Tiểu luận Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

MỤC LỤC

 

A- ĐẶT VẤN ĐỀ 2

 

B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2

I. Nhận thức của Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại 2

1. Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc 2

2. Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh thời đại 3

3. Tính tất yếu của việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại 3

II. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại 4

1. Sự gắn bó giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản thế giới 4

2. Vai trò của Đảng trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại 5

3. Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân dân thế giới và không quên nghĩa vụ quốc tế 6

4. Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng “làm bạn với tất cả các nước dân chủ” 7

III. Phát huy bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh ngày nay 7

 

C- KẾT THÚC VẤN ĐỀ 9

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 10

 

 

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8750 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A- ĐẶT VẤN ĐỀ Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam do Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng đầy gian khổ, hy sinh và đã giành được nhiều thắng lợi to lớn. Một trong những nguyên nhân tạo nên thắng lợi đó là chúng ta đã biết kết hợp tài tình sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Ngày nay, trong bối cảnh Việt Nam đang chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải năm vững bài học trên đây, phải biết kết hợp đúng đắn và khéo léo sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nhân tố nội lực và nhân tố ngoại lực để tạo ra tổng hợp lực nhằm thúc đẩy đất nước phát triển, hội nhập thành công và bên vững vào nền kinh tế quốc tế. Xuất phát từ nhận thức trên đây, em chọn vấn đề: “Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Do tầm hiểu biết còn hạn chế, trong bài làm không tránh khỏi những hạn chế, em rất mong được sự góp ý và giúp đỡ của thầy cô. B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Nhận thức của Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại được hình thành qua một quá trình lâu dài, từ khi Người còn học tập trong nước và sau đó là bôn ba ra nước ngoài tìm đường cứu nước, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, hoạt động thực tiễn và lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Và nhận thức này có sự phát triển từ thấp đến cao. Nhận thức đó được hình thành trên cơ sở nêu cao truyền thống ngàn đời của dân tộc, nắm bắt chính xác đặc điểm, yêu cầu của thời đại, tiếp thu quan điểm của Mác – Lênin về đoàn kết quốc tế. 1. Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc Từ rất sớm, Hồ Chí Minh (HCM) đã nhận thức được rằng sức mạnh dân tộc được tạo thành từ những giá trị truyền thống dân tộc. Trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động sản xuất, nhân dân Việt Nam luôn thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường, tinh thần đoàn kết, sự thông minh sáng tạo, ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường… và đặc biệt là tinh thần yêu nước của cả dân tộc. Từ đó Người có niềm tin vững chắc vào sức mạnh dân tộc. Điều này được thể hiện trong các tác phẩm văn chương của Người như: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sục sôi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm…” Mặc dù đánh giá rất cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc nhưng HCM đã nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc vận động cứu nước giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Từ đó, Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. 2. Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh thời đại Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, hoà mình vào đời sống của quần chúng lao động, Hồ Chí Minh đã tân mắt chứng kiến cảnh ngộ bị áp bức, bóc lột, bị hành hạ của giai cấp vô sản ở các nước chính quốc và nhân dân lao động, Người đã đã phát hiện ra mối tương đồng giữa các dân tộc bị áp bức: “…dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Điều này đem đến cho Người nhận thức về bạn và thù: tầng lớp cần lao dù ở đâu cũng là bạn, bọn đế quốc thực dân dù núp dưới hình thức nào cũng là kẻ thù của cách mạng. Sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, đã có một bước chuyển quan trọng trong con người Nguyễn Ái Quốc, từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản. Đồng thời, bản luận cương cũng cho Người một nhận thức quan trọng về sức mạnh thời đại. Đó là sức mạnh của thời đại cách mạng vô sản, bao gồm sức mạnh của lí luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác–Lênin; sức mạnh của giai cấp vô sản với đội tiên phong là Đảng Cộng sản và sức mạnh của những kinh nghiệm trong Cách mạng Tháng Mười Nga. Theo Người, phát huy sức mạnh thời đại là phải biết huy động sức mạnh của những nhân tố thời đại phục vụ cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân lên sức mạnh dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ và xây dựng đất nước. Cùng với sự phát triển của lịch sử, trong quá trình hoạt động thực tiễn, khi trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhận thức về sức mạnh thời đại của HCM có những bổ sung quan trọng: Sau chiến tranh thế giới thứ hai, sự hình thành, tồn tại và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ là những nhân tố mới hình thành nên sức mạnh thời đại. 3. Tính tất yếu của việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tức là kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp vô sản, phải xây dựng được khối liên minh chiến đấu giữa vô sản ở chính quốc với lao động ở thuộc địa, nhằm cùng một lúc tiến công chủ nghĩa đế quốc ở cả hai đầu. Đây là một yêu cầu tất yếu trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Bởi lẽ, các nước đế quốc không hành động đơn độc mà có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc đàn áp các cuộc nổi dậy ở thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động cả ở chính quốc và thuộc địa. Nhận thức của HCM về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được bổ sung và phát triển ở giai đoạn cách mạng mới. Theo Người, phát huy sức mạnh thời đại là phải biết huy động các sức mạnh của các trào lưu cách mạng trên thế giới phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc trong xây dựng và phát triển đất nước. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN) ra đời; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ càng phát triển mạnh mẽ, tri thức con người có những bước tiến lớn trong chinh phục và làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình. Do vậy, HCM chỉ rõ nhiệm vụ của toàn thể dân tộc Việt Nam là phải ra sức học tập để chiếm lĩnh được đỉnh cao khoa học, công nghệ, tận dụng sức mạnh mới của thời đại. II. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại 1. Sự gắn bó giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản thế giới Thời đại mới là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Đặc điểm của thời đại mới là chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra mối quan hệ quốc tế ngày càng rộng lớn giữa các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người. Xu thế của thời đại là vận động và phát triển theo con đường cách mạng vô sản mà giai cấp công nhân với đội tiên phong là Đảng cộng sản đứng ở vị trí trung tâm của thời đại. Nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại mới, Nguyến Ái Quốc đã chỉ ra: “Thời đại của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại một nhóm nước lớn do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ thuộc, bởi vậy công cuộc giải phóng các nước và các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Do đó mà trước hết nảy ra khả năng và sự cần thiết phải có liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản của các nước đế quốc để thắng kẻ thù chung”. Trên cơ sở đó, Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động không ngừng nghỉ để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người đã kiến nghị với Ban phương đông của Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm tăng cường sự hiểu biết giữa các dân tộc phương Đông và đề nghị phải “làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này”. Người luôn hướng tới việc thành lập liên minh giữa các dân tộc thuộc địa với nhau và giữa các dân tộc thuộc địa với nhân dân lao động ở các nước chính quốc để tạo nên sức mạnh to lớn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc. Kế thừa sự phê phán của Lênin về những sai lầm của Becxtanh và Cauxky – các lãnh tụ Quốc tế II, HCM đã nhận thức được rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có một khả năng to lớn và vai trò chiến lược đối với thắng lợi của cách mạng vô sản, và nếu không có sự tham gia của các dân tộc thì không thể có cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở những nhận thức đúng đắn ấy, Hồ Chí Minh đã xác định rõ đường lối của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường của cách mạng vô sản. Tức là cách mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó; biết dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong một mặt trận thống nhất; có sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới. Thực tiễn cách mạng Việt Nam bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã chứng minh đường lối đó là hoàn toàn đúng đắn. 2. Vai trò của Đảng trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại Để có thể kết hợp sức mạnh dân tộ với sức mạnh thời đại, HCM cho rằng các Đảng cộng sản phải kiên trì đấu tranh chống mọi khuynh hướng cơ hội tả và hữu, chủ nghĩa vị kỉ dân tộc, chủ nghĩa Sôvanh, những âm mưu chia rẽ dân tộc, kỳ thị chủng tộc,…;đồng thời phải tiến hành có hiệu quả về giáo dục chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và lao động nước mình. Người viết: “Rằng đây bốn biển là nhà; Vàng đen trằng đỏ đều là anh em”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng HCM với Đảng ta đã thực hiện: Thứ nhất, giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản cho dân tộc, nghĩa là phân biệt rõ sự khác nhau giữa bọn thực dân, đế quốc với nhân dân lao động yêu chuộng hòa bình và công lý ở các nước tư bản; Thứ hai, đấu tranh chống mọi khuynh hướng cơ hội trong nội bộ dân tộc vừa củng cố, vừa tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc đang đấu tranh cho mục tiêu chung, vì hòa bình độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Sau khi giành được độc lập, theo HCM, con đường tiến lên của các dân tộc thuộc địa chỉ có thể là con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người viết: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thằng lợi hoàn toàn”, vì chỉ có CNXH mới đảm bảo cho các dân tộc được tự do độc lập thực sự. Do vậy, việc phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghãi yêu nước xã hội chủ nghĩa và việc kết hợp giáo dục lòng yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội nhằm củng cố tình đoàn kết quốc tế trên những nguyên tắc của chủn nghĩa Mác-Lênin đã trở thành một nội dung mới của việc kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại 3. Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân dân thế giới và không quên nghĩa vụ quốc tế Đánh giá mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, HCM luôn khẳng định sức mạnh dân tộc là nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định còn nguồn lực ngoại sinh là sức mạnh thời đại chỉ phát huy được tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy, trong đấu tranh cách mạng, HCM luôn luôn nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Chính vì đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc mà HCM đã đi tới luận điểm sáng tạo: cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc mà trong điều kiện lịch sử nhất định, với tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, có thể và cần thiết phải chủ động tiến hành trước và bằng thắng lợi của cách mạng ở thuộc địa mà góp phần giúp đỡ cách mạng vô sản ở chính quốc. Muốn tranh thủ được sức mạnh thời đại cần thiết phải có đường lối độc lập tự chủ đúng đắn. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, để tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới, Đảng ta và Chủ tịch HCM đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất của dân tộc mình với bốn mục tiêu của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; tức là không để cho đế quốc Mỹ biến cuộc chiến tranh Việt Nam thành một cuộc xung đột có nguy cơ lan rộng ra toàn khu vực, kéo theo sự dính líu của nhiều nước. Nhờ đó, chúng ta đã nhận được sự giúp đỡ to lớn cả về vật chất và tinh thần của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước XHCN anh em. Tranh thủ cao nhất sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân loại tiến bộ, nhân dân ta đồng thời tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Chủ tịch HCM nhiều lần nhắc nhở: phải coi cuộc đấu tranh của bạn cũng như cuộc đấu tranh của ta, phải coi “giúp bạn tức là tự giúp mình”. Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã thực hiện trong đường lối chính trị của mình sự kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình thành Mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương phối hợp và giúp đỡ nhau cùng chiến đấu. 4. Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng “làm bạn với tất cả các nước dân chủ” Hồ Chí Minh là người đầu tiên đặt nền móng cho tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân nhiều nước trên thế giới. Sau khi nước ta giành lại được độc lập, Người đã nhiều lần tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để gìn giữ hoà bình”; “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bè bạn”. Có thể xem những tuyên bố đó là tư tưởng đặt nền móng cho phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá công tác đối ngoại của đảng và nhà nước ta hiện nay. Trong quan hệ quốc tế mở rộng, HCM đã giành sự ưu tiên cho mối quan hệ với các nước láng giềng gần gũi trong khu vực, trước hết là Lào và Campuchia nhằm hình thành liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung. Đối với nước lớn Trung Quốc, phát huy truyền thống hoà hiếu của cha ông, Chủ tịch HCM đã hoạt động không mệt mỏi nhằm xây đắp nên mối quan hệ “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Với trí tuệ thiên tài, cảm quan chính trị sắc bén, lòng yêu nước nồng nàn, khát vọng giải phóng dân tộc cháy bỏng, HCM đã tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về đoàn kết quốc tế, vận dụng linh hoạt vào điều kiện nước ta. HCM luôn luôn đặt tư duy của mình trong dòng chảy của thời đại, gắn cách mạng nước ta với cách mạng vô sản thế giới của giai cấp công nhân và cách mạng giải phóng của các dân tộc thuộc địa, nên đã định ra được đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta vượt qua mọi khó khăn đi tới những thắng lợi ngày càng vẻ vang. III. Phát huy bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh ngày nay Ngày nay, chúng ta sống trong một thế giới đầy biến động, trật tự cũ đã thay đổi trật tự mới chưa hình thành. Tình hình thế giới diễn biến phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc và thay đổi khôn lường. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, vùng Đông Nam Á là nơi có sự đan xen về lợi ích và mâu thuẫn giữa các cường quốc trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là về chủ quyền lãnh thổ và an ninh biển Đông. Bên cạnh đó là xu thế toàn cầu hoá ngày càng phổ biến, quan hệ giữa các nước chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Cách mạng khoa học phát triển như vũ bão, hiểu biết của con người về thế giới ngày càng mở rộng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996), trên cơ sở phân tích những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới và những xu thế trong quan hệ quốc tế, đã xác định nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hòa bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn để phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, chúng ta cần vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại. 1. Hồ Chí Minh luôn gắn cách mạng nước ta với cách mạng vô sản thế giới của giai cấp công nhân và cách mạng giải phóng của các dân tộc thuộc địa, tạo ra được đường lối chiến lược đúng đắn, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi tới thắng lợi. Phát huy bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn xác định cách mạng Việt Nam là bộ phận không thể tách rời với cách mạng thế giới, Việt Nam tiếp tục đoàn kết ủng hộ các phong trào cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại. Đảng và nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh là một đóng góp thiết thực vào đổi mới chủ nghĩa xã hội, vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân thế giới. Mục tiêu bất biến của dân tộc ta là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. 2. Hồ Chí Minh luôn nêu cao nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự cường, chủ trương tận lực phát huy sức mạnh dân tộc-sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước…trên cơ sở sức mạnh bên trong chúng ta mới có thể tranh thủ và tận dụng được sự đồng tình của lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng mỗi thời kỳ. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, chúng ta phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ và gia nhập thị trường quốc tế, nhưng trên cơ sở độc lập tự chủ, phát huy đẩy đủ các yếu tố nội lực, dựa vào các nguồn lực trong nước là chính. Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đề ra tư tưởng chỉ đạo: “tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa…nâng cao ý chí tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”. Đó là biểu hiện sự vận dụng sáng tạo tư tưởng HCM. 3. Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho đường lối ngoại giao mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa…trên nguyên tắc tôn trọng độc lập , chủ quyền toàn diện lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giải quyết tranh chấp bằng hòa bình. Tư tưởng ấy tạo tiền đề thuận lợi cho công tác đối ngoại của Đảng và nhân dân ta trong thời kỳ mới, chúng ta đã từng bước hội nhập khu vực và thế giới (gia nhập ASEAN, WTO…), mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia (có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước trên thế giới), qua đó góp phần nâng cao vị thế củaViệt Nam trên trường quốc tế. Hiện nay cục diện thế giới và khu vực đang tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, chúng ta phải xử lý khéo léo các mối quan hệ, nghĩa là phải chủ động thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa; cải thiện và mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước. Cơ sở khách quan của đa dạng hóa đa phương hóa là sự trùng hợp về lợi ích, do đó có thể tham gia liên kết cả về kinh tế thương mại, chính trị và an ninh. Mục tiêu của ta là nhằm thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định hợp tác và phát triển; nhưng không để các hình thức liên kết này trói buộc, hạn chế việc ta triển khai chính sách đối ngoại độc lập tự chủ. Thực hiện tốt đường lối đối ngoại đó sẽ tạo thế đứng lâu dài và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. C- KẾT THÚC VẤN ĐỀ Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được vận dụng và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nội dung cuả tư tưởng này rất phong phú, sâu sắc về thời đại, về sự kết hợp các sức mạnh này trong thực tiễn đấu tranh. Tư tưởng của Người còn thấm đượm chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, tính cách mạng triệt để nên ảnh hưởng to lớn đến cuộc đấu tranh lâu dài cho nhân dân các nước vì sư nghiệp “Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người”. Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới thầy cô giáo bộ môn đã cung cấp cho em một lượng kiến thức lớn, giúp em có thể hoàn thành đề tài này./ TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003. Nguyễn Khánh Bật (chủ biên), Những bài giảng về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội, 1998. TS. Nguyễn Mạnh Tường (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh - một số nhận thức cơ bản, Nxb CTQG, Hà Nội, 2009. Nguyễn Bá Linh, Tư tưởng Hồ Chí Minh - Một số nội dung cơ bản, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. Lê Sỹ Thắng, Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb KHXH, Hà Nội, 1991.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhận thức của Hồ chí minh về cách mạng dân tộc và sức mạnh thời đại.doc
Tài liệu liên quan