Các thành viên của nhóm xã hội, thường mang một số đặc tính riêng trong hành vi và cách ứng xử đặc trưng cho nhóm của mình, mà nhiều khi chính họ không ý thức được điều đó. Trong đời thường, cũng như trong ngôn ngữ khoa học, chúng ta thường gặp những nhận xét như: người Nhật rất cần cù, yêu lao động; người Đức ưa chính xác và tiết kiệm,v.v.Đó là tính cách xã hội, hay tính cách dân tộc, thường được xem là tính cách của đại đa số các thành viên xã hội, hay dân tộc đó. Nhân cách hình thành trong một nhóm, trong một xã hội hay trong một dân tộc, nhất định sẽ có những hành vi và những đặc tính rập khuôn theo một số chuẩn mực của nhóm, của xã hội hay dân tộc đó. Mặt khác trong quá trình phát triển của nhân cách ở môi trường xã hội luôn thay đổi, nhân cách buộc phải đối diện với những thay đổi và điều đó sẽ thúc đẩy quá trình hình thành những chuẩn mực giá trị mới, những tâm thế mới, những phương thức hành vi mới, v.v.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12671 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, liên hệ thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
II. NỘI DUNG
1. Khái quát về nhân cách
Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhât định, là chủ thể của các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và giao tiếp thì chúng ta nói đên nhân cách của họ.
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy.
Dựa trên sự nghiên cứu của tâm lý học, nhân cách có các đặc điểm như: tính ổn định, tính thống nhất, tính tich cực, tính giao tiếp.
2. Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, liên hệ thực tiễn
1.1. Yếu tố di truyền
Di truyền là sự tái tạo ở đời sau những thuộc tính sinh học có ở đời trước, là sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm những phẩm chất nhất định đã được ghi lại trong hệ thống gen gi truyền.
Quan điểm Mác xít cho rằng: di truyền không phải đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển nhân cách song cũng không phủ nhận vai trò của di truyền. Nếu phủ nhận vai trò của di truyền thì dễ dẫn đến mê tín dị đoan. Ngược lại, quá coi trọng yếu tố di truyền lại phủ định yếu tố xã hội. Dưới góc độ nghiên cứu của tâm lý học, di truyền là tiền đề, là cơ sở vật chất cho sự phát triển, tác động đến độ mạnh yếu của nhân cách…Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý- những đặc điểm giải phẫu và sinh lý cơ thể, trong đó có hệ thần kinh. Phần lớn không chỉ do di truyền, tư chất nhất định mà còn do trong gia đình đó trẻ em được giáo dục trong bầu không khí hào hứng say mê đối với một loại hình hoạt động nhất định và được lôi cuốn tham gia rất sớm vào những hoạt động đó.
Ví dụ: Một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình mà bố mẹ là ca sỹ, nhạc sỹ thì nó sẽ có cơ hội và khả năng trở thành một người hoạt động nghệ thuật khi trưởng thành, cộng với việc bố mẹ nó phát triển và bồi dưỡng từ nhỏ khả năng tiềm tàng của bộ máy phân tích âm thanh, phát triển giọng ca...
Một vấn đề cũng mang tính thực tiễn ở đây, đó là nhà giáo dục cần quan tâm đúng mức đến vai trò của yếu tố di truyền để phát hiện sớm các tài năng của học sinh, từ đó có kế hoạch bồi dưỡng phát triển tài năng của học sinh. Tuy nhiên không được quá đề cao hoặc quá xem nhẹ vấn đề này vì: Nếu tuyệt đối hoá hoặc quá đề cao ảnh hưởng của yếu tố di truyền sẽ dẫn đến sai lầm về nhận thức luận, dẫn đến những chính sách giáo dục phản khoa học hoặc phủ nhận khả năng cải biến bản chất con người, từ đó hạ thấp vai trò của giáo dục và tự giáo dục. Nếu quá xem nhẹ, coi thường ảnh hưởng của yếu tố sinh học - yếu tố di truyền thì vô hình chung chúng ta đã bỏ qua yếu tố tư chất, yếu tố tiền đề thuận lợi của sự phát triển.
1.2. Yếu tố hoàn cảnh sống:
1.1.1. hoàn cảnh tự nhiên
Để hình thành nên nhân cách của một con người thì trước tiên vẫn phải trải qua các yếu tố của hoàn cảnh tự nhiên, nó như là cái nền vốn có quy định ít nhiều nhân cách của con người. Như chúng ta đã biết, mỗi dân tộc sống trên một lãnh thổ nhất định, có cái độc đáo của hoàn cảnh địa lý: ruộng đồng và khoáng sản, núi và sông, trời và biển, mưa và gió, hoa cỏ và âm thanh…những điều ấy quy định đặc điểm của các dạng, các ngành sản xuất, đặc tính của nghề nghiệp (tức những phương thức hoạt động của con người trong tự nhiên) và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Qua đó, quy định các giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định. Cho nên có thể nói rằng, tâm lí dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu trung gian là phương thức sống. Xét cho cùng, nhiều phong tục tập quán đều có nguồn gốc từ điều kiện và hoàn cảnh sống tự nhiên. Một số nét tâm lí nào đó của bản địa, của nghề nghiệp cũng được hiểu theo logic ấy.
Ví dụ: người dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng châu thổ sông Cửu Long nước ta có truyền thống trồng lúa nước, cây lúa nước không đơn thuần là một cây trồng nông nghiệp mà từ xa xưa nó đã trở thành một biểu tượng của nền nông nghiệp hai vùng đồng bằng này. Người dân không chỉ có kinh nghiệm trồng lúa nước, tâm lý gắn bó với cây lúa nước mà còn có những hoạt động văn hóa, nghệ thuật liên quan đến cây lúa nước. Sở dĩ có điều này là bởi nơi đây có điều kiện tự nhiên thích hợp cho việc canh tác lúa nước(có 2 con sông lớn chảy qua, địa hình bằng phẳng, đất đai phù sa màu mỡ…)...
1.1.2. hoàn cảnh xã hội
Theo quan điểm Mác – Lênin: Nhân cách chỉ có thể được hình thành và phát triển trong môi trường nhất định, đặc biệt là môi trường xã hội, chỉ sống trong xã hội loài người thì con người mới có được những tư chất và thuộc tính người đó cũng chỉ phát triển được trong xã hội con người, nếu không sống trong xã hội loài người thì sẽ không có những thuộc tính người. Ví dụ: trường hợp những em bé được chó sói nuôi: đi bằng bốn chân, không biết nói chỉ biết rú như sói, không biết ăn thịt chín, không mặc quần áo…Dưới góc độ tâm lý học, môi trường xã hội góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều kiện cho các hoạt động giao lưu của con người. Nhờ hoạt động đó mỗi con người dần lĩnh hội được kinh nghiệm xã hội loài người để từng bước hình thành và hoàn thiện nhân cách. Nhân cách phản ánh chủ yếu những đặc điểm lịch sử, điều kiện sinh hoạt, nguồn gốc giai cấp, vị trí xã hội cá nhân, vì vậy khi điều kiện xã hội đã biến đổi cơ bản thì bộ mặt tinh thần của con người cũng biến đổi theo. Do đó nhân cách là một sản phẩm của xã hội, có nghĩa là đứa trẻ muốn trở thành nhân cách phải có sự tiếp xúc với người lớn để nắm vững tri thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội, để được chuẩn bị bước vào cuộc sống và lao động trong văn hóa của thời đại. Quan hệ sản xuất quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân cách. Ví dụ: Việt Nam có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thì người dân cũng sẽ có những nét tâm lý cơ bản của nhân cách như: hình thành tư tưởng phấn đấu cùng nhau xây dựng đất nước, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật. Vị trí giai cấp của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức độ này mức độ khác trong vai trò xã hội. Nhu cầu, hứng thú, lí tưởng phụ thuộc không ít vào vai trò ấy. Ví dụ:: người có địa vị xã hội cao như các chính trị gia, các nhà nghiên cứu, lãnh đạo… thì sẽ có tâm lý nhân cách, hay nói cách khác là sẽ có nhu cầu, lí tưởng, sự hứng thú cá nhân…khác với những người bình thường như nông dân, công nhân, học sinh, sinh viên…
Việc xem xét các ảnh hưởng của yếu tố xã hội tới nhân cách còn thể hiện trong các đặc tính xã hội mà nhân cách tiếp thu được khi nó là thành viên của một nhóm xã hội, trong những mối quan hệ xã hội nhất định:
Các thành viên của nhóm xã hội, thường mang một số đặc tính riêng trong hành vi và cách ứng xử…đặc trưng cho nhóm của mình, mà nhiều khi chính họ không ý thức được điều đó. Trong đời thường, cũng như trong ngôn ngữ khoa học, chúng ta thường gặp những nhận xét như: người Nhật rất cần cù, yêu lao động; người Đức ưa chính xác và tiết kiệm,v.v..Đó là tính cách xã hội, hay tính cách dân tộc, thường được xem là tính cách của đại đa số các thành viên xã hội, hay dân tộc đó. Nhân cách hình thành trong một nhóm, trong một xã hội hay trong một dân tộc, nhất định sẽ có những hành vi và những đặc tính rập khuôn theo một số chuẩn mực của nhóm, của xã hội hay dân tộc đó. Mặt khác trong quá trình phát triển của nhân cách ở môi trường xã hội luôn thay đổi, nhân cách buộc phải đối diện với những thay đổi và điều đó sẽ thúc đẩy quá trình hình thành những chuẩn mực giá trị mới, những tâm thế mới, những phương thức hành vi mới, v.v..
Ví dụ: Trẻ con qua dậy thì sang tuổi thanh niên, từ thanh niên trở thành người đứng tuổi và từ người đứng tuổi bước sang tuổi già. Điều đó buộc từng cá nhân phải có những hành vi, ứng xử hòa đồng với những ước lệ cũng như hệ thống giá trị mới đặt ra khi bước sang một nhóm lứa tuổi khác, đó là sự thay đổi về lứa tuổi. Hoặc là sự thay đổi vị trí và cương vị xã hội cũng thể hiện quá trình phát triển nhân cách trong nhóm; ví dụ: một người từ cương vị là chủ tịch xã lên làm chủ tịch huyện thì nhân cách buộc phải làm quen với các quyền hành, nghĩa vụ và quyền lợi mới. Một sự thay đổi nữa, có ý nghĩa quan trọng đối với nhân cách là việc cá nhân rời bỏ nhóm xã hội cũ và tham gia vào nhóm xã hội mới, ví dụ: thay đổi cơ quan làm việc, thay đổi nhóm, tầng lớp xã hội v.v…Việc từ bỏ những tính cách đặc trưng của nhóm cũ và thích nghi với những định hướng giá trị mới, những cách sống, nếp nghĩ mới cũng thường là thử thách đối với sự phát triển nhân cách..
Tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường với sự hình thành và phát triển nhân cách còn phụ thuộc vào lập trường, quan điểm, thái độ của con người đó (ví dụ: học sinh, sinh viên có tiếp thu những hiện tượng, những sự kiện xảy ra ngoài xã hội để lấy đó làm bài học cho bản thân mình hay phản đối và không chấp nhận chúng) và phụ thuộc vào xu hướng, năng lực và mức độ cá nhân tham gia biến đổi môi trường ( tích cực, tiêu cực, mạnh hay yếu…). Do đó nhân cách không chỉ là một khách thể mà còn là một chủ thể, cá nhân là một tồn tại có ý thức, nó có thể lựa chọn phương thức sống của mình và do đó nó lựa chọn những phản ứng khác nhau trước tác động của hoàn cảnh xã hội.
Giữa nhân cách và môi trường có quan hệ hữu cơ: tính chất và mức độ tác động của hoàn cảnh được phản ánh vào nhân cách. Sự tham gia của nhân cách tác động đến hoàn cảnh để cải tạo hoàn cảnh, nhằm phục vụ lợi ích con người. Vì vậy, ta có thể thấy một vấn đề mang tính thực tiễn ở đây đó là vai trò của người làm công tác giáo dục đối vời người học. Người làm công tác giáo dục phải biết cách phát huy, khai thác triệt để yếu tố tích cực của môi trường và phòng ngừa hạn chế những ảnh hưởng của môi trường. Phải hướng người học vào định hướng những giá trị đúng đắn, xây dựng cho người học bản lĩnh vững vàng để chiếm lĩnh ảnh hưởng xung quanh, tạo điều kiện để người học tham gia tích cực vào việc xây dựng và cải tạo môi trường.
1.5. yếu tố giáo dục
Lịch sử đã chứng minh vai trò to lớn của giáo dục trên mọi mặt của đời sống xã hội, còn trong sự hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục được đánh giá là giữ vai trò chủ đạo. Giáo dục ở đây có nghĩa rộng, bao gồm cả việc dạy học cùng với hệ thống tác động sư phạm khác, trực tiếp hoặc gián tiếp trong lớp và ngoài lớp, trong trường và ngoài nhà trường, trong gia đình và ngoài xã hội. Giáo dục không những định hướng mà còn tổ chức và dìu dắt sự hình thành và phát triển nhân cách. Điều này được thể hiện ngay ở mục tiêu đào tạo của bất cứ xã hội nào. Giáo dục mang lại những tri thức tiến bộ xã hội mà các yếu tố khác như bẩm sinh, di truyền, môi trường, hoàn cảnh không thể có được. Ví dụ, một người không học thì không bao giờ biết đọc, biết viết. Giáo dục còn góp phần uốn nắn những thói hư tật xấu của cá nhân, hướng nhân cách phát triển theo mong muốn của xã hội ; ví dụ, một người phạm pháp nếu được cải tạo, giáo dục thì sẽ trở thành một người có ích cho xã hội; một đứa trẻ muốn nó lớn lên là một công dân tốt thì việc giáo dục, dạy bảo nó từ nhỏ cực kì quan trọng. Giáo dục thực chất là một môi trường hoạt động – giao tiếp được tinh lọc theo hướng tiến bộ xã hội, nó không chỉ thích ứng mà còn đi trước hiện thực. Điều đó có giá trị định hướng cho việc xây dựng mô hình nhân cách của xã hội; ví dụ, mục tiêu giáo dục của chúng ta là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, con người đó nhằm hướng tới phục vụ cho công cuộc xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước thế kỷ XXI...Bác Hồ viết: “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn – Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Những công trình nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học hiện đại đã chứng minh rằng, sự phát triển tâm lý của trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của sự dạy học và giáo dục. Hoặc chúng ta cũng có thể thấy trên thực tế một điều, đó là nếu một con người sinh ra và lớn lên không nhận được bất kì một sự giáo dục nào, không được uốn nắn từ nhỏ thì nhân cách của một con người không thể hoàn thiện, nhận thức mọi thứ nông cạn, tư duy kém phát triển, khiếm khuyết đi nhiều khả năng so với người nhận được sự giáo dục đầy đủ từ gia đình, nhà trường, và xã hội; con người đó cũng dễ vi phạm pháp luật, đó cũng là lí do tại sao Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao vai trò của việc giáo dục nhân cách đi đôi với giáo dục pháp luật. Vì vai trò chủ đạo của giáo dục trong hình thành và phát triển nhân cách mà một vấn đề thực tiễn đặt ra đối vơi trường Đại học luật Hà Nội đó là phải không ngừng nghiên cứu để đổi mới phương pháp giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục, quan tâm tới chât lượng mỗi sinh viên khi ra trường…
Trong công cuộc đổi mới, để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta cũng đã khẳng định: con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng, việc xây dựng con người Việt Nam, nhân cách Việt Nam để đáp ứng cho công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ đất nước mà nhiệm vụ của giáo dục vươn tới.
1.3. Yếu tố hoạt động
Hoạt động là nhân tố quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Cá nhân vừa là thành viên, vừa là chủ thể của xã hội, đồng thời lại là đối tượng của các quan hệ xã hội. Chính vì thế hoạt động của cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, hoạt động chính là cơ sở, là nhân tố quyết định trực tiếp sự phát triển của nhân cách. Luận điểm này được xuất phát từ chỗ coi “bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”, mà các quan hệ đó lại được thể hiện, được duy trì bởi hàng loạt các hoạt động đa dạng, phong phú của con người. Liên quan chặt chẽ và dữ vai trò động lực bên trong của hoạt động chính là nhu cầu, nhu cầu luôn thúc đẩy con người hoạt động, mà hoạt động lại là điều kiện để nảy sinh nhu cầu, đó chính là quan hệ hai chiều khăng khít, thúc đẩy lẫn nhau. Mặt khác nhu cầu còn là điều kiện làm nảy sinh và phát triển hàng loạt các yếu tố tâm lý khác, mà chính các yếu tố tâm lý đó đã góp phần hình thành nên “bản chất con người”, tức là nhân cách.
Như vậy, con người với tư cách là một sinh thể ở bậc thang cao nhất của sự tiến hóa vật chất, lại là một thực thể xã hội, là chủ thể lao động, nhận thức và giao lưu được hình thành trong quá trình hoạt động. Hoạt động làm cho con người nhận thức được hiện thực, kích thích hứng thú, kích thích say mê và sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu mới, thuộc tính tâm lý mới. Nhờ đó nhân cách được hình thành và phát triển.
Ví dụ: Trong hoạt động học tập, mỗi học sinh, sinh viên chỉ tiếp nhận kiến thức một cách thụ động từ sách vở, từ thầy cô; bản thân không tự thân vận động, chủ động tìm kiếm tri thức, mày mò, học hỏi từ nhiều phía thì có nghĩa rằng con đường tác động có mục đích là giáo dục sẽ không hiệu quả, bản thân chúng ta cũng sẽ không năng động, việc áp dụng kiến thức và phát huy vai trò của yếu tố giáo dục cho quá trình hình thành và hoàn thiện nhân cách sẽ chậm chạp đi rất nhiều. Thực tế cho thấy những ai học tập có yếu tố tích cực, sáng tạo, có độc lập nghiên cứu…thì tích lũy, lĩnh hội được nhiều kinh nghiệm để phát triển tâm lý, hoàn thiện dần nhân cách. Đối với sinh viên thì hoạt động học tập là chủ đạo và cũng đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành nhân cách, nhưng để phát triển và hoàn thiện dần nhân cách thì bản thân phải tham gia vào các hoạt động khác ngoài xã hội như: tình nguyện, thể dục thể thao, làm thêm, tham gia sinh hoạt ở các câu lạc bộ…Đặc biệt, đối với sinh viên Đại học luật thì yếu tố hoạt động đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc trau dồi kĩ năng nghề nghiệp, tích lũy kinh nghiệm, tính năng động, độc lập làm việc…ngay từ lúc còn trên ghế nhà trường.
1.4. Yếu tố giao tiếp
Giao tiếp là tiếp xúc tâm lý giữa người với người, là loại quan hệ trực diện người-người. Chính trong giao tiếp, sự tiếp xúc tâm lí sẽ cụ thể hóa các quan hệ xã hội, tức là chuyển các quan hệ gián tiếp xã hội (thể chế, pháp luật…) thành các quan hệ trực tiếp (giao tiếp).
Nhờ giao tiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, đồng thời thông qua giao tiếp, con người đóng góp năng lực của mình vào kho tàng chung của nhân loại.
Qua tiếp xúc, con người nhận thức được về người khác từ hình dáng, điệu bộ, nét mặt (bề ngoài) cho đến động cơ, tâm trạng, cảm xúc, tính cách, năng lực, trình độ và các giá trị của họ. Đồng thời qua tiếp xúc, cá nhân sẽ biết được nhận xét, đánh giá cuả đối tượng về mình, hiểu biết thêm về mình mà từ đó họ có những rung cảm, tâm trạng khác nhau, vui hay buồn, khen hay chê với cả đối tượng và với bản thân mình. Và giao tiếp tất yếu làm cho mỗi người đều phải suy ngẫm về đối tượng, kiểm nghiệm lại bản thân mình, cuối cùng sẽ dẫn đến sự điều chỉnh thái độ, hành vi, cách ứng xử của bản thân. Rõ ràng giao tiếp là phương tiện biểu hiện sự tác động lẫn nhau giữa người với người (chủ thể và đối tượng) rất mạnh mẽ, tạo nên những biến đổi về hình thức, thái độ, tình cảm và các biểu hiện của xu hướng nhân cách. Như vậy, giao tiếp đóng vai trò cơ bản trong qua trình hình thành và phát triển nhân cách.
Ví dụ: Sinh viên trong quá trình học tập, nghiên cứu; nhờ giao tiếp, tiếp xúc, trao đổi với bạn bè mà học hỏi được thêm nhiều kiến thức, cũng qua đó mà mỗi sinh viên có được những đánh giá, thái độ với những người bạn mình tiếp xúc (cảm thấy khâm phục và học tập ở họ hoặc là ngược lại…) đồng thời cũng hình thành sự đánh giá, xem xét lại bản thân, còn những gì cần khắc phục ở bản thân, những gì cần hoàn thiện... Giao tiếp với thầy cô giáo, các anh chị khóa trước giúp ta học tập thêm nhiều thứ như: kiến thức chuyên môn, thái độ làm việc, kinh nghiệm trong nghiên cứu, học tập…từ đó vận dụng để phục vụ cho việc học tập của bản thân.
3. Liên hệ bản thân
Đối với bản thân của mỗi con người, các yếu tố phân tích ở trên đây đều có một mức độ ý nghĩa nhất định đối với quá trình hình thành, phát triển nhân cách của mình. Với bản thân em, qua cả một quá trình lớn lên, học tập, rèn luyện…thì nhân cách cũng hình thành và phát triển. Những yếu tố trên đây đóng vai trò không thể thiếu đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của bản thân. Quá trình đó không được chi phối, tác động của riêng một yếu tố nào, các yếu tố có sự phối hợp để tác động lên quá trình hình thành nhân cách của bản thân. Tuy nhiên vai trò nổi bât, quan trọng hơn thì phải nói đến các yếu tố: hoàn cảnh xã hội, hoạt động, giao tiếp và giáo dục. Mặc dù bản thân không phủ nhận vai trò đáng kể của yếu tố di truyền (về mặt tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý) và yếu tố hoàn cảnh tự nhiên; yếu tố hoàn cảnh tự nhiên vẫn thấp thoáng xuất hiện trong suy nghĩ, hoạt động học tập, cuộc sống hằng ngày của bản thân (do là người miền Trung – Nghệ An – vùng đất khô khan, nắng gió, nghèo khó…nên em tự thấy ít nhiều bản thân cũng có một số nét tâm lý chung của con người nơi đây như: tiết kiệm, chịu khó, chịu khổ, tham vọng trong con đường học vấn…). Các yếu tố hoàn cảnh xã hội, hoạt động, giao tiếp và giáo dục gắn liền với quá trình lớn lên của bản thân, tham gia vào các mối quan hệ xã hội, sống trong thế giới loài người, sống trong môi trường giáo dục của gia đình, trường hoc, giao tiếp với mọi người xung quanh…nên đây là các yếu tố tác động rất sớm đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của bản thân. Đặc biệt, trong cuộc sống, hoạt động học tập hiện tại – là một sinh viên Đại học luật thì các yếu tố hoạt động, giao tiếp, giáo dục đang là những yếu tố tác động trực tiếp tới sự phát triển và hoàn thiện dần nhân cách của bản thân. Biểu hiện đó là, trong yếu tố hoạt động thì ngoàì việc học qua sách vở và nghe thầy cô giảng, bản thân còn phải tự tìm đọc tài liệu tham khảo, tham các hoạt động bên ngoài như sinh hoạt các câu lạc bộ, tìm kiếm tri thức qua mạng…; trong yếu tố giao tiếp thì bản thân phải tiếp xúc, trao đổi với bạn bè thường xuyên, xin tư vấn thầy cô giáo…để tích lũy kinh nghiệm cho bản thân…; trong yếu tố giáo dục thì phương pháp giáo dục của nhà trường, phương pháp giảng dạy của thầy cô giáo…cũng đang tác động không nhỏ đối với quá trình tiếp nhận kiến thức, lượng kiến thức chuyên môn,…có được của bản thân.
III. KẾT LUẬN
Con người xét về mặt tự nhiên, là một sinh thể ở bậc thang cao nhất của sự tiến hoá; xét về mặt xã hội, là chủ thể của lao động, nhận thức và giao lưu thể hiện trong suốt quá trình phát triển và hoàn thiện bản thân. Trong quá trình đó, người cũng được hình thành và hoàn thiện dần, dưới vai trò tác động của nhân cách của các yếu tố di truyền, hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh xã hội, quá trình hoạt động, giao tiếp, yếu tố giáo dục. Dưới góc độ tâm lý học, các yếu tố này luôn là những yếu tố đóng vai trò quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân; giữa chúng có mối liên hệ với nhau để tác động lên quá trình hình thành và phát triển nhân cách của một con người. Vì vậy, mỗi cá nhân phải nhận thức được một cách đúng mức vai trò của các yếu tố đó, biết kết hợp hài hòa giữa các yếu tố để tác động đối với quá trình phát triển nhân cách; xây dựng các kế hoạch cho bản thân, tự thân vận động, không ngừng học tập, rèn luyện, không ngừng tham gia vào các hoạt động xã hội, giao tiếp cộng đồng…để hoàn thiện dần nhân cách của mình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, liên hệ thực tiễn.doc