MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI NÓI ĐẦU 2
I. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐIỀU TIẾT NỀN KINH TẾ TRONG CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CHÍNH TRỊ TƯ SẢN. 3
1. Lý luận về vai trò nhà nước trong nền kinh tế của chủ nghĩa trọng thương. 3
2. Vai trò của nhà nước trong học thuyết kinh tế trọng nông (1756 - 1777). 5
3. Vai trò của nhà nước trong học thuyết KTCTTSCĐ Anh. 9
4. Vai trò nhà nước trong các học thuyết KTCTTS tầm thường. 11
5. Vai trò của nhà nước trong học thuyết của trường phái Tân Cổ Điển. 12
6. Nhà nước - bàn tay hữu hình trong lý thuyết kinh tế của Keynes. 14
7. Vai trò nhà nước trong học thuyết kinh tế của trường phái Tự do mới. 19
8. Vai trò nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp - Lý thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại. 24
Kết luận 29
II. LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG HỌC THUYẾT MÁC - LÊ NIN VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NUỚC TRONG THỜI KỲ QÚA ĐỘ ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM. 31
1. Vai trò kinh tế của nhà nước trong học thuyết Mác - Lênin 31
2. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 33
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9196 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích vai trò nhà nước đối với điều tiết kinh tế trong các học thuyết kinh tế và ý nghĩa rút ra đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quát: giá - lương và lãi suất ổn định.
Đồng thời với lý luận cân bằng tổng quát, các nhà kinh tế phái tân cổ điển cũng như phái cổ điển đều thấy một thực tế là theo đà phát triển của nền kinh té, chức năng của nhà nước ngày càng được mở rộng, do vậy vai trò của nhà nước tăng lên. Đặc biệt trước những đòi hỏi của thực tế trong lĩnh vực ngoại thương, sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền và những vấn đề tái sản xuất sức lao động, nhà nước tư sản ngày càng phải tăng cường can thiệp vào nền kinh tế.
Tuy nhiên họ vẫn cho rằng tự do kinh tế là sức mạnh của nền kinh tế thi trường. Quy luật kinh tế là vô địch mặc dù chính sách kinh tế của nhà nước cóthể thúc đẩy hay kìm chế hoạt động của các quy luật kinh tế. Họ có niềm tin vững chắc vào cơ chế thị trường và sự điều tiết hoạt động cung cầu và giá cả. Theo sự điều tiết của bàn tay vô hình mà quá trình tái sản xuất bản đảm được những tỷ lệ cân đối và duy trì được sự phát triển bình thường.
NHÀ NƯỚC - BÀN TAY HỮU HÌNH TRONG LÝ THUYẾT KINH TẾ CỦA KEYNES.
Học thuyết Keynes ra đời vào những năm 30 của thế kỷ XX. Lý luận về sự điều tiết của cơ chế thị trường của phái cổ điển và tân cổ điển đã bị phá sản trước một thực tế phũ phàng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mà đỉnh cao là cuộc đại suy thoái 1929-1933. Mặt khác, vào những năm 30 của thế kỷ 20, lực lượng sản xuất phát triển, độc quyền ra đời và bắt đầu bành trướng thế lực… tình hình đó đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước.
John Maynard Keynes (1884-1946) là nhà kinh tế học người Anh, giáo sư trường Đại học tổng hợp Cambridge, một nhà hoạt động xã hội, một chuyên gia trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, thống đốc ngân hàng Anh, cố vấn kinh tế của chính phủ Anh, chủ bút tờ tạp chí Nhà kinh tế.
Keynes phê phán lý luận của các phái cổ điển và tân cổ điển về khả năng tự điều chỉnh của thị trường, đồng thời nêu lên quan điểm về vấn đề khủng hoảng thất nghiệp và vai trò điều tiết của nhà nước. Theo ông giữa cung và cầu ít khi có sự cân bằng , bởi vì chúng chịu tác động của hàng loạt nhân tố (thu nhập, xu hướng tiêu dùng giới hạn, tiết kiệm, hiệu quả giới hạn của tư bản, lãi suất, xu hướng ưa chuộng tiền mặt…) và trong hầu hết các trường hợp thì tổng cầu luôn nhỏ hơn tổng cung. Tình hình đó gây nên hiện tượng thừa hàng hoá, làm sản xuất bị thu hẹp thất nghiệp gia tăng. Keynes thừa nhận sự phát triển có tính chu kỳ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và coi đó là một hiện tượng vô cùng phức tạp, một căn bệnh nan giải và để khắc phục không thể dựa vào sự điều tiết của thị trường cũng như dựa vào những sáng kiến cá nhân. Ông khẳng định cần có vai trò nhà nước trong điều tiết nền kinh tế. Vai trò đó được thể hiện tập trung ở việc điều chỉnh tổng cầu
Ông đã phân tích nguyên nhân gây giảm sút tổng cầu và chỉ ra rằng để ngăn chặn hướng này không chỉ dựa vào cơ chế thị trường mà phải cần tới với vai trò điều tiết của nhà nước. Đồng thời trên cơ sở các phân tích này ông đã đề ra những biện pháp chính sách can thiệp của nhà nước tư sản.
Tổng cầu hiệu quả gồm có cầu tiêu dùng và cầu đầu tư. Cầu tiêu dùng giảm do tác động của khuynh hướng tiêu dùng giới hạn và thu nhập. Thu nhập tăng lên khi việc làm tăng, song do sự tác động của khuynh hướng tiêu dùng giới hạn nên tiêu dùng tăng chậm hơn thu nhập (còn tiết kiệm lại tăng nhanh) điều này làm cho tiêu dùng giảm tương đối.
Cầu đầu tư giảm do sự tác động của hiệu quả giới hạn của tư bản. Hiệu quả giới hạn của tư bản giảm xuống làm mất lòng tin của doanh nhân vào thu nhập tương lai. Do vậy họ từ bỏ việc đầu tư, làm cho việc thu hút việc làm bị ngưng trệ, thất nghiệp tăng (nhất là trong điều kiện dân số tăng). Cầu đầu tư còn phụ thuộc vào sự biến động của lãi suất, khối lượng tiền tệ và khuynh hướng ưa chuộng tiền mặt. Tất cả các nhân tố tác động tới tổng cầu hiệu quả đều tác động tới việc làm. Do vậy, để chống thất nghiệp phải dùng các biện pháp để tác động vào tổng cầu hiệu quả. Việc này cần phải có bàn tay của nhà nước, không thể phó mặc cho thị trường.
Trên cơ sở phân tích trên, Keynes đã đưa ra các biện pháp và chính sách can thiệp của nhà nước để điều chỉnh tổng cầu:
Đối với cầu đầu tư: trên cơ sở phân tích những nguyên nhân gây thiếu hụt đầu tư, Keynes đưa ra những kiến nghị mà tập trung nhất là việc sử dụng ngân sách nhà nước để kích thích đầu tư tư nhân và bản thân nhà nước cần chủ động đầu tư (đầu tư của nhà nước).
Cụ thể là:
Nhà nước cần thực hiện tăng thêm những đơn đặt hàng đối với các công ty, trước hết là các công ty lớn về các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng, sản xuất hàng tiêu dùng… Ông cho rằng việcthực hiện những đơn đặt hàng như vậy là biện pháp chủ động tăng cầu về tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và cầu về sức lao động. Đó cũng là biện pháp chủ động trong tăng số lượng việc làm.
Tăng cường trợ cấp tài chính tín dụng từ ngân sách để bảo đảm tỷ suất lợi nhuận và lợi nhuận cho các tổ chức độc quyền, cũng có nghĩa là bảo đảm hiệu quả đầu tư ở mức có lợi cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn để họ yên tâm đầu tư. các biện pháp mà nhà nước cần áp dụng là giảm lãi suất thực hiện tín dụng ưu đãi với các chương trình trọng điểm, giảm thuế đối với các doanh nghiệp nhằm khuyến khích đầu tư.
Thực hiện “lạm phát có mức độ”. Ông cho rằng, để đầu tư bằng việc giảm lãi suất cần phải tăng thêm một số lượng tiền tệ vào lĩnh vựclưu thông thực hiện lạm phát có mức độ. Theo ông lạm phát có mức độ là biện pháp hữu hiệu để kích thích thị trường và không có gì nguy hiểm. Khi nền kinh tế đạt tới trạngthái cân bằng với mức sản lượng và việc làm cao hơn thì lạm phát sẽ tự động dừng lại. Ông cũng cho rằng, để bù đắp thiếu hụt ngân sách do tăng đầu tư của nhà nước và trợ cấp tài chính cần thiết phải thực thi lạm phát có mức độ, thông qua việc in thêm tiền giấy.
Tăng thuế để điều tiết bớt một phần thu nhập trong dân cư đưa vào ngân sách để đầu tư. Thực hiện phát hành công trái để bổ sung thêm cho ngân sách. Việc tăng thu ngân sách để tạo điều kiện cho tăng chi cho mục đích đầu tư…
Thực hiện khuyến khích mở rộng các hình thức đầu tư. Theo ông đầu tư vào lĩnh vực nào cũng tốt vì như vậy sẽ giải quyết được việc làm, có thêm thu nhập, chống khủng hoảng và thất nghiệp. Ông còn cho rằng đầu tư vào các phương tiện chiến tranh cũng cần thiết (đó là cơ sở kích thích quân sự hoá nền kinh tế), hoặc thậm chí chính phủ Anh cứ thuê người đem chôn các két bạc ở khu mỏ hoang rồi lại đào lên cũng là biệp pháp tăng cầu.
Đối với tổng cầu tiêu dùng: Keynes đề nghị thực hiện các biện pháp khuyến khích tiêu dùng cá nhân của các tầng lớp dâncư đặc biệt là khuyến khích tiêu sài xa hoa của các tầng lớp giàu có, thực hiện quân sự hoá nền kinh tế.
Một số nhận xét đánh giá lý thuyết về vai trò nhà nước của Keynes; và sự vận dụng lý thuyết này trong thực tế:
Lý thuyết về sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế của Keynes ra đời chính từ nhu cầu đòi hỏi của sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bước sang thế kỷ 20, sự tích tụ và tập trung của tư bản đã đưa CNTB bước sang giai đoạn độc quyền. Mâu thuẫn giữa trình độ và tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Giai cấp tư sản không thể tự mình điều tiết được các hoạt đông của nền kinh tế, thực tế đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước để đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Chính vì thế, lý thuyết Keynes từng được coi là “liều thuốc hữu hiệu” của chủ nghĩa tư bản, giúp cho các nền kinh tế ốm yếu trở lại lành mạnh và nó đã trở thành lý thuyết kinh tế chính thống của thế giới tư bản, được vân dụng tại nhiều nước tư bản như Mỹ, Pháp, Anh, Italia trong một thời gian dài từ những năm 40 đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX.
Nhưng, sự vận dụng lý thuyết Keynes mặc dù có đưa lại nhiều hiệu quả nhất thời, song thực tế chứng minh rằng, nó không phải là liều thuốc chữa chạy cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thoát khỏi khủng hoảng và thất nghiệp. Trái lại nó còn nhiều mặt phản tác dụng: đội quân thất nghiệp tăng ngày một nhanh hơn, khủng hoảng diễn ra liên tiếp… Nguyên nhân là do mặc dù Keynes đã vạch ra và phân tích được những mâu thuẫn của xã hội tư bản nhưng còn phiến diện, mới dừng lại ở những hiện tượng bề ngoài, chưa tìm được nguyên nhân sâu xa của các mâu thuẫn, khó khăn. chủ nghĩa tư bản không chỉ đứng trước khó khăn là khủng hoảng thất nghiệp và nguồn gốc của nó không phải là do tổng cầu giảm. Đó chỉ là biểu hiện bề ngoài mà thôi. Nguyên nhân sâu xa chính là do mâu thuẫn nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa trình độ và tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất và chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Hơn nữa, khẳng định vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế là một luận điểm có tính cách mạng của Keynes, nhưng ông lại quá đề cao vai trò của nhà nước mà bỏ qua vai trò của thị trường. Trong các biện pháp, chính sách để kích cầu của Keynes có nhiều điểm thái quá như kích thích lối sống hưởng thụ, tăng cường quân sự hoá nền kinh tế, thực hiện lạm phát có mức độ…Đây là một con dao hai lưỡi và thực tế nó đã đẩy nhiều nền kinh tế tư bản vào tình trạng “đình lạm”.
Tuy vậy, cho tới hiện nay những nhân tố hợp lý trong lý thuyết của Keynes vẫn còn có ý nghĩa thực tiễn và vẫn được các nước vận dụng (có kết hợp với các lý thuyết kinh tế khác) để điều hành kinh tế vĩ mô. Liên hệ với thực tiễn của Việt Nam, hiện nay, chúng ta cũng đang vạn dụng rất nhiều các chính sách, biện pháp kinh tế của Keynes để điều tiết nền kinh tế. Từ năm 1998, do nhiều nguyên nhân, nền kinh tế Việt Nam có dấu hiệu chững lại và đi vào trì trệ, sức mua của xã hội giảm sút, giảm phát kéo dài, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm. trước tình hình đó chính phủ đã thực thi hàng loạt các biện pháp kích cầu: cắt giảm lãi suất, tăng cường đầu tư của nhà nước vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cho nông nghiệp, nông thôn, khuyến khích đầu tư trong nước và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài…Đây là những giải pháp cần thiết và thực tế chúng đã có những tác dụng nhất định đối với nền kinh tế. tuy nhiên khi thực hiện các biên pháp kích cầu cần lưu ý hai điểm: Thứ nhất, nước ta còn nghèo, nên khi tăng cường đầu tư cần tính toán hiệu cả về trước mắt cũng như lâu dài, tránh tình trạng lãnh phí. Thứ hai, các biện pháp kích cầu dù sao cũng chỉ là các biện pháp ngắn hạn, tạo đà cho nền kinh tế vượt qua giai đoạn khó khăn. Bên cạnh các biện pháp này cần thiết phải thực hiện những biện pháp mang tích cơ cấu, dài hạn để tạo cơ sở cho sự phát triển ổn định và lâu dài của nền kinh tế.
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI TỰ DO MỚI.
Đến những năm 30 của thế kỷ XX, học thuyết Keynes đã thắng thế trước lý luận về “tự do kinh doanh” của những người Cổ điển và Tân cổ điển và trở thành học thuyết kinh tế chính thống của thế giới tư bản. Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định, nó lại bộc lộ những hạn chế của nó. Trước bối cảnh đó, các lý luận gia kinh tế tư sản khôi phục lại tư tưởng kinh tế tự do và sửa đổi , hoàn thiên chúng cho thích hợp với hoàn cảnh mới. Từ đó “chủ nghĩa tự do kinh tế mới” ra đời.
Đặc trưng của hệ thống lý luận này là dựa trên lập trường tự do của các nhà kinh tế cổ điển, song ở một chừng mực nhất định, nó được kết hợp với tư tưởng của trường phái Keynes mới và trường phái trọng thương mới.
Học thuyết kinh tế tự do mới phát triển ở nhiều nước với những tên gọi khác nhau như chủ nghĩa tự do mới ở Đức (lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội); lý thuyết trọng tiền, lý thuyết trọng cung ở Mỹ, …
Vai trò của nhà nước trong “Nền kinh tế thị trường xã hội” ở Cộng hoà Liên bang Đức.
Lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội ra đời ở Đức sau thế chiến thứ hai, trong hoàn cảnh nước Đức thua trận, nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá. Theo lý thuyết này, nền kinh tế thị trường xã hội là một nền kinh tế dựa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa nguyên tắc tự do và nguyên tắc công bằng xã hội, trên cơ sở nền kinh tế thị trường và hướng vào mục tiêu khuyến khích động viên mọi sáng kiến cá nhân để đảm bảo lợi ích chung của xã hội, đồng thời loại bỏ lạm phát thất nghiệp và đói nghèo. Các quyết định về kinh tế chính trị của nhà nước phải nhằm phục vụ cho các cá nhân và gia đình họ, do đó nó phải do người tiêu dùng và các công dân đề ra. Một nền kinh tế thị trường xã hội phải đảm bảo 6 tiêu chuẩn sau:
Quyền tự do cá nhân
Công bằng xã hội
Khắc phục các chu kỳ kinh doanh
Chính sách tăng trưởng kinh tế
Chính sách cơ cấu
Đảm bảo tính tương hợp của thị trường.
Nền kinh tế thị trường bị điều chỉnh bởi hai sức mạnh là sức mạnh của cạnh tranh và sức mạnh của nhà nước. Trong đó cạnh tranh có hiệu quả là yếu tố trung tâm của nền kinh tế thị trường xã hội. Muốn cạnh tranh có hiệu quả đòi hỏi phải có sự bảo hộ và hỗ trợ của nhà nước; cần phải tôn trọng quyền tự do của các doanh nghiệp.
Cạnh tranh có các chức năng cơ bản: sử dụng nguồn tài nguyên tối ưu, kích thích tiến bộ kỹ thuật; thúc đẩy người sản xuất tăng cường thoả mãn nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người tiêu dùng; tạo ra tính linh hoạt điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế; tạo ra quyền tự do tối đa cho sự lựa chọn và hoạt động của các doanh nghiệp tham gia vào các quá trình kinh tế. Tuy vậy, trong nền kinh tế luôn tồn tại những nguy cơ đe doạ cạnh tranh có hiệu quả như từ phía nhà nước, độc quyền …
Nền kinh tế được xây dựng dựa trên cơ sở sáng kiến của cá nhân và cạnh tranh có hiệu quả, do đó nhà nước chỉ can thiệp vào những nơi quá trình kinhtế không có hiệu quả và có chức năng duy trì, bảo vệ, định hướng cho các hoạt động cạnh tranh đạt hiệu quả tối ưu.
Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế phải dựa trên hai nguyên tắc: nguyên tắc hỗ trợ và nguyên tắc tạo ra sự hài hoà, tức là nguyên tắc tương hợp giữa các chức năng của nhà nước và các chức năng của thị trường.
Nguyên tắc hỗ trợ chính là nguyên tắc xác định chức năng của nhà nước phải khơi dậy và bảo vệ các nhântố thị trường như: kích thích phát triển các doanh nghiệp tư nhân, đảm bảo cho họ một hành lang pháp lý chắc chắn để họ tự sản xuất kinh doanh độc lập và thực hiện một chính sách thị trường mở. Quan trọng hơn nhà nước phải có trách nhiệm ổn định hệ thống tài chính tiền tệ, duy trì chế độ sở hữu tư nhân và gìn giữ trật tự an ninh công bằng xã hội.
Nguyên tắc tương hợp chính là nguyên tắc làm cơ sở để nhà nước hoạch định các chính sách kinh tế phù hợp với sự vận động của nền kinhtế thị trường đồng thời, phải đảm bảo đượccác mục tiêu kinh tế xã hội của mình. Trong đó bao gồm các chính sách: tận dụng nhân lực, chính sách tăng trưởng, chính sách chống chu kỳ, chính sách thương mại và chính sách đối với các ngành và các vùng lãnh thổ.
Chính sách tận dụng nhân lực. Để thực hiện chính sách này, Chính phủ Đức đã hỗ trợ cho việc phát triển và mở rộng nhanh chóng các xí nghiệp vừa và nhỏ nhằm thu hút và tận dụng nguồn lao động của đất nước.
Chính sách tăng trưởng. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chính phủ Đức đã hỗ trợ cho một chương trình vùng - nơi có lợi thế về tài nguyên và nhân lực trong việc sản xuất một loại sản phẩm nào đó quyết định đến việctăng trưởng GNP.
Chính sách chống chu kỳ. Trong các chu kỳ sản xuất bị đình trệ, chính phủ thực hiện các chính sách bao mua rộng rãi để giải phóng tư bản.
Chính sách thương mại. Chính phủ Đức chọn nguyên tắc tương hợp với thị trường trong lĩnh vực thương mại bằng cách hoặc hạn chế đến mức thấp nhất các biện pháp bảo hộ mậu dịch, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp.
Bốn chính sách kinh tế thực tiễn trên của chính phủ Đức không chỉ thể hiện rõ nguyên tắc tương hợp giữa các hoạt động kinh tế của nhà nước với thị trường mà còn là chính sách cơ bản để thực hiện mục tiêu tăng trưởng và ổn định nền kinh tế Đức.
Bên cạnh chức năng kinh tế, nhà nước Đức còn có chức năng thực hiện các mục tiêu về xã hội như: nâng cao mức sống của nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất trong xã hội; bảo vệvà giúp đỡ tất cả các thành viên trong xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, những đau khổ và rủi ro của cuộc sống gây nên. Để thực hiện chức năng xã hội, Nhà nước Đức thực hiện các chính sách ổn định và tăng cường kinh tế để tạo ra các tiền đề vật chất cho các chính sách xã hội; phải giữ gìn trật tự và an toàn xã hội và thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội như: chính sách bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm tai nạn, mở rộng các khoản phúc lợi xã hội như: trợ cấp xã hội, trợ cấp về nhà ở, trợ cấp nuôi con…
Các chính sách trên đã được Chính phủ Đức và một số nước Bắc Âu áp dụng trong thực tế từ sau thế chiến 2 và đã thu được những thành tựu không nhỏ. Nhưng mô hình kinh tế này đang bộc lộ không ít khó khăn như những vấn đề mà chính phủ gặp phải trong đảm tài chính để thực hiện các chương trình bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các khoản trợ cấp…, sự phản đối của giai cấp tư sản dovấn đề thuế khoá…. Cho tới nay đã có nhiều học giả phương tây bàn tới sự phá sản của nhà nước kinh tế thị trường xã hội. Nguyên nhân là mô hình kinh tế này bị giới hạn trong phạm vi lợi ích chật hẹp của giai cấp tư sản.
Tuy vậy liên hệ với thực tiễn của Việt Nam hiện nay, các chính sách kinh tế của nhà nước kinh tế thị trường xã hôi vẫn có một ý nghĩa ứng dụnglớn. Mục tiêu hướng tới của nền kinh tế thị xã hội có nhiều điểm tương đồng với những mục tiêu của chúng ta như phát triển kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hội… Các chính sách kinh tế như chính sách phát triển và mở rộng các xí nghiệp vừa và nhỏ để tận dụng nhân lực; chính sách phát triển kinh tế vùng và ngành… có khả năng phát huy tác dụng rất tốt nếu được ứng dụng ở Việt Nam.
Vai trò nhà nước trong lý thuyết trọng tiền của M.Friedman
Thuyết trọng tiền ra đời vào những năm 40 và 50 của thế kỷ XX ở Hoa Kỳ, đại diện tiêu biểu là M.Friedman. Tư tưởng cơ bản của phái này là đề caovai trò của các đại lượng tiền tệ đối với các biến động kinh tế vĩ mô. Theo họ, về bản chất nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là tương đối ổn định, với giá cả và tiền công tương đối linh hoạt, cơ chế thị trường tự nó sẽ bảo đảm cân bằng cung cầu và không nhất thiết phải trải qua các chu kỳ kinh doanh. Sở dĩ trong nền kinhtế đã xẩy ra những đợt suy thoái hay lạm phát cao là do nhà nước đã cung ứng quá nhiều hoặc quá ít tiền cho nền kinh tế.
Kinh tế tư nhân tự nó đã có độ ổn định cao, nếu không có những tác động ngoại lai thì với cơ chế giá cả và tiền công linh hoạt tương đối linh hoạt, cânbằng cung cầu tổng quát sẽ được bảo đảm. do đó nhà nước không nên can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế. Nếu cần thiết phải điều chỉnh khi nền kinh tế vận động sai lệch, nhà nước chỉ áp dụng chính sách tiền tệ, chủ yếu là điều chỉnh khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông.
Thực tế lý thuyết này đã được áp dụng ở Mỹ đầu những năm 80, nhưng nó chưa khắc phục được những căn bệnh của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa như thất nghiệp lạm phát…
Vai trò nhà nước trong trường phái trọng cung
Trường phái trọng cung ra đời ở Mỹ vào những năm 70 của thế kỷ XX khi nền kinh tế nước này lâm vào suy thoái, lạm phát và thất nghiệp cao. Quan điểm mấu chốt của những người trọng cung là: thị trường là hệ thống hữu hiệu nhất để định hướng các yếu tố sản xuất vào các hoạt động kinh tế một cách tối ưu. Các doanh nghiệp và các cá nhân đều có ý chí, họ ứng xử bằng cạch cực đại hoá để đáp ứng nhu cầu của mình. Giá cả tương đối sẽ giúp họ xác định các lựa chọn tối ưu. Thuế, các khoản chi tiêu công cộng và các chính sách phân phối lại thu nhập có hiệu lực rất hạn hẹp, thậm chí đa số trường hợp đi ngược lại mục tiêu ban đầu. Từ đó họ phủ nhận các giải pháp can thiệp vào nền kinh tế như “thâm hụt ngân sách”, hiệu quả của “lý thuyết số nhân” do Keynes đề xuất. Theo họ, sự can thiệp của chính phủ đã làm biến dạng quan hệ cung cầu trong nền kinh tế thị trường hiện đaị. Họ đề xuất một chính sách kinh tế giản đơn kết hợp giảm thuế với bỏ bớt những quy định và hạn chế gây cản trở đến sức cung.
Giống như lý thuyết trọng tiền, lý thuyết trọng cung cũng đã được chính phủ Mỹ áp dụng (trong thời kỳ từ 1979 - 1981) nhưng đã làm nẩy sinh nhiều vấn đề thực tế mà chính các nhà trọngcung cũng chưa giải quyết được.
Tóm lại: lý thuyết tự do mới ra đời trong bối cảnh học thuyết Keynes bộc lộ những hạn chế và thất bại trong điều chỉnh nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Các nhà kinh tế tự do mới muốn quay về khôi phụclại lý thuyết về tự do kinh doanh của các nhà Cổ điển, đồng thời có kết hợp ở mộtmức độ nhất định với lý thuyết về vai trò nhà nước trong học thuyết Keynes. Lý thuyết của họ có những điểm tiến bộ, đặc biệt trong lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội của Cộng hoà Liên bang Đức, nhưng nó vẫn không giải quyết được các vấn đề của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ HỖN HỢP - LÝ THUYẾT KINH TẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI CHÍNH HIỆN ĐẠI.
Trường phái chính hiện đại ra đời và phát triển từ những năm 60 - 70 của thế kỷ XX ở các nước tư bản phát triển, có ảnh hưởng sâu rộng tới chính sách kinh tế của các nước cũng như hoạt động của các chủ doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trường phái chính hiện đại ra đời trong bối cảnh cả “bàn tay hữu hình’ của Keynes và sự đề cao lại sức mạnh tự điều tiết của cơ chế thị trường - bàn tay vô hình của phái Tự do mới đều thất bại trong việc khắc phục những vấn đề nẩy sinh của nền kinh tế.
Trường phái chính hiện đại là trào lưu tư tưởng muốn kết hợp các lý thuyết của trường phái Keynes và trường phái tự do mới làm cơ sở lý thuyết cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và chính sách kinh tế của nhà nước tư sản.
Đặc điểm cơ bản về phương pháp luận trong ký thuyết của trường phái chính hiện đại là sự kết hợp giữa các phương pháp luận của Keynes và Tự do mới. Tư tưởng cơ bản là cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, được thể hiện tập trung và rõ ràng trong lý thuyết kinh tế của P.A.Samuelson.
Nếu các nhà kinh tế học Cổ điển và Tân cổ điển say sưa với “bàn tay vô hình”, tuyệt đối hoá vai trò tự điều tiết của thị trường, các nhà kinh tế theo Keynes say sưa với bàn tay hữu hình, tức cơ chế điều tiết kinh tế của nhà nước, thì P.A.Samuelson chủ trương phát triển nền kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn tay”, tức là cơ chế thị trường và nhà nước. ông cho rằng, “cả thị trường và chính phủ đều cần thiết cho một nền kinh tế vận hành lành mạnh”
Theo P.A.Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là sản xuất cái gì? như thế nào? và cho ai?. Kinhtế thị trường không phải là sự hỗn độn mà là trật tự kinh tế. Đó là “một cơ chế tinh vi để phối hợp mọi người, mọi hoạt động và mọi doanh nghiệp thông quá hệ thống giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau. Không có một bộ não hay một hệ thống tính toán trung tâm, nhưng nó vẫn giải quyết được những vấn đề sản xuất và phân phối bao gồm hàng triệu ẩn số và mối tương quan mà không ai biết; những vấn đề ấy dù cho những siêu máy tính nhanh nhất ngày nay cũng không thể làm nổi. Chẳng có ai thiết kế ra thị trường, nhưng nó vẫn vận hành rất tốt.”
Nhưng mặt khác, các nhà kinh tế thuộc trường phái chính hiện đại cũng cho rằng, “bàn tay vô hình” cũng đưa nền kinh tế tới những thất bại. Đó chính là những khuyết tật của hệ thống thị trương. những thất bại này gây ra những tác động bên ngoài như: ô nhiễm không khí, nguồn nước mà doanh nghiệp không phải trả giá cho những ô nhiễm này; hoặc tính trạng độc quyền phá hoại cạnh tranh; hoặc các tệ nạn như khủng hoảng, thất nghiệp và sự phân phối bất bình đẳng.
Để đối phó với các khuyết tật của kinh tế thị trường, các nền kinh tế hiện đại đã phối hợp giữa bàn tay vô hình của thị trường và bàn tay hữu hình của chính phủ. Chính phủ có 4 chức năng chính trong nền kinh tế thị trường.
Một là, thiết lập khuôn khổ pháp luật. Chức năng này thực tế vượt ra ngoài khuôn khổ của kinhtế học. Chính phủ phải đề ra các quy tắc trò chơi kinh tế mà các chủ doanh nghiệp, người tiêu dùng và bản thân chính phủ phải tuân theo. Nó bao gồm các quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và nhiều luật lệ để xác định môi trường kinh tế.
Hai là, sửa chữa những thất bạn của thị trường để thị trường có thể hoạt động hiệu quả.
Trước hết, cần có sự can thiệp của chính phủ để hạn chế độc quyền, đảm bảo tính hiệu quả của cạnh tranh. Cạnh tranh hoàn hảo là tình trạng thị trường có đủ một số lượng doanh nghiệp hoặcmức độ cạnh tranh tới mức mà không một doanh nghiệp nào có thể ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá đó. chỉ có cạnh tranh hoàn hảo mới đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế. song trong nền kinh tế thị trường còn xuất hiện cạnhtranh không hoàn hảo, độc quyền, tình trạng mà một số người bán có khả năng tác động tới giá cả thị trường. Vấn đề này dẫn đến sự bóp méo giá cả và làm biến dạng cầu và sản xuất, dẫn đến sự không hiệu quả. hơn nữa lợi nhuận độc quyền có thể được đem sử dụng vào những mục đích không tốt.
Ngăn ngừa và khắc phục các tác động tiêu cực từ bên ngoài. Tác động bên ngoài xẩy ra khi doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí, lợi ích cho doanh nghiệp khác m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích vai trò nhà nước đối với điều tiết kinh tế trong các học thuyết kinh tế và ý nghĩa rút ra đối với Việt Nam.Doc