là nền tảng vững chắc để mỗi người hoàn thành được nhiệm vụ của mình . Người cũng đã căn dặn Đảng ta:"Cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ (thanh niên Việt Nam) để đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên“. Đạo đức do Hồ Chí Minh đề xướng không phải vì danh lợi cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Trong tác phẩm"Đường cách mệnh“, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, bao gồm những nội dung: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, cả quyết sửa lỗi mình, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói thì phải làm, phải giữ chủ nghĩa cho vững, phải dám hi sinh, ít lòng tham muốn về vật chất, trung thực, phục tùng đoàn thể. Tóm lại, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến con người, đến lợi ích và khả năng phát triển của con người, hướng mọi hoạt động của con người vào phục vụ xã hội phục vụ chính bản thân con người. III. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trứơc hết phải có con người xã hội chủ nghĩa: C. Mác đã khẳng định: "Bản thân xã hội sản sinh ra con người với tính cách là con người như thế nào, thì con người cũng sản sinh ra xã hội như thế ấy". Vinh quang và ý nghĩa của con người là phát triển tối đa các năng lực sáng tạo của mình để trở thành những chủ thể sáng tạo, hoà vào thời cuộc, thực hiện được mục đích cá nhân và những nhiệm vụ cao cả của xã hội. Sự thành đạt của một cá nhân còn tác động tích cực tới môI trường xã hội. Sự tự khẳng định được cá nhân không chỉ tạo nên tâm lí tự tin trong việc vươn tới mục tiêu phát triển và hoàn thiện bản thân, nó còn mở rộng khả năng hiện có, phát triển các quan hệ giao tiếp, văn hoá, tác động tới tinh thần phấn đấu của người khác tạo nên môI trường xã hội lành mạnh. "Bản lĩnh tự biểu hiện một cách đầy đủ vào trong thực thể tự nhiên của mình, đó là dấu hiệu của sự hoàn thiện và hầu như đó là bản chất thần thánh của con người. Chúng ta muốn làm một cái gì đó còn hơn thế nữa, không chỉ muốn đi vào thực thể của chính mình, mà còn muốn vượt lên trên giới hạn tự nhiên của chính mình“. Đây là một lời khẳng định của M. Monlen song sự"vượt ra ngoàI"đó thể hiện tính năng động sáng tạo và khát vọng vươn lên vô tận của con người. Tuy nhiên, muốn đi xa bao giờ người ta cũng phải"đứng vững trên đôI chân"của mình. Để đứng vững được trên đôI chân của mình, trước hết, mỗi người phải hiểu rõ việc mình làm. Càng hiểu sâu bao nhiêu, hiệu quả công việcmình làm càng lớn bấy nhiêu. Và như vậy có nghĩa, ở bất cứ mức độ nào, hiệu quả lao động sáng tạo bao giờ cũng phù hợp với tinh thần chủ thể sáng tạo. Nghĩa là, trong lao động sáng tạo có sự kết hợp giữa hứngthú cá nhân với nghĩa vụ xã hội, thoã mãn đồng thời lợi ích xã hội với lợi ích cá nhân. Mức độ kết hợp hài hoà các yếu tố đó là con đường và khả năng thể hiện tự do và phát triển của chủ thể sáng tạo. Để có được chủ nghĩa xã hội chúng ta phải có nền sản xuất xã hội chủ nghĩa với công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có khoa học - kĩ thuật tiên tiến. Con người trong xã hội đó không chỉ được hiểu với tư cách là người lao động sản xuất, mà còn với tư cách là một công dân trong xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành viên trong cộng đồng dân tộc và nhân loại, một con người có trí tuệ, có trách nhiệm trước vận mệnh của cả quốc gia, dân tộc. Đó không chỉ là đội ngũ những người lao động có năng xuất cao, những nhà khoa học giỏi, các chuyên gia kĩ thuật, các nhà doanh nghiệp biết làm ăn, những nhà quản lí, lãnh đạo có tài, mà đó còn là hàng triệu những công dân yêu nước, ý thức được cuộc sống đói nghèo và nguy cơ tụt hậu để cùng nhau gắn bó vì sự nghiệp chung. Đúng như C. Mác và F.Ăngghen đã khẳng định: "Chỉ có trong cộng đồng (với những người khác) thì mỗi cá nhân mới có những phương tiện để phát triển toàn diện những năng khiếu của mình“. Hơn nữa, thực tiễn ngày nay cho thấy việc hoạch định thướng bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh“, đòi hỏi chúng ta không chỉ ý thức được vai trò của những giá trị truyền thông mang đậm bản sắc dân tộc, mà con phải nhận thức được một cách sâu sắc quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về tính thiết yếu của sự kết hợp hài hoà giữa phát triển con người với việc thiết lập mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Trong bối cảnh quốc tế hiện thời, cộng nghiệp hoá, hiện đại hoá đang được coi là xu hướng phát triển chung của các nước đang phát triển. Đối với nước ta, một nước vẫn chưa thoát khỏi tình trạnh nghèo nàn và lạc hậu thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, trước hết nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh, đồng bộ và bền vững. Khi chúng ta còn chưa thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu thì trước tiên phải chăm lo phát triển kinh tế, song sẽ là sai lầm nếu không quan tâm giảI quyết tốt những vấn đề xã hội, không tạo ra sự cân đối, hàI hoà giữa kinh tế và xã hội. Thực tiễn nước ta và kinh nghiệm lịch sử của các nước đang phát triển cho thấy, ngay từ bước đầu tiên của việc hoạch định chiến lược và chương trình phát triển nhất thiết phải bảo đảm tính đồngbộ giữa kinh tế và xã hội, cùng với sự phát triển kinh tế, phải xây dựng những mặt thuộc hạ tầng của đời sống xã hội, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động. "Trong khi quan tâm đến này mai, cần khảI nhấn mạnh rằng maọi kế hoạch xây dựng và phát triển nhất thiết phải gắn liền với kết hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người đân, mỗi gia đình ngay ngày hôm nay“. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người"chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cảI vật chất và văn hoá tinh thần ; phải có sự thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách nghĩa, cách hành động của con người và coi việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng - cách mạng con người. Nghị quyết ĐạI hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:"Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi cuả công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Thực tiễn đã chứng tỏ rằng không có người lao động chất lượng cao, chúng ta không thể phát triển kinh tế, đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Nhưng cũng chính vì nghèo nàn, lạc hậu kinh tế mà chất lượng của người lao động nước ta chưa cao. Để có thể thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này và tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thì một nước đang còn ở trong tình trạng kém phát triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, có tầm nhìn xa trông rộng phát triển con người, nâng cao dần chất lượng của ngưòi lao động. Các nước công nghiệp mới ở châu á đáng được coi là tấm gương trong lĩnh vực này. Các nước này dẫu đất chật, người đông, sức ép dân số có thể nói là rất lớn, song họ đã sử dụng khá thành công chiến lược nâng cao chất lượng dân cư để giảI tỏa sức ép về dân số, làm cho nó không biến thành nhân tố tiêu cực, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế. Với chiến lược đó và do coi trọng tàI nguyên sức người, đầu tư lớn cho việc nâng cao chất lượng tàI nguyên vô giá đó, các nước này đã đạt được những thành công khá lớn trong phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân nước mình. Con người, tự do và hạnh phúc của con người là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội, với tư cách là lực lượng sản xuất quan trọng hàng đầu - lực lượng lao động và sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần . Con người là động lực chính của sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, của công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói: chủ nghĩa xã hội là do nhân dân xây dựng lấy. Ngày nay, hơn lúc nào hết, sẽ không có bất cứ một sự tiến bộ và phát triển nào trong xã hội nếu không có quan điểm và chính sách đúng đắn để phát huy nhân tố con người. Các quan điểm của Mác, Lênin, Hồ Chí Minh đều khẳng định vai trò quyết định của yếu tố con người trong lực lượng sản xuất, trong cách mạng. Con người bằng sức lực và trí tuệ của mình chế tạo ra công cụ lao động và dùng công cụ đó tác động vào tự nhiên để tạo ra những sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của bản thân mình và xã hội. Trong lực lượng sản xuất, công cụ lao động có một vai trò quan trọng, là thước đo sự chinh phục tự nhiên của con người. Với mục đích luôn muốn tăng năng suất lao động và giảm cường độ lao động, con người đã sáng tạo ra chúng để tăng sức mạnh cơ bắp của mình. Nhờ đó mà công cụ ngày càng được hoàn thiện, hiện đại, nó có thể thay thế hầu hết các thao tác kĩ thuật kếo léo của con người, đó là vai trò to lớn của công cụ lao động. Như vậy, công cụ lao đọng, yếu tố được coi là động của lực lượng sản xuất, chẳng qua cũng chỉ là phân tự nhiên được trí tuệ hoá mà thôi, công cụ lao động càng tinh vi. Điều đó chứng tỏ con người càng hiện đại, càng tách xa thế giới tự nhiên. Con người không chỉ quyết định sự ra đời của công cụ lao động mà còn quyết định cả quá trình vận hành của chúng. Đặc biệt là trong giai đoạn này khi khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin phát triển càng thấy được khả năng sáng tạo to lớn của con người. Nhưng chủ nghĩa xã hội không chỉ có nền sản xuất phát triển mà trong xã hội đó mỗi cá nhân đều đựơc chú ý, quan tâm để phát triển năng lực của mình. Với những con người xã hội chủ nghĩa theo đúng nghĩa của nó chúng ta sẽ xây dựng đựơc xã hội mà trong đó quan hệ giữa con người sẽ là tình thương, lòng nhân ái, tình người thay cho sự áp bức, bóc lột của các chế độ trước. Trong xã hội này, con người và con người sống nhân ái, giúp đỡ nhau cùng phát triển... Vị trí quan trọng của con người trong việc xây dựng xã hội là không thể phủ nhận. Xã hội thể hiện ở những con người cùng mối quan hệ của những người đó với nhau . Do đó, không thể có xã hội mang bản chất xã hội chủ nghĩa khi những thành viên của nó không phải là những con người mang bản chất xã hội chủ nghĩa. IV. Giáo dục con người xã hội chủ nghĩa Thấy được vai trò to lớn của con người trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta phải có một chiến lược toàn diện từ giải quyết việc làm, chăm lo sức khoẻ, đời sống vật chất, tinh thần đền đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt và sử dụng đúng đắn đối với con người. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã hết sức chăm lo sự nghiệp giáo dục, trồng người ngay cả trong kháng chiến và cả lúc kinh tế và đời sống còn khó khăn. Giáo dục toàn diện là một quan điểm lớn về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Phải chú trọng các mặt đạo đức, văn hoá, kĩ thuật, lao động và sản xuất. Coi trọng giáo dục nhân cách, lí tưởng, đạo đức, trí dục, thể dục và mỹ dục. Về văn hoá, phải chú trọng đồng thời việc học tập kiến thức về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, tăng cường dạy công nghệ, ngoại ngữ và tin học. Giáo dục, đào tạo Phải gắn liền dạy người với dạy chữ và dạy nghề, trong đó dạy người là mục tiên cao nhất. Coi trọng trí tuệ, ai năng nhưng phải lấy đạo đức làm gốc. Phải nâng cao chất lượng dạy và học lí luận Một vấn đề lớn là phải tạo ra một khả năng lao động mới từ sức mạnh tổng hoà của con người văn hoá truyến thồng dân tộc. Đó là vấn đề giáo dục con người đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là vấn đề sống còn của giáo dục - đào tạo vì sự trường tồn và phồn vinh của đất nước cuãng như hạnh phúc của mọi người, mọi nhà. Giáo dục là con đường cơ bản, đặc trưng cho sự tồn tại và phát triển của con người và loài người. Giáo dục, từ giáo dục gia đình đến giáo dục nhà trường, là nơi bảo tồn và truyền thụ, phát huy hệ thống giá trị của loài người, dân tộc, gia đình.. Chính ở đây phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, nhân văn và công nhệ, phẩm chất và năng lực. Chúng ta đều nhất trí truyền thống không phải là hoài cổ, phục cổ và hiện đại không phải là Âu hóa, Mĩ hoá. Truyền thống là bản sắc dân tộc, hiện đại là văn minh thời nay. Vấn đề đối với chúng ta là làm sao trên đất nước này có một xã hội văn minh và công bằng mà lại đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Có vậy mới không đánh mất mình, không bị đồng hoá như suốt mấy nghìn năm qua. ở nước ta hiện đại hoá đi liền với công nghiệp hoá. Tinh thần đang nói ở đây là một tư tưởng xuyên suốt tất cả các vấn đề liên quan đến con người và trước hết là giáo dục và đào tạo con người. Đây là cốt lõi trong chiến lược con người của Đảng ta, dân ta. Làm sao ở mỗi con người di sản truyền thống dân tộc luôn luôn rực sáng và tiếp nối phát huy, phát triển di sản ấy. Nền giáo dục của chúng ta phải đạt đựơc các tính chất: khoa học, dân tộc, nhân văn, hiện đại. Tính nhân văn gắn liền với tính dân tộc; khoa học, hiện đại gắn liền với truyền thống. Trong giáo dục nhân cách văn hoá cho ngày hôm nay và ngày mai chứa đựng nội dung phát huy, phát triển tâm lí công nghiệp, văn minh, hiện đại. Trong đó hết sức coi trọng tác phong công nghiệp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100074.doc
Tài liệu liên quan