Tiểu luận Phân tích tính đặc thù của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình

Theo khoản 1 Điều 28, quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên của quyền sở hữu, đó là quyền năng của chủ sở hữu “nắm giữ, quản lý tài sản” , là quyền kiểm soát, chi phối và làm chủ vật đó theo ý chí của mình. Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm giữ tài sản chung, điều đó không có nghĩa cả hai bên phải là người trực tiếp nắm giữ, quản lý tài sản mà cho dù chỉ một bên nắm giữ tài sản thì cả hai bên đều có quyền sử dụng, định đoạt đối với khối tài sản chung đó. Quyền sử dụng là “quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”, quyền định đoạt là “quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó” Đây chính là quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình tuyệt đối. Do tính chất và đặc trưng của quan hệ pháp luật về sở hữu nên một bên chủ thể luôn được xác định và có các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình, đó là chủ sở hữu. Còn chủ thể phía bên kia là tất cả những thành viên trong xã hội ( quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình tương đối).

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10445 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích tính đặc thù của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g nét đặc thù riêng, tìm hiểu nét đặc thù của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình để thấy được vị trí, vai trò của các quy phạm pháp luật hôn nhân gia đình và thấy được ý nghĩa đối với việc đạt mục đích mà Nhà nước đặt ra khi tác động vào quan hệ pháp luật ấy. NỘI DUNG I. Khái quát chung về quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình 1. Khái niệm luật hôn nhân và gia đình Hôn nhân và gia đình là các hiện tượng xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Hôn nhân và gia đình là biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa vợ và chông, giữa cha mẹ, và con cái, giữa các thành viên trong gia đình. Khái niệm “luật hôn nhân và gia đình” có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: là một ngành luật, một môn học hoặc một văn bản pháp luật cụ thể. Luật hôn nhân và gia đình là một ngành luật. Khác với các nước theo hệ thống án lệ (common law), các nước theo hệ thống pháp luật lục địa (civil law) phân chia hệ thống pháp luật quốc gia thành những ngành luật khác nhau dựa vào các nhóm quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh (đối tượng) và phương thức mà nó tác động lên các quan hệ xã hội đó (phương pháp điều chỉnh). - Với ý nghĩa là một ngành luật trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình về nhân thân và về tài sản. - Luật hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là môn học, là hệ thống những khái niệm, quan điểm, nhận thức, đánh giá mang tính chất lý luận về pháp luật hôn nhân và gia đình - Luật hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một văn bản pháp luật cụ thể. Văn bản pháp luật cụ thể là kết quả của công tác hệ thống hóa pháp luật, xây dựng pháp luật, trong đó có chứa đựng những quy phạm của nhiều ngành luật, tuy nhiên nội dung chủ yếu là quy phạm của một ngành luật cơ bản nào đó. 2. Khái niệm quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình Khái niệm: quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình là những quan hệ xã hội mà được các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh thì gọi là quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Về hình thức quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình bao gồm hai nhóm: quan hệ pháp luật về nhân thân và quan hệ pháp luật về tài sản. Các quan hệ này chỉ hạn chế trong phạm vi hẹp là gia đình. Quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình còn tiếp tục tồn tại ngay cả trong trường hợp gia đình không còn tồn tại nữa. Quan hệ nhân thân trong luật hôn nhân và gia đình xuất phát và gắn liền với quan hệ tài sản, đồng thời chiếm vị trí hàng đầu trong toàn bộ hệ thống quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.Quan hệ tài sản trong hôn nhân và gia đình hoàn toàn không có yếu tố hàng hóa- tiền tệ. Quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình không áp dụng thời hạn. Tính chất lâu dài bền vững trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình được quyết định bởi mục đích của quan hệ đó. Thời hiệu kiện không áp dụng đối với quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Các quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình xuất phát từ sự kiện kết hôn, từ huyết thống hoặc nuôi dưỡng là những sự kiện, trạng thái có tính chất đặc biệt không giống như các hợp đồng, nghĩa vụ dân sự. Do đó, trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình thì yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là yếu tố đặc trưng và trong nhiều trường hợp yếu tố tình cảm đó quyết định việc xác lập, tồn tại hay chấm dứt quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Tóm lại, quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình có những nét đặc thù riêng khác với các quan hệ pháp luật khác. Những nét đặc thù, khác biệt của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình thể hiện trên nhiều khía cạnh. Để hiểu rõ đặc điểm của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, cần phải đi làm rõ những nét đặc thù của chúng. II. Tính đặc thù trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình 1. Tính đặc thù thể hiện trong các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình 1.1. Về chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Vấn đề chủ thể của quan hệ pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong khoa học pháp lý. Quan hệ pháp luật là hiện tượng pháp lý luôn gắn liền với chủ thể. Sẽ không có quan hệ pháp luật nếu thiếu đi chủ thể. Trong bất cứ loại quan hệ pháp luật nào thì chủ thể cũng là yếu tố quyết định trạng thái vận động, liên kết giữa các bộ phận hợp thành quan hệ đó. Như ta đã biết, chủ thể của quan hệ pháp luật là những cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ pháp luật được Nhà nước thừa nhận có quyền và nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ pháp luật đó. Từ đây ta có thể đi đến một cách định nghĩa khái quát nhất, cơ bản nhất của chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình: đó là những cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình, được Nhà nước thừa nhận có quyền và nghĩa vụ pháp lý trong mối quan hệ pháp luật đó. Một trong những đặc thù cơ bản của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình là ở chỗ chủ thể của nó chỉ là cá nhân. Điều này cũng nhấn mạnh thêm sự khác nhau giữa luật hôn nhân gia đình và Luật dân sự ( Nếu trong Luật dân sự chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự không chỉ là cá nhân (bao gồm: công dân, người nước ngoài, người không có quốc tịch), mà còn là pháp nhân, tổ chức, hộ gia đình, tổ hợp tác… và trong nhiều trường hợp Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là một chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự nhưng trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình thì chủ thể của nó chỉ có thể là cá nhân. Cá nhân muốn trở thành chủ thể quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình phải có năng lực pháp luật hôn nhân gia đình và năng lực hành vi. Vậy, thế nào là nào là năng lực pháp luật hôn nhân gia đình và năng lực hành vi? Năng lực pháp luật pháp luật hôn nhân gia đình là khả năng của cá nhân có quyền và nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình. Trong một số trường hợp, năng lực pháp luật pháp luật hôn nhân gia đình phát sinh từ lúc sinh ra (Ví dụ: Khả năng có quyền được cha mẹ, anh chị cấp dưỡng và giáo dục). Trong một số trường hợp khác, năng lực pháp luật pháp luật hôn nhân và gia đình phát sinh từ lúc cá nhân đạt một độ tuổi nhất định (Ví dụ: độ tuổi kết hôn: tại khoản 1, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên” mới được kết hôn). Trong trường hợp này năng lực pháp luật và năng lực hành vi cùng phát sinh đồng thời. Đây cũng là một điểm khác của chủ thể trong quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình với chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự ( Khoản 2, Khoản 3, Điều 14 Luật dân sự năm 2005 quy định: ”Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau ”. ”Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết). Một số ý kiến cho rằng, năng lực pháp luật hôn nhân và gia đình trong mọi trường hợp đều phát sinh từ lúc con người sinh ra. Nếu như vậy thì có nghĩa rằng phải thừa nhận quyền kết hôn thông qua người đại diện khi người muốn kết hôn chưa đạt độ tuổi có năng lực hành vi hôn nhân và gia đình. Qua đây ta có thể thấy được sự khác nhau cơ bản giữa năng lực pháp luật hôn nhân và gia đình và năng lực pháp luật nói chung. Năng lực hành vi hôn nhân gia đình của cá nhân là khả năng bằng các hành vi của mình tạo ra cho bản thân những quyền và nghĩa vụ hôn nhân và gia đình, phát sinh khi đạt một độ tuổi nhất định. Về nguyên tắc độ tuổi đó là độ tuổi thành niên. Thế nhưng khả năng thực hiền quyền đó có thể sớm hơn. Luật hôn nhân và gai đình Việt Nam đã có quy định cụ thể và thực tế thì mọi trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên có quyền đồng ý hay không đồng ý làm con nuôi (Điều 71). Những người không có năng lực hành vi do bị bệnh tâm thần thì không có khả năng bằng các hành vi của mình tạo cho bản thân quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ( không thể kết hôn, không thể là người giám hộ….) Đối với những người này thì quyền và nghĩa vụ về nhân thân cũng như tài sản trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình sẽ do những người giám hộ thực hiện cho. Trừ một số trường hợp, quyền kết hôn hoặc li hôn thì không ai có thể thay thế được. 1.2.Về nội dung quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.           Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của công dân là cơ sở làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ chủ thể quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình cho mỗi người. Các quyền và nghĩa vụ đó là nội dung của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.          Các quyền và nghĩa vụ hôn  nhân gia đình có thể là về nhân thân và về tài sản. Trong quyền và nghĩa vụ tài sản còn có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng. Quyền về nhân thân hoàn toàn không có nội dung kinh tế.        Ví dụ, quan hệ pháp luật về quyền nhân thân giữa vợ và chồng bao gồm các quan hệ nhân thân phi tài sản, là quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về lao động, học tập, hoạt động nghề nghiệp, nó còn bao hàm cả tình yêu, sự chung thủy, hòa thuận và kính trọng lẫn nhau, những cư xử đúng đắn và việc dạy bảo con cái,.. dựa trên những quy định của Luật hôn nhân và gia đình, các quy tắc tập quán  của dân tộc và đạo đức xã hội. Trong Điều 18 Luật hôn nhân và gia đình quy định : “Vợ chồng chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc bền vững.” Đây là những yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định hạnh phúc và sự bền vững của gia đình. Cuộc sống vợ chồng tự nhiên và cần thiết phải được xây đắp, duy trì  trên cơ sở sự gắn kết giữa tình yêu và trách nhiệm . Việc quy định này nhằm đề cao đạo lý chung và tạo ra ý thức trách nhiệm cho mỗi người trong quan hệ vợ chồng, không thể bằng các biện pháp cưỡng chế hay quyền lực nhà nước mà điều chỉnh mối quan hệ vốn tế nhị và riêng tư này.Có thể khẳng định rằng,  tình nghĩa vợ chồng là dựa trên sự tự nguyện, ý thức và tình cảm cá nhân, hoàn toàn không có nội dung kinh tế.         Các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình xuất phát từ sự kiện kết hôn, từ truyền thống hoặc nuôi dưỡng là những sự kiện, trạng thái có tính chất đặc biệt không giống như hợp đồng, nghĩa vụ dân sự. Trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình thì yếu tố tính cảm gắn bó giữ các chủ thể là một nét đặc trưng và trong rất nhiều trường hợp yếu tố tình cảm đó quyết định xác lập, tồn tại hay chấm dứt quan hệ hôn nhân và gia đình.  Do vậy, quan hệ nhân thân chiếm một vị trí hàng đầu trong toàn bộ hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình, chiếm ưu thế trong đó.         Quyền và nghĩa vụ tài sản có đặc điểm là nó gắn liền với nhân thân của con người nhất định.  Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình có quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng như sau: “ Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác….” Điều này có nghĩa là, ví dụ: người cha già yếu đang được người con cấp dưỡng không thể chuyển giao quyền này cho ông bạn thân của mình đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn hơn; vợ và chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau, một trong hai người chết sẽ chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đó.        Trong Luật dân sự thì về nguyên tắc không thể chuyển giao cho người khác  nhưng có thể chuyển quyền cho người khác trong trường hợp đặc biệt. Điều 742 của Bộ luật dân sự  có quy định:  “1. Quyền nhân thân quy định tại các điểm a, b và d khoản 2 Điều 738 của bộ luật này không được chuyển giao.      Quyền nhân thân quy định tại điểm c khoản 2  của bộ luật này có thể được chuyển giao với các điều kiện do pháp luật về sở hữu trí tuệ quy định.   2. Quyền tài sản có thể chuyển giao toàn bộ hoặc từng phần theo hợp đồng hoặc để thừ kế, kế thừa.”       Từ đó đi đến kết luận rằng quyền và nghĩa vụ hôn nhân và gia đình không thể chuyển nhượng cho người khác. Ví dụ không thể nhượng quyền nhận tiền cấp dưỡng cho người khác, không thể nhường nghĩa vụ giáo dục con cái cho người khác… còn quyền và nghĩa vụ trong Bộ luật dân thì có thể chuyển giao cho người khác. Ví dụ,  một người sáng tác tác phẩm văn học, nghệ thuật,… nhưng chưa công bố thì có thể cho phép người khác có quyền công bố.       Quyền chủ thể luật hôn nhân và qia đình thực hiện theo các quan hệ pháp luật, theo bản chất pháp lý thì nó là quyền tương đối. Chủ thể trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình luôn luôn đối lập với một chủ thể khác. Ví dụ, như quyền của cha mẹ tồn tại bởi vì có một chủ thể khác liên quan. Đó là đứa con. Mọi quyền hôn nhân của vợ chồng tồn tại vì có hôn nhân hợp pháp; chấm dứt hôn nhân có nghĩa là chấm dứt quyền nhân thân. Rõ ràng quyền chủ thể trong luật hôn nhân và gia đình, đó là quyền tương đối.        Trong một số trường hợp, quyền và nghĩa vụ pháp luật vừa là tương đối vừa là tuyệt đối. Ví dụ cha mẹ có quyền đòi con mình từ những người khác đang chiếm giữ bất hợp pháp trên cơ sở pháp luật hoặc theo quyết định của tòa án.        Quyền của vợ chồng đối với tài sản chung là tương đối đồng thời cũng là tuyệt đối (quyền sở hữu). Điều 28 trong Bộ luật dân sự có viết:    “1. Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung.       Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của cộng đồng.    3. Việc xác lập, giao dịch và chấm dứt giao dịch dân sự  liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận trừ tài sản chung đã chia để đầu tư kinh doanh tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.” Theo khoản 1 Điều 28, quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên của quyền sở hữu, đó là quyền năng của chủ sở hữu “nắm giữ, quản lý tài sản” , là quyền kiểm soát, chi phối và làm chủ vật đó theo ý chí của mình. Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm giữ tài sản chung, điều đó không có nghĩa cả hai bên phải là người trực tiếp nắm giữ, quản lý tài sản mà cho dù chỉ một bên nắm giữ tài sản thì cả hai bên đều có quyền sử dụng, định đoạt đối với khối tài sản chung đó. Quyền sử dụng là “quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”, quyền định đoạt là “quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”  Đây chính là quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình tuyệt đối. Do tính chất và đặc trưng của quan hệ pháp luật về sở hữu nên một bên chủ thể luôn được xác định và có các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình, đó là chủ sở hữu. Còn chủ thể phía bên kia là tất cả những thành viên trong xã hội ( quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình tương đối). Quan hệ pháp luật nhân thân phi tài sản chỉ có thể là tương đối Việc quy định  quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong Luật hôn  nhân và gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ khác trong gia đình, là cơ sở pháp lý để thực hiện các chức năng kinh tế và đáp ứng những nhu cầu vật chất  của các thành viên trong gia đình. Đây cũng là điều kiện để Nhà nước quản lý xã hội, bảo đảm mục tiêu xây dựng và phát triển xã hội vững mạnh, văn minh. 1.3. Về khách thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình Khi nói đến một quan hệ pháp luật, không chỉ nói đến những điểm cơ bản của quan hệ pháp luật đó mà còn phải đề cập đến những yếu tố tạo nên những đặc trưng cơ bản ấy. Một trong những yếu tố tạo nên các đặc trưng ấy là khách thể. Khách thể của quan hệ pháp luật là một phạm trù pháp lý, là một bộ phận cấu thành của quan hệ pháp luật. Đó là những cái mà chủ thể của quan hệ pháp luật hướng tới, tác động vào. Hay nói cách khác đó là những lợi ích vât chất, lợi ích tinh thần mà pháp luật bảo vệ cho các quan hệ pháp luật đó. Khách thể cũng là một trong những yếu tố tạo nên đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Khác với các quan hệ pháp luật khác, nếu như khách thể của quan hệ pháp luật dân sự có thể là đối tượng của thế giới vật chất cũng như những giá trị tinh thần hay khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì khách thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình có thể là lợi ích nhân thân, các hành vi và các vật. Thường thường khách thể có tính chất tổng hợp, bao gồm tất cả các loại trên: • Lợi ích nhân thân: họ tên, ngành nghề, việc làm cũng có khi lợi ích nhân thân cũng la gia đình… • Các hành vi : việc giáo dục là thuộc về hành vi: nó có thể như một quá trình liên tục, trong một khoảng thời gian tương đối dài. Các hành vi đó có thể là: Mọi hoạt động để quản lý tài sản chung củ vợ chồng, mọi việc làm thể hiện sự chăm sóc đối với cha mẹ như việ phục dưỡng … • Vật : Vật với ý nghĩa là một phạm trù pháp lý, là bộn phận của thế giới vật chất, có thể đáp ứng được một nhu cầu nào đó của con người. Vật như là một khách thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, nó có thể là đồ vật trong khối tài sản chung của vợ chồng ( ví dụ như đồ đạc trị giá trong gia đình : đồ cổ, ti vi, …). Nhưng không phải bất cứ bộ phận nào của thế giới vật chất đều được thể hiện dượi dạng là vật, đó là khi nó được chuyển về một hình thức khác hay thể hiện dưới hình thức kháct ví dụ như một số tài sản chung của vợ chồng được thể hiện dưới hình thức một số tiền nào đó ( giả sử như tiền cấp dưỡng) Đối với khách thể của luật hôn nhân và gia đình cần chú ý một đặc điểm khá nổi bật mà người ta hay lầm tưởng đó là khách thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình - Đó là con cái. Trong mọi trường hợp khi nhìn bề ngoài có thể tưởng rằng con cái là khách thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình ( ví dụ tranh chấp giữa cha và mẹ về việc giáo dục con cái hay về việc giao con cho ai đó nuôi….thì thực tế con cái lại là một trong các chủ thể, tranh chấp trong trường hợp đó là việc sử dụng quyền của cha mẹ trong việc giáo dục con cái.). Nhưng thực chất trên thực tế con cái không thể là khách thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. 2. Tính đặc thù thể hiện trong căn cứ làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Căn cứ làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình là sự biến pháp lý nó có thể là sự biến, hành vi… Sự biến là những hiện tượng tự nhiên mà trong những trường hợp nhất định, pháp luật gắn việc xuất hiện của chúng với sự hình thành ở các chủ thể quyền và nghĩa vụ pháp lý. Sự biến pháp lý trong hôn nhân và gia đình có thể xảy ra như việc đứa trẻ ra đời (làm phát sinh quan hệ cha mẹ- con cái) hay 1 bên chồng hoặc vợ chết (làm chấm dứt quan hệ hôn nhân). Hành vi pháp lý là những sự kiện xảy ra theo ý chí của con người là hình thức biểu hiện ý chí của chủ thể pháp luật. Trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình các hành vi pháp lý thưởng xảy ra như việc kết hôn (phát sinh quan hệ vợ chồng), ly hôn (chấm dứt quan hệ vợ chồng), nhận con nuôi ( xác lập quan hệ cha, mẹ và con, giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi) Đối với quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình có một nhóm sự kiện đặc trưng nó làm phục hồi quyền và nghĩa vụ của chủ thể quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình đã bị mất. Nhóm đó gọi là sự kiện pháp lý phục hồi quan hệ pháp luật. Đây chính là nét đặc thù của quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình, tác động của sự kiện pháp lý này là nhằm phục hồi quan hệ hôn nhân,. Ví dụ một người bị tuyên bố là đã chết trở về thì đương nhiên phục hồi quan hệ vợ chồng nếu người đó chưa kết  hôn với người khác hoặc phục hồi quan hệ giữa cha mẹ và các con. Điều 26 luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định: "Khi toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết mà vợ ,chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được phục hồi; trong trường hợp vợ hoặc chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân sau có hiệu lực".. Nét đặc trưng này là không làm phát sinh quan hệ pháp luật mới mà phục hồi lại quan hệ pháp luật đã bị chấm dứt trước đó hoặc tạm thời đình chỉ. Đặc trưng nữa của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình là cấu thành sự kiện làm phát sinh quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình thường có 2-3 sự kiện. Nếu thiếu 1 trong các sự kiện đó thì cấu thành sự kiện sẽ không có hiệu lực. Ví dụ: Kết hôn mà không ghi vào sổ hồ đăng ký kết hôn, không cấp giấy chứng nhận kết hôn thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng Với tư cách là sự kiện pháp lý trong luật hôn nhân và gia đình còn có trạng thái. Trạng thái là mối liên quan xã hội đã và đang tồn tại. Nó có thể là huyết thống, thích thuộc, hôn nhân. Đặc điểm của nó là mang tính lâu dài . Hành vi của những người tham gia quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình nhằm phát sinh thay đổi chấm dứt quyền và nghĩa vụ thường có liên quan đến quyền lợi của người khác trong xã hội. Chính vì thế để làm phát sinh, thay đổi, ,chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình cần thiết phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận sự kiện và hành vi theo thủ tục luật định.Ví dụ: Để công nhận hôn nhân có giá trị pháp lý cần thiết phải có sự đồng ý của 2 bên nam nữ, đồng thời phải đăng ký tại cơ quan đăng ký hộ tịch (điều 11, 12). Để cho việc nhận con nuôi làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi phải có quyết định công nhận việc nuôi con nuôi của UBND xã phường thị trấn nơi thường trú của người nhận nuôi hoặc của đứa trẻ. Tóm lại , quan hệ pháp luật hôn nhân là loại quan hệ xã hội được luật hôn nhân điều chỉnh, có nhiều điểm với quan hệ xã hội khác. Biểu hiện của nét đặc thù được thể hiên qua căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, biểu hiện là sự kiện pháp lý phục hồi, tính trạng thái của quan hệ pháp luật hôn nhân….. III. Bình luận mở rộng  Đi nghiên cứu về quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình ta thấy đối tượng điều chỉnh của nó cũng là hai nhóm: quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giống như Luật dân sự. Đó cũng là lí do vì sao cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất mà một số ý kiến cho rằng Luật hôn nhân và gia đình không phải là một ngành luật độc lập và coi nó là một bộ phận của ngành Luật dân sự. Và có một số ý kiến cho rằng nên nhập Luật hôn nhân và gia đình thành một bộ phận của luật dân sự. Ở các nước phương Tây họ đã làm như vậy ( Ví dụ như ở pháp: luật hôn nhân gia đình là một chế định cụ thể trong Bộ Luật dân sự…) Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện ta thấy ở Việt Nam không thể nhập Luật hôn nhân và gia đình vào Luật dân sự được. Mặc dù, cho đến nay vẫn chưa có một quan điểm thống nhất về vấn đề này nhưng đa số các nhà chuyên môn đều cho rằng Luật hôn nhân và gia đình là một ngành luật độc lập. Quan điểm này được chứng minh dựa trên nền tảng cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa: chế độ công hữu với tư liệu sản xuất quyết định tính chất các quan hệ xã hội, kể cả quan hệ hôn nhân và gia đình. Trở lại với ý kiến cho rằng nên nhập Luật hôn nhân và gia đình thành một bộ phận của luật dân sự. Nếu như vậy, thì việc kết hôn giữa vợ và chồng phải chăng cũng là một “hợp đồng dân sự” ? Các quan quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình xuất phát từ sự kiện kết hôn, từ huyết thống hoặc từ nuôi dưỡng là những sự kiện, trạng thái có tính chất đặc biệt không giống như hợp đồng dân sự hay nghĩa vụ dân sự. Nội dung chính của pháp luật Dân sự là quan hệ tài sản còn nội dung chính của pháp luật hôn nhân và gia đình là quan hệ nhân thân phi tài sản. Một sự khác biệt nữa là quan hệ pháp luật tài sản trong luật Dân sự là quan hệ hàng hoá, tiền tệ và có tính chất đền bù ngang giá, còn quan hệ tài sản trong luật hôn nhân và gia đình không mang tính chất ấy. Trong quá trình xây dựng dự thảo Bộ luật dân sự Việt Nam, đã có một số ý kiến cho rằng cần “nhập” các quan hệ hôn nhân và gia đình vào các quan hệ dân sự nói chung và coi nó thuộc đối tượng điều chỉnh của bộ luật dân sự vì : Để tránh sự “trùng chéo” của các văn bản pháp luật điều chỉnh cùng một vấn đề là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Để phù hợp với xu thế chung của thời đại. Nhiều quốc gia khi ban hành Bộ luật dân sự đã “thiết kế” các quan hệ hôn nhân và gia đình chỉ là một chế định do dân luật điều chỉnh, với quan điểm thuần túy coi “hôn nhân” cũng chỉ là một khế ước do các bên thỏa thuận (hợp đồng) trên nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện. Việc áp đặt cách thức điều chỉnh của pháp luật dân sự đối với quan hệ hôn nhân và gia đình là phù hợp,…như giải quyết ly hôn dựa vào lỗi của vợ chồng hoặc khi ly hôn mà bên nào có lỗi sẽ phải bồi thường phí tổn cho bên kia… Ngược lại cũng có nhiều ý kiến cho rằng không nên “nhập” các quan hệ hôn nhân và gi đình vào các quan hệ dân sự và coi nó thuộc đối tượng điều chỉnh của Bộ luật dân sự vì: theo truyền thống lập pháp ở nước ta từ năm 1945 đến nay, các văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình được nhà nước ta ưu tiên ban hành theo thời gian phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội. Nó được ban hành từ rất sớm, chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật và đời sống xã hội Đặc biệt, các quan hệ hôn nhân và gia đình có những nét riêng biệt: đó là yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là một nét đặc trưng. Chính yếu tố này đã quyết định việc các chủ thế xác lập, duy trì hay chấm dứt quan hệ hôn nhân và gia đình (kết hôn, ly hôn…). Các sự kiện pháp lý nằm làm phát sinh quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình với tính chất đặc biệt: dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích tính đặc thù của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình Lấy ví dụ chứng minh cho tính đặc thù đó (9đ).doc
Tài liệu liên quan