Tiểu luận Phân tích và đánh giá ưu nhược điểm của hệ thống cơ quan giải quyết tranh chấp của ASEAN

Theo đại từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản văn hóa – thông tin năm 1998 định nghĩa “cơ chế” là cách thức sắp xếp, tổ chức để làm đường hướng cơ sở theo đó mà thực hiện. Trên cơ sở đó có thể hiểu cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại là tổng hợp các yếu tố làm cơ sở đường hướng cho việc giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại.

Như chúng ta đã biết thì cơ chế giải quyết tranh chấp bao gồm các yếu tố cấu thành cơ bản sau: cơ quan giải quyết tranh chấp; các nguyên tắc giải quyết tranh chấp; trình tự, thủ tục và thi hành phán quyết. Về cơ bản thì cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của ASEAN được quy định trong Nghị định thư năm 2004 có nhiều điểm tương đồng với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Thực chất, đó là sự mô phỏng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với một vài thay đổi cho phù hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của ASEAN.

 

doc8 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4496 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích và đánh giá ưu nhược điểm của hệ thống cơ quan giải quyết tranh chấp của ASEAN, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trải qua hơn 40 năm thành lập và phát triển, ASEAN đã ngày càng hoàn thiện và vững mạnh hơn, sự hợp tác giữa các quốc gia được đẩy mạnh không ngừng, góp phần nâng cao vị thế của ASEAN trên trường quốc tế. Tuy nhiên trong quá trình hợp tác cùng phát triển của các nước thành viên thì để đi đến một ý chí thống nhất về xây dựng và phát triển ASEAN. ASEAN đã phải cố gắng giải quyết những tranh chấp, bất đồng xảy ra trong các lĩnh vực giữa các quốc gia thành viên, trong đó có những tranh chấp kinh tế- thương. Vì vậy hoạt động giải quyết tranh chấp của ASEAN cũng đã dần được thể chế hóa và hoàn thiện trong khuôn khổ pháp lí của tổ chức này. NỘI DUNG I. Phân tích và đánh giá ưu nhược điểm của hệ thống cơ quan giải quyết tranh chấp 1. Hệ thống các cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại - Hội nghị quan chức kinh tế cao cấp SEOM Hội nghị quan chức cao cấp SEOM có thẩm quyền thành lập ban hội thẩm; Thông qua báo cáo của Ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm; Giám sát việc thực hiện các phán quyết đã được SEOM thông qua; Cho phép việc hoãn thi hành các nhượng bộ hay các nghĩa vụ khác theo quy định của các hiệp định của ASEAN. - Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN có thẩm quyền thành lập cơ quan phúc thẩm gồm 3 thành viên trong số 7 thành viên của Cơ quan phúc thẩm thường trực do AEM bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm. - Ban thư ký ASEAN Ban thư ký ASEAN có trách nhiệm giúp cho Ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm, đặc biệt trong các vấn đề pháp lý, dịch sử có liên quan cũng như những trợ giúp về mặt kỹ thuật; trợ giúp cho SEOM trong việc giám sát quá trình thực thi các phán quyết, đồng thời là nơi tiếp nhận tất cả các tài liệu có liên quan đến vụ tranh chấp. 2. Phân tích và đánh giá ưu nhược điểm của hệ thống cơ quan giải quyết tranh chấp. a. Về ưu điểm Thứ nhất, Nghị định thư năm 2004 đã sử dụng các nguyên tắc đồng thuận phủ quyết cho việc thành lập Ban Hội thẩm, thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và cơ quan phúc thẩm. Điều này là một cải tiến quan trọng so với Nghị định thư năm 1996 vì nó đảm bảo cho việc tất cả các tranh chấp đã thông qua tham vấn mà không có kết quả thì đều có thể giải quyết tại Ban Hội thẩm. Hơn nữa, trong Nghị định thư năm 2004, Ban Hội thẩm là cơ quan trực tiếp xem xét và giải quyết tranh chấp, đưa ra các khuyến nghị và kết luận cho tranh chấp đó, chứ không chỉ dừng lại ở mức độ xem xét và tìm kiếm các tài liệu liên quan đến vụ tranh chấp, rồi trình báo cáo lên SEOM để cơ quan này xem xét và ra quyết định. Thứ hai, ASEAN còn có Cơ chế tham vấn giải quyết các vấn đề thương mại và đầu tư (ACT) dựa theo mô hình của EU. Đây là một nỗ lực nhằm tăng cường hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp trong ASEAN. Theo cơ chế này, các doanh nghiệp có thể chủ động khiếu nại trực tiếp tới các cơ quan quản lý Nhà nước qua mạng Internet khi gặp phải trở ngại trong quá trình thực thi các hiệp định của ASEAN. ACT còn cho phép doanh nghiệp bảo vệ lợi ích từ các chương trình hội nhập kinh tế trong ASEAN như chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT), chương trình ưu đãi hội nhập (AISP). Theo cơ chế này các nước thành viên ASEAN sẽ cử ra một cơ quan đầu mối nhận và xử lý khiếu nại của doanh nghiệp và điều phối, hợp tác với cơ quan hữu quan trong quá trình xử lý thông tin. Ở Việt Nam cơ quan đầu mối là Vụ chính sách thương mại đa biên. Ưu điểm lớn nhất của cơ chế này là thời hạn giải quyết khiếu nại. Theo quy định nước nhận đơn khiếu nại phải có phản hồi cho doanh nghiệp trong vòng bảy ngày xem liệu có chấp nhận đơn không. Một khi được chấp nhận thì nước bị khiếu nại phải giải quyết trong vòng 30 ngày. Với thời gian linh hoạt cho phép tối đa thêm 30 ngày. Như vậy việc giải quyết có thể nhanh hơn nhiều so với một quy trình khiếu nại thông thường qua đường công văn. b. Về nhược điểm Thứ nhất, phạm vi hoạt động của Cơ quan Phúc thẩm còn hẹp và chưa rõ ràng. Theo như cơ chế giải quyết tranh chấp hiện nay của ASEAN, cơ quan Phúc thẩm chỉ xem xét việc áp dụng và giải thích pháp luật của Ban Hội thẩm chứ không xem xét toàn bộ các vấn đề liên quan đến vụ tranh chấp. Thứ hai, có thể thấy, thủ tục giải quyết tranh chấp bao gồm 4 giai đoạn: Tham vấn, hội thẩm, phúc thẩm và thi hành phán quyết. Nhưng Trên thực tế kể từ khi có Nghị định thư đến nay, một số vấn đề tranh chấp đã phát sinh giữa các nước ASEAN, trong đó có những vụ liên quan đến Việt Nam, các vụ tranh chấp đều được giải quyết ngay từ giai đoạn tham vấn, hoà giải mà chưa bao giờ phải thành lập ban hội thẩm. Trong khi cơ quan giải quyết tranh chỉ thực hiện thẩm quyền của mình đến khi vụ việc được trình lên SEOM. Vì vậy, các cơ quan này không phát huy hết được chức năng giải quyết tranh chấp của mình. Mặt khác, cần tăng cường vai trò của hệ thống cơ quan giải quyết tranh chấp trong khâu tham vấn, hòa giải để có những phán quyết đúng đắn cho những vụ tranh chấp. Thứ ba, một thực tế là cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN đã ưu tiên trong việc lựa chọn thành viên của Ban Hội thẩm trong các nước thành viên ASEAN, bên cạnh đó là triển vọng cho các ứng cử viên khác đến từ quốc gia ngoài ASEAN. Quy định này không tạo ra được một lợi thế gì trong mối quan hệ giữa các cá nhân đó, tuy nhiên nếu quá coi trọng điều này, sẽ bỏ qua các cá nhân thực sự có năng lực và trình độ hơn, cũng như làm hạn chế cơ hội để học hỏi những cá nhân có điều kiện kinh nghiệm đến từ các quốc gia khác, đặc biệt là từ các quốc gia phát triển. II. Phân tích và đánh giá ưu điểm và hạn chế của trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp: 1. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp Giai đoạn thứ nhất tham vấn, trung gian, hòa giải: Ở giai đoạn này giai quyết hòa bình các tranh chấp thong qua thương lượng hữu nghị giữa các bên. Khi có ý kiến phẩn đối của các nước thành viên khác về bất cứ vấn đề nào ảnh hưởng đến việc thực hiện, giải thích, áp dụng hiệp định hoặc áp dụng hiệp định liên quan, các nước thành viên phải tạo cơ hội thỏa đáng cho việc giải quyết tham vấn và giải quyết những bất đồng đó trên cơ sở thiện chí, hữu nghị giữa các bên. Yêu cầu tham vấn này phải được trả lời trong thời gian quy định. Trước khi yêu cầu thành lập ban hội thẩm, các bên tiến hành hòa giải hoặc thông qua bên thứ ba để giải quyết tranh chấp. Biện pháp trung gian, hòa giải hoặc dàn xếp có thể diễn ra bất cứ lúc nào khi các bên đồng ý tiến hành nó . Giai đoạn thứ hai, Giải quyết tranh chấp tại ban hội thẩm: Nếu các nước thành viên được yêu cầu tham vấn không trả lời yêu cầu trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, hoặc không tiến hành tham vấn trong vòng 30 ngày kê từ ngày nhận được yêu cầu hoặc cuộc tham vấn giữa các bên tranh chấp không giải quyết được trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn thì vấn đề này sẽ được trình lên SEOM. Ban hội thẩm sẽ được thành lập trong vòng 45 ngày dù tại cuộc họp SEOM hay bằng cách gửi văn bản lấy ý kiến kể từ ngày tranh chấp được trình lên SEOM gồm 3 thành viên để xem xét khách quan vụ tranh chấp theo nguyên tắc họp kín. Giai đoạn thứ ba, giải quyết tranh chấp tại cơ quan phúc thẩm: AEM là cơ quan phúc thẩm và bổ nhiêm các thành viên của cơ quan này. Cơ quan phúc thẩm không xem xét lại nội dung tranh chấp mà chỉ giới hạn các vấn đề pháp luật trong báo cáo của ban hội thẩm và các giải thích pháp lý của ban hội thẩm. cơ quan phúc thẩm xem xét và giải quyết kháng cáo trong thời hạn 60 ngày (có thể được gia hạn nhung không quá 90 ngày) kể từ ngày các bên tranh chấp thông báo chính thức về quyết định kháng cáo đến ngày cơ quan phúc thẩm trình báo cáo. Cơ quan phúc thẩm có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc bác bỏ các kết luận và kiến nghị của ban hội thẩm. Giai đoạn thứ tư, thi hành phán quyết Ta thấy cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN được hoàn thiện dần từ nghị định thư 1996 đến nghị định thư 2004 và hiến chương ASEAN với mục đích là giải quyết hòa bình các tranh chấp phát sinh, ngăn ngừa những tình thế có thể đe dọa hòa bình, an ninh khu vực. 2. Ưu điểm Thứ nhất, Nghị định thư 2004 đã sử dung nguyên tắc đồng thuận phủ quyết cho việc thành lập ban hội thẩm, thông qua báo cáo của ban hội thẩm vào cơ quan phúc thẩm, đây là điểm cải tiến so với nghị định thư 1996. Nguyên tắc này đảm bảo cho tất cả các tranh chấp đã được thông qua tranh chấp mà không có kết quả thì đều có thể được giải quyết tại ban hội thẩm. Hơn nữa ban hội thẩm là cơ quan trực tiếp xem xét và tìm kiếm các tài liệu liên quan đến vụ tranh chấp rồi trình báo lên SEOM để cơ quan này xem xét và ra quyết định, những thành viên của ban hội thẩm là những cá nhân được tuyển chọn từ những người có đủ tài năng, trình độ cũng như cơ chế hoạt động để đảm bảo tính khách quan, vô tư khi xem xét, giải quyết, cùng với việc cơ quan phúc thẩm được thành lập chuyên trách và thường trực sẽ giúp cho việc giải quyết tranh chấp được thực hiện một cách chính xác, hiệu quả và tạo được long tin của các bên tranh chấp. Thứ hai, Các giai đoạn giải quyết tranh chấp này được thiết kế gần giống nhu các giai đoạn của hoạt động xét xử, điều này làm cho hoạt động giải quyết tranh chấp có tính pháp lý hơn. Thứ ba, Cơ chế giải quyết tranh chấp của Asean về kinh tế- thương mại vừa mang tính hòa giải, vừa mang tính tài phán Ngoài ra, các lĩnh vực áp dụng biện pháp này cũng được mở rộng và quy định thực hiện theo trình tự, nguyên tắc cụ thể, câc biện pháp giám sát quá trình thực thi câc phán quyết được đưa ra. Đây sẽ là một sân chơi lành mạnh cho các nước thành viên để giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, hiệu quả và sẽ là đòn bẩy cho những quốc gia kém phát triển hơn trong việc đàm phán với các quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh hơn trong ASEAN với niềm tin mạnh mẽ rằng các thỏa thuận sẽ được thực thi. 3. Hạn chế của trình tự giải quyết tranh chấp Như đã nêu ở trên, ASEAN đã mô phỏng gần như hoàn toàn các giai đoạn giải quyết tranh chấp của WTO, chỉ có một số sự thay đổi không mang tính sang tạo, điều này làm cho cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN gặp phải những hạn chế mà WTO gặp phải. Đó là, thời gian giải quyết tranh chấp quá dài, tổng thời gian giải quyết tranh chấp là gần 15 tháng (ngoài ra một số trường hợp có thể ra hạn). Điều này làm cho tình trạng vi phạm pháp luật theo các hiệp định được ký kết trong ASEAN sẽ bị duy trì gây thiệt hại cho các nước thành viên, khiến cho các bên tranh chấp tốn kém về tài chính trong việc duy trì quá trình giải quyết tranh chấp. Mặc dù 9/10 các nước thành viên của ASEAN là thành viên của WTO, nhưng việc mô phỏng gần như hoàn toàn các giai đoạn giải quyết tranh chấp của tổ chức này làm cho cơ chế giải quyết của ASEAN thiếu đi sự độc đáo riêng của nó. Trong quá trình họp của Ban hội thẩm hay của cơ quan phúc thẩm để giải quyết tranh chấp đều phải họp kín, các nước thành viên chỉ tham dự các phiên họp khi được mời. Điều này sẽ dẫn đến việc nghi ngờ tính công khai, minh bạch trong quá trình giải quyết. Khá nhiều thủ tục pháp lý. Gây ra nhiều vướng bận về khâu giải quyết. III. So sánh cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Theo đại từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản văn hóa – thông tin năm 1998 định nghĩa “cơ chế” là cách thức sắp xếp, tổ chức để làm đường hướng cơ sở theo đó mà thực hiện. Trên cơ sở đó có thể hiểu cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại là tổng hợp các yếu tố làm cơ sở đường hướng cho việc giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại. Như chúng ta đã biết thì cơ chế giải quyết tranh chấp bao gồm các yếu tố cấu thành cơ bản sau: cơ quan giải quyết tranh chấp; các nguyên tắc giải quyết tranh chấp; trình tự, thủ tục và thi hành phán quyết. Về cơ bản thì cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của ASEAN được quy định trong Nghị định thư năm 2004 có nhiều điểm tương đồng với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Thực chất, đó là sự mô phỏng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với một vài thay đổi cho phù hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của ASEAN. Cụ thể: 1. Điểm giống nhau Thứ nhất, về phạm vi áp dụng: cả hai cơ chế giải quyết tranh chấp đều được áp dụng để giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại phát sinh giữa các thành viên của tổ chức này. Thứ hai, về thẩm quyền của cơ quan giải quyết tranh chấp: cơ quan giải quyết tranh chấp có quyền quyết định thành lập Ban hội thẩm và thông qua báo cáo của Ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thực hiện các quyết định về giải quyết tranh chấp. Thứ ba, về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp: tương tự cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định trong Nghị định thư về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp ngày 29/11/2004 của ASEAN cũng bao gồm 4 giai đoạn là: tham vấn, hội thẩm, phúc thẩm và thi hành phán quyết. Để giải quyết tranh chấp, SEOM/DSB (cơ quan giải quyết tranh chấp của ASEAN/WTO) sẽ thành lập Ban hội thẩm Panel gồm 3 thành viên, trừ trường hợp các bên thỏa thuận 5 thành viên với chức năng đánh giá một cách khách quan tranh chấp được đệ trình. Kết quả làm việc Ban hội thẩm là một báo cáo đệ trình lên cơ quan giải quyết tranh chấp, bản báo cáo sẽ được thông qua tại phiên họp theo nguyên tắc “đồng thuận nghịch” (các vấn đề sẽ không được thông qua nếu tất cả các thành viên nhất trí không thông qua). Trong trường hợp không đồng ý với báo cáo của Panel, các bên tranh chấp sẽ kháng cáo lên cơ quan phúc thẩm. Đây là cơ quan thường trực bao gồm 7 thành viên . Khi có đề nghị xem xét phúc thẩm, cơ quan phúc thẩm thường trực sẽ thành lập một nhóm phúc thẩm riêng cho từng vụ tranh chấp bao gồm 3 thành viên, với nhiệm kỳ 4 năm. Cơ quan phúc thẩm được thành lập để xem xét kháng cáo của các bên tranh chấp về vấn đề pháp luật và giải thích pháp luật được nêu ra trong báo cáo của Panel. Báo cáo của cơ quan phúc thẩm sẽ được đệ trình lên SEOM/DSB thông qua theo nguyên tắc đồng thuận nghịch. Thứ tư, nguyên tắc giải quyết tranh chấp: về cơ bản thì cơ chế giải quyết của WTO và ASEAN đều được xây dựng trên bốn nguyên tắc: công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và chấp nhận được đối với các bên tranh chấp. 2. Điểm khác nhau Tuy nhiên, khác với WTO – chỉ đơn thuần là một tổ chức hợp tác về kinh tế, ASEAN là một tổ chức hợp tác toàn diện cả về chính trị, văn hóa, an ninh, xã hội. Do đó, khi giải quyết bất cứ tranh chấp nào, các quốc gia ASEAN đều cố gắng giải quyết ở giai đoạn tham vấn mà ít khi đưa ra các cơ quan giải quyết tranh chấp. Điều này, vừa giúp cho tranh chấp được giải quyết một cách nhanh chóng, kịp thời, vừa không làm ảnh hưởng tới quan hệ hợp tác hữu nghị trong các lĩnh vực khác nhau giữa các bên tranh chấp. Cơ sở pháp lý: cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN được ghi nhận trong Nghị định thư về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp ngày 29/11/2004. Còn cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được quy định trong Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp và hình thức giải quyết tranh chấp chuyên biệt được quy định trong các Hiệp định cụ thể như Hiệp định về hàng dệt và may mặc. Đối tượng tham gia vào hệ thống giải quyết tranh chấp: Đối tượng của WTO bao gồm: các bên tranh chấp và bên thứ ba, các đối tượng phi chính phủ.. Còn cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN chỉ được áp dụng để giải quyết tranh chấp kinh tế thương mại giữa các quốc gia thành viên ASEAN. Các doanh nghiệp dù có quyền và lợi ích bị xâm hại, không thể tự khởi động thủ tục giải quyết tranh chấp mà phải thông qua chính phủ của mình. Các khiếu kiện có thể được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp: Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được áp dụng để giải quyết: Khiếu kiện có vi phạm (violation complaint): khiếu kiện phát sinh khi một quốc gia thành viên không thực hiện các nghĩa vụ của mình theo qui định tại Hiệp định. Khiếu kiện không vi phạm (non-violation complaint): là loại khiếu kiện phát sinh khi một quốc gia ban hành một biện pháp thương mại gây thiệt hại (làm mất hay phương hại đến) các lợi ích mà quốc gia khiếu kiện có được từ Hiệp định hoặc cản trở việc thực hiện một trong các mục tiêu của Hiệp định – không phụ thuộc vào việc biện pháp đó có vi phạm Hiệp định hay không Khiếu kiện dựa trên “sự tồn tại một tình huống khác” (“situation” complaint): trong trường hợp này, quốc gia khiếu kiện cũng phải chứng minh về thiệt hại mà mình phải chịu hoặc trở ngại gây ra đối với việc đạt được một mục tiêu của Hiệp định. Như vậy, tranh chấp trong khuôn khổ WTO không nhất thiết phát sinh từ một hành vi vi phạm các qui định tại các Hiệp định của tổ chức này của một hoặc nhiều quốc gia thành viên. Tranh chấp có thể phát sinh từ một “tình huống” khác hoặc khi một biện pháp thương mại do một quốc gia thành viên ban hành tuy không vi phạm qui định của WTO nhưng gây thiệt hại cho một hoặc nhiều quốc gia thành viên khác. Còn cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế thương mại của ASEAN được áp dụng để giải quyết tranh chấp kinh tế thương mại của các quốc gia thành viên. Các doanh nghiệp dù có quyền và lợi ích trực tiếp bị xâm hại, không thể tự khởi động thủ tục giải quyết tranh chấp mà phải thông qua chính phủ của mình. Cơ quan giải quyết tranh chấp: - Đối với WTO: cơ quan này thực chất là Đại hội đồng WTO (DSB), bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia thành viên. DSB có quyền thành lập Ban hội thẩm, thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và của Cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thi hành các quyết định, khuyến nghị giải quyết tranh chấp, cho phép đình chỉ thực hiện các nghĩa vụ và nhượng bộ (trả đũa). Tuy nhiên, DSB chỉ là cơ quan thông qua quyết định chứ không trực tiếp thực hiện việc xem xét giải quyết tranh chấp. Đối với ASEAN: cơ quan giải quyết tranh chấp bao gồm Hội nghị quan chức kinh tế cao cấp SEOM, Hội nghị bộ trưởng kinh tế AEM, Ban thư ký ASEAN. Hội nghị quan chức kinh tế cao cấp SEOM có thẩm quyền tương tự như DSB, Hội nghị bộ trưởng kinh tế AEM có thẩm quyền thành lập cơ quan phúc thẩm còn Ban thư ký ASEAN có trách nhiệm trợ giúp cho Ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm đặc biệt trong các vấn đề pháp lý, lịch sử có liên quan cũng như những trợ giúp về mặt kĩ thuật, trợ giúp cho SEOM trong việc giám sát quá trình thực thi các phán quyết, đồng thời là nơi tiếp nhận tất cả các tài liệu có liên quan đến vụ tranh chấp. Qua đó ta có thể thấy cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO được thành lập sẵn còn cơ quan giải quyết tranh chấp của ASEAN được hình thành theo từng vụ việc tranh chấp. KẾT LUẬN Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN nói chung và cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại nói riêng có những ưu và nhược điểm nhất định nhưng mục đích cuối cùng của cơ chế này là nhằm đạt tới vấn đề làm sao giải quyết được các tranh chấp đó nhưng vẫn dựa trên tính đồng thuận giữa hai bên, cũng như tinh thần hợp tác cùng bắt tay giải quyết tranh chấp, giúp cho tranh chấp được giải quyết nhanh nhất.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBình luận về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của ASEAN dưới các góc độ.doc
Tài liệu liên quan