-Tên lửa chiến thuật “đất đối đất”: hiện nay xu hướng là giảm trọng lượng, tăng lượng thuốc nổ cho động cơ, tăng tầm bắn từ 150 km đến 300 km. Tên lửa được dẫn đường thông qua hệ thống định vị toàn cầu, xác suất trúng đích của tên lửa là rất cao.
-Tên lửa hành trình: tên lửa có những phát triển mới, đơn giản hoá thao tác, giảm thời gian chuẩn bị, xác suất trúng đích cao. Tên lửa được lắp đặt các thiết bị, kĩ thuật tiếp nhận hệ thống định vị toàn cầu, các sensơ điều khiển tên lửa có thể nhận dạng mục tiêu trong đêm tối, sương mù, tầm bắn 400 km.
Ngoài ra, các nước còn quan tâm nghiên cứu để chế tạo các loại vũ sử dụng công nghệ rất cao, khả năng huỷ diệt rất lớn như các loại pháo điện từ từ vũ trụ, vũ khí Laze, vũ khí xung điện từ, vũ khí âm thanh. hoặc các phương tiện trinh sát, theo dõi như vệ tinh trinh sát chụp ảnh, vệ tinh trinh sát điện tử, vệ tinh báo động sớm tên lửa đường đạn, các loại máy bay trinh sát không người lái, máy bay cảnh giới.
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3464 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích vai trò tác chiến của lực lượng phòng không-không quân trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và Điện Biên Phủ trên không 12 ngày đêm tháng 12-1972, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n chống thực dân Pháp, tiêu biểu là trong chiến dịch Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đỉnh cao là đập tan cuộc tập kích chiến lược của địch vào miền Bắc tháng 12-1972.
2.2.Thắng lợi của lực lượng phòng không-không quân Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ
2.2.1.Kháng chiến chống Pháp
Ngày 10-12-1910, lần đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện một máy bay của Pháp kiểu Farnan do Wanden Borg lái vào. Từ đó, thực dân Pháp đã tăng cường sử dụng máy bay để tấn công nhân dân ta. Năm 1917, thực dân Pháp đã cho sử dụng máy bay nóm bom vào cuộc khởi nghĩa của Lương Ngọc Quyến. Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 cũng bị thực dân đàn áp dã man. Chúng đã thả bom vào đoàn người nổi dậy làm chết hơn 300 người và làm bị thương hàng ngàn người. Lúc đó, trong tâm thức người Việt Nam, những chiếc máy bay là “con chim sắt” hay những chiếc tàu chiến là “con ngựa chết trương” ngay cả khẩu súng được coi là “cái đanh thổi lửa” đem lại nỗi kinh hoàng, tàn sát đối với người nông dân. Cho đến năm 1945, chúng ta vẫn chưa thể và chưa biết cách hạ máy bay của thực dân Pháp.
Sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, quân đội ta đã ý thức rất tốt về mối nguy hiểm của các phương tiện tiến công trên không của địch và đã có những chiến lược đúng đắn để từng bước xây dựng đội ngũ phòng không- không quân. Đi đôi với những biện pháp phòng tránh, quân đội ta đã từng dùng súng trường, súng máy thiết lập thành những tổ những trung đội, đại đội trực tiếp chiến đấu với không quân hiện đại của địch và những chiếc máy bay đầu tiên của quân xâm lược bị bắn rơi trên bầu trời Việt Nam. Ngày 29-6-1946 quân và dân huyện Đức Hoà(Long An) đã bắn rơi máy bay bằng súng bộ binh. Ngày 16-8-1946 đồng chí Nguyễn Cao Thương cán bộ bộ đội địa phương tỉnh Vĩnh Trà bắn rơi một máy bay trinh sát Pô-tê bằng súng trung liên. Chúng ta đã tận dụng và kết hợp tất cả những phương tiện hiện có để đánh địch như: “mìn tự tạo”, những quả “không lôi”, “mìn neo” gây cho giặc lái địch hoang mang lo sợ, không cho máy bay địch xà xuống thấp. Tuy nhiên do trang thiết bị còn thô sơ, lạc hậu, trình độ của ta chưa cao nên hiệu quả hạ máy bay địch còn thấp. Từ đó đặt ra yêu cầu cấp bách đối với quân đội ta là phải thành lập ra các binh chủng mang tính chính qui, chuyên nghiệp hơn.
Ngày 1-4-1953, tại rừng Bộc Nhiêu, Định Hoá, Thái Nguyên, đại tướng Võ Nguyên Giáp kí sắc lệnh thành lập trung đoàn 367 (6 tiểu đoàn pháo cao xạ 37 li ). Lớp không quân đầu tiên gồm những cán bộ chiến sĩ được tuyển chọn năm 1953 trở thành nòng cốt xây dựng đội ngũ cán bộ phòng không.
Lực lượng phòng không mới ra đời đã lập công lớn góp phần vào thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
Tương quan lực lượng của ta và địch lúc đó rất chênh lệch. Lúc đó nước Pháp đã là một cường quốc quân sự, chúng đã sử dụng rất nhiều loại máy bay hiện đại lúc bấy giờ. Điển hình là các loại : B24, AB.24, P.38, F.6F... Mặc dù vậy lực lượng không quân của ta không hề sợ hãi, đã dũng cảm, mưu trí sáng tạo lập công. Pháo cao xạ của ta tấn công, bao vây địch dữ dội. Nhiều máy bay địch thả lính dù và hàng tiếp tế bị ta bắn hạ. Ngoài ra, do bị hoả lực của ta bủa vây, máy bay Pháp không thể thả hàng tiếp tế vào đúng trận địa của địch mà chỉ dám thả ở vòng ngoài nên đa số hàng tiếp viện của chúng rơi vào tay chúng ta,làm cho địch đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Vào lúc 7h30 ngày 13-3-1954, ta bắn rơi chiếc máy bay đầu tiên của Pháp và chiếc máy bay cuối cùng của Pháp bị ta bắn hạ trong chiến dịch vào ngày 8-5-1954. Trong 56 ngày đêm chiến đấu ở Điện Biên Phủ, trung đoàn phòng không 367 đã bắn rơi 52 máy bay Pháp, bắn bị thương 117 máy bay của Pháp và Mỹ can thiệp.
Hình 2. Thực dân Pháp thả lính dù xuống Điện Biên Phủ
Ngày 20-7-1954 Hiệp định Giơnevơ kết thúc sự thống trị của chế độ thực dân cũ ở Đông Dương. Cầu Hiền Lương tạm thời là giới tuyến chia cắt hai miền Nam, Bắc Việt Nam.
2.2.2.Kháng chiến chống Mỹ
Tiếp nối truyền thống thắng lợi, lực lượng phòng không-không quân, quân ngày càng đựơc củng cố và hoàn thiện hơn.
-Ngày 21-3-1958: Thành lập Bộ tư lệnh Phòng không.
-Tháng 8-1958, quân đội ta tổ chức lớp học về radar đầu tiên (gồm 20 người được cử sang nước Trung Quốc học ). Sau đó, quân đội ta được trang bị đài radar đầu tiên do các nước bạn giúp đỡ. Lúc 0h ngày 1-3-1959 các đài radar của ta bắt đầu phát sóng đánh dấu sự kiện quan trọng là lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc Việt Nam quản lí bầu trời bằng sóng điện từ.
-Ngày 22-10-1963: Thành lập Quân chủng Phòng không Không Quân.
-Ngày 5-8-1964: Bộ đội phòng không đánh thắng trận đầu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ trên miền Bắc Việt Nam.
-Ngày 17-9-1967: Bộ đội phòng không bắn rơi chiếc máy bay B52 đầu tiên.
Lực lượng pháo phòng không của ta liên tục lập công. Tiêu biểu như trận đánh ngày 17-10-1967 trên tuyến đường số 1 Bắc dưới sự chỉ đạo của tiểu đoàn trưởng Nông Văn Dũng bảo vệ cầu Đáp Cầu đã tiêu diệt nhiều máy bay địch. 24 máy bay gồm 20 chiếc F.105 và 4 chiếc F.4 đánh cầu Đáp Cầu thị trấn Bắc Ninh. Năm đại đội pháo 37 (20 khẩu) và một trung đội súng máy PK 14,5mm đã đồng loạt nổ súng bắn rơi 5 chiếc F.105 có 4 chiếc rơi tại chỗ...
Được sự giúp đỡ của Liên Xô, năm 1966 đến năm 1967, chúng ta có được 2 súng máy và hai tên lửa X51.
Mỹ âm mưu phá hoại hiệp định Giơnevơ, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Mỹ hung hăng tuyên bố : “...chúng ta ném bom đẩy lùi miền Bắc Việt Nam về thời kì đồ đá...” . Mỹ huy động các loại máy bay hiện đại bậc nhất lúc đó như máy bay AC124, A1E(ném bom phốtpho trên mặt đất), AC.130H(máy bay ném bom chiến thuật bắn phá mạnh nhất, lớn nhất), A.6A,A.7,B52, B-57B, F.105F, F111, F4, RS74, EB-66...
Ngày 7-2-1965, bất chấp công ước quốc tế, tổng thống Mỹ Giônsơn đã cho máy bay Mỹ đánh phá Vĩnh Linh, Quảng Bình mở màn cho cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân Mỹ ở miền Bắc Việt Nam. Quân và dân miền Bắc Việt Nam anh dũng đáp trả lại quân địch. Đầu năm 1965, trận địa bắn máy bay bằng súng bộ binh của dân quân Vĩnh Linh đã bắn rơi máy bay phản lực Mỹ. Ngày 31-5-1966, một chiếc C.130 bị ta bắn rơi tại cầu Hàm Rồng, Thanh Hoá. Ngày 31-5-65, ta bắn rơi F-8U cũng tại cầu Hàm Rồng. Còn nhiều trận đánh nữa ,lực lượng phòng không của ta đã làm cho địch phải khiếp sợ và bảo vệ an toàn các mục tiêu đúng như lời Bác Hồ dạy: “...Ta nhất định thắng, Mỹ nhất định thua... Dù đế quốc Mỹ có lắm súng nhiều tiền, dù chúng có B52, B57 hay “Bê” gì đi nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng”(ngày 19-7-1965 khi Người đến thăm trung đoàn tên lửa 236).
Đỉnh cao của thắng lợi của lực lượng phòng không-không quân là vào 12 ngày đêm tháng 12-1972. Trong trận “Điện Biên Phủ trên không” này, đế quốc Mỹ huy động 193 máy bay ném bom B.52 (chiếm 46% tổng số B.52 của Mỹ), 1077 máy bay chiến thuật, kể cả F.111( chiếm 31% tổng số máy bay chiến thuật của Mỹ). Tập trung hải quân lớn nhất :6 tàu sân bay(chiếm 43% tổng số tàu sân bay của Mỹ). Căn cứ xuất phát :không quân chiến lược ở Anderson(Guam) và Utapao(Thái Lan), không quân chiến thuật tại 6 sân bay: Uđon, Ubon, Taili, Cò rạt, Nậm phong, Nakhon-phanom(Thái Lan) và 6 tàu sân bay (từ đông Hải Phòng đến đông Đà Nẵng). Ngoài ra chúng còn cấp tốc thiết lập ban chỉ huy tập đoàn không quân chiến lược số 57 (tại Guam) đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nicxơn.
Phía ta gồm có các sư đoàn phòng không 361(Hà Nội), 363(Hải Phòng), 375(Bắc đường 1), 365(Nam đường 1). Tên lửa: trung đoàn 257, 261, 274 (Hà Nội), 285, 238(Hải Phòng), 268(Hà Bắc), 263(Nghệ An). Radar :trung đoàn 290,291,292,293. Cao xạ :trung đoàn 220, 260, 212,245(Hà Nội), 252(Hải Phòng), 240, 213, 224, 216, 282(Bắc đường 1), 228, 226, 234(Nam đường 1). Không quân: trung đoàn 921, 923, 925, 927. Trung đoàn thông tin 26, tiểu đoàn vận tải, công binh. Xí nghiệp quốc phòng A31, A34, A38.
Trong trận Điện Biên Phủ trên không, lực lượng phòng không-không quân của ta đã phát huy hết sức mạnh, luôn trong trạng thái chiến đấu cao, sẵn sàng đối phó với các diễn biến trên chiến trường.
Ngày 18-12-1972, quân đội Mỹ mở cuộc không kích đầu tiên, đại đội 45 cùng đại đội 16 trung đoàn radar 291 đã phát hiện sớm B.52 và báo về trung tâm trước khi B.52 vào Hà Nội 35 phút, đủ thời gian cho đơn vị tên lửa, pháo cao xạ bố trí trận địa, chuyển từ trạng thái sẵn sàng chiến đấu sang trạng thái chiến đấu đánh trả, đủ thời gian cho nhân dân đi sơ tán. Các lực lượng pháo phòng không, tên lửa, bộ đội không quân tiêm kích của ta liên tiếp lập công. Thể hiện ở lịch bắn rơi B52 như dưới đây:
Lịch bắn rơi B.52
Ngày Đơn vị bắn rơi B.52 Số lượng
18/12 bộ đội tên lửa 3
19/12 bộ đội tên lửa 2
20/12 bộ đội tên lửa 7
21/12 bộ đội tên lửa 3
22/12 bộ đội tên lửa 2
24/12 pháo cao xạ 1
26/12 tên lửa và pháo cao xạ 8
27/12 tên lửa và không quân 5
28/12 tên lửa và không quân 2
29/12 tên lửa 1
Trong 12 ngày đêm anh hùng đó, ngày nào lực lượng phòng không-không quân cũng lập chiến tích vẻ vang. Không những bảo vệ được các mục tiêu quan trọng mà còn tiêu diệt được các phương tiện tiến công hiện đại bậc nhất của địch. Đến nỗi tổng thống Mỹ đã tuyên bố, nếu tiếp tục đánh Hà Nội, Hải Phòng thì trong vòng vài tuần nữa nước Mỹ sẽ hết B52! Địch phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam, tạo thế có lợi cho ta trên bàn đàm phán.
Như vậy, từ ngày 18.12 đến ngày 29-12-1972, quân và dân Miền Bắc đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ trong đó có 34 máy bay chiến lược B.52 và 5 F.111. Tiêu diệt và bắt sống hàng trăm giặc lái, bắn cháy 9 tàu chiến.
Hình 3. Máy bay B52 của Mỹ
Hình 4.Máy bay B52 của Mỹ phơi xác trên đường Hoàng Hoa Thám, Hà Nội
Tổng kết lại, số máy bay Pháp bị bắn rơi và phá hủy từ ngày 23-4-1945 tới ngày 20-7-1954 là 435 chiếc. Số máy bay Mỹ ngụy bị bắn rơi và phá hủy từ ngày năm 1961 tới ngày 30-4-1975 là 37143 chiếc. Trong đó miền Bắc bắn rơi 4181 chiếc (có 68 B.52, 13 F.111), bắt sống 472 giặc lái. Quân chủng phòng không không quân :bắn rơi 2635 chiếc (có 62 B.52 và 3 F.111).
Các binh chủng phòng không-không quân đã được Đảng và nhà nước ta khen thưởng, binh chủng tên lửa anh hùng :”...bắn rơi 800 máy bay gồm nhiều kiểu loại của không quân chiến lược và không quân chiến thuật của đế quốc Mỹ, trong đó có 57 B.52...” (trích tuyên dương anh hùng tháng 1-1973), binh chủng radar anh hùng :”...phát hiện được hơn 500,000,000 lần tốp máy bay và hàng vạn lần tàu chiến định xâm phạm vùng trời, vùng biển... ”(trích tuyên dương anh hùng ngày 20-10-1976), binh chủng pháo cao xạ anh hùng :”...đã bắn rơi 5000 máy bay địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ mục tiêu, bảo vệ giao thông vận tải chiến lược,bảo vệ các lực lượng hành quân chi viện cho các binh chủng bạn chiến đấu...”(trích tuyên dương anh hùng ngày 20-10-1976).
2.3.Xu hướng phát triển các phương tiện, vũ khí tiến công đường không
Trong những năm gần đây, khoa học công nghệ đã có những bước tiến vượt bậc. Mỗi khi có một phát minh thì hầu như trước hết nó được ứng dụng trong quân sự. Chính vì vậy, quân sự luôn là lĩnh vực có tính công nghệ rất cao. Đặc biệt là các phương tiện tiến công đường không luôn đi trước một bước, luôn được ứng dụng các công nghệ mới nhất. Chúng ta tìm hiểu một số trang thiết bị, vũ khí hiện đại.
2.3.1.Vũ khí tác chiến trên bộ
-Xe tăng: có khả năng cơ động cao, lớp vỏ áo giáo chịu đựng tốt, hoả lực mạnh. Ví dụ như xe tăng M21 của Mỹ kíp lái xe có 3 người, trên xe có trang bị hệ thống phòng chống hạt nhân, sinh hoá, hệ thống điều khiển tinh vi, thời gian chuẩn bị hoả lực ngắn, độ chính xác cao...
-Pháo: các loại pháo tự hành, pháo đa năng có tầm bắn từ 30 km cho đến 50 km. Ví dụ pháo tự hành M109 của Mỹ trọng lượng 55 tấn, tầm bắn 48 km, công suất động cơ 1500 mã lực, tốc độ lớn nhất 67 km/h, tốc độ bắn đạn 12 phát/phút.
-Trực thăng: Các trực thăng có kết cấu gọn nhẹ, trang bị hoả lực mạnh, tốc độ cao có khả năng giảm phản xạ sóng điện từ Radar đặc biệt là khả năng hoạt động ở tầm thấp. Ví dụ trực thăng AH-6D của Mỹ được trang bị Radar điều khiển hoả lực và tên lửa “phóng rồi quên” ,có hệ thống điều khiển tự động và chống nhiễu tác chiến trong mọi thời tiết.
-Tên lửa phòng không: vừa chống máy bay vừa chống tên lửa chiến thuật, giảm thời gian phản ứng, có thể phóng thẳng đứng, đối phó với nhiều mục tiêu. Ví dụ tên lửa Patriốt PAC-3 có khả năng đánh chặn mục tiêu cao, thời gian nạp đạn ngắn.
2.3.2.Vũ khí tác chiến trên không
-Máy bay chiến đấu: Máy bay chiến đấu là nòng cốt của hệ thống vũ khí không quân, trình độ máy bay chiến đấu phản ánh thực lực không chiến và trình độ công nghiệp của mỗi quốc gia. Hiện nay, các loại máy bay hiện đại đang được cac nước nghiên cứu, chế tạo là F22 của Mỹ, I.42 của Nga...
-Máy bay ném bom: Các máy bom ném bom chiến lược tàng hình được trang thiết bị gây nhiễu hiện đại. Có thể đột kích qua lưới lửa phòng không của đối phương với tốc độ lớn ở độ cao từ 15 km tới 18 km, bán kính tác chiến 1900 km. Ngoài ra, mỗi máy bay được trang bị nhiều tên lửa và bom(4 đến 6 tấn bom, 4 đến 6 tên lửa), có thể tấn công đối phương từ cự ly 200 đến 400 km.
-Máy bay vận tải quân sự: Các nước tích cực phát triển máy bay tầm trung kiểu mới có tốc độ nhanh, trọng tải lớn và khả năng bay thấp. Ví dụ TU330 của Nga trọng tải 35 tấn, có tốc độ 800 đến 850 km/h ,độ cao hành trình là 11 km, có thể bay xa 3000 km.
-Vũ khí trang bị trên máy bay: Các vũ khí trang bị trên máy bay rất hiện đại, tính năng kĩ thuật thuận lợi cho việc tấn công đối phương: tăng tầm bắn để có thể không kích từ xa, sử dụng kĩ thuật cao như vi điện tử, quang điện tử, hệ thống định vị toàn cầu, hệ thống điều khiển chính xác.
2.3.3.Các vũ khí tấn công tầm trung và tầm xa
-Tên lửa chiến thuật “đất đối đất”: hiện nay xu hướng là giảm trọng lượng, tăng lượng thuốc nổ cho động cơ, tăng tầm bắn từ 150 km đến 300 km. Tên lửa được dẫn đường thông qua hệ thống định vị toàn cầu, xác suất trúng đích của tên lửa là rất cao.
-Tên lửa hành trình: tên lửa có những phát triển mới, đơn giản hoá thao tác, giảm thời gian chuẩn bị, xác suất trúng đích cao. Tên lửa được lắp đặt các thiết bị, kĩ thuật tiếp nhận hệ thống định vị toàn cầu, các sensơ điều khiển tên lửa có thể nhận dạng mục tiêu trong đêm tối, sương mù, tầm bắn 400 km.
Ngoài ra, các nước còn quan tâm nghiên cứu để chế tạo các loại vũ sử dụng công nghệ rất cao, khả năng huỷ diệt rất lớn như các loại pháo điện từ từ vũ trụ, vũ khí Laze, vũ khí xung điện từ, vũ khí âm thanh... hoặc các phương tiện trinh sát, theo dõi như vệ tinh trinh sát chụp ảnh, vệ tinh trinh sát điện tử, vệ tinh báo động sớm tên lửa đường đạn, các loại máy bay trinh sát không người lái, máy bay cảnh giới.
Từ những năm 80 của thế kỉ 20 đã xuất hiện một khái niệm mới xuất hiện đó là tác chiến điện tử. Tác chiến điện tử là tập hợp các biện pháp chiến thuật, kĩ thuật dựa trên cơ sở các phương tiện và thiết bị vô tuyến điện tử hiện có nhằm đạt tới mục đích cuối cùng của chiên tranh vô tuyến điện tử là giành thế chủ động trên chiến trường thông qua các hình thức như trinh sát vô tuyến điện tử, chế áp vô tuyến điện tử, tác chiến điện tử phòng không...Các vệ tinh, máybay, chiến xa, chiến hạm nổi, tàu chiến...đều được trang bị các phương tiện tác chiến điện tử hình thành một hệ thống tác chiến điện tử không gian ba chiều, nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều hướng với nhiều dải sóng khác nhau. Tất cả tạo thành một hệ thống C3I hoàn hảo thực hiện việc chỉ huy kiểm soát thông tin tình báo thời gian thực trên chiến trường. Đồng thời các hệ thống tác chiến điện tử còn có khả năng chế áp điện tử, gây nhiễu, chống radar... làm cho hệ thống thông tin rối loạn, radar bị mù và hệ thống chỉ huy của đối phương bị tê liệt, vũ khí mất khả năng chiến đấu.
Cùng với sự phát triển sâu, rộng về mặt trang bị kỹ thuật của các phương tiện tiến công đường không thì phương pháp tác chiến cũng ngày càng được hoàn thiện và không ngừng đổi mới. Bên cạnh các phương tiện tác chiến truyền thống, các nguyên tắc và phương pháp tiên tiến cũng đang và đã được sử dụng như:
-Tập kích liên hợp, sử dụng tổng hợp nhiều lực lượng, nhiều loại phương tiện và vũ khí công nghệ cao. Đây là cách đánh phổ biến được sử dụng triệt để trong suốt quá trình tác chiến, đặc biệt là trong các trận mở đầu và các trận quyết định.
-Tập trung lực lượng lớn, tạo ưu thế hơn hẳn đối phương trước khi tấn công. Đây là phương châm tác chiến của các nước có ưu thế về lực lượng, vũ khí và trang bị, là “điểm tựa” của chiến thắng.
-Tác chiến toàn cầu và tác chiến siêu cự ly, đồng thời tiến công từ nhiều hướng, trên nhiều độ cao, vào nhiều khu vực mục tiêu. Đây là khả năng tác chiến đặc biệt của các phương tiện tiến công đường không dựa vào cự ly hoạt động lớn, có thể tiến hành tấn công vào bất cứ vị trí nào và đánh đối phương từ nhiều cự ly, nhiều hướng (trên không,trong không gian, trên bộ, trên biển), kết hợp đánh phá các hệ thống phòng không với hệ thống các mục tiêu khác.
-Phóng đạn từ xa. Từ vành đai ngoài hoả lực phòng không phóng đạn vào mục tiêu đạt được yêu cầu đề ra mà không bị tiêu hao lực lượng.
-Tàng hình đột phá phòng ngự. Vượt qua lực lượng phòng không đối phương bằng các vũ khí tàng hình, trực tiếp đánh vào các mục tiêu quan trọng, làm tê liệt hệ thống chỉ huy của đối phương.
-Tiến công liên tục suốt ngày đêm, trong mọi điều kiện thời tiết, đánh tập trung kết hợp với đánh xen kẽ, để tăng nhịp độ tác chiến và tiến trình của chiến tranh, phát huy được ưu thế của kỹ thuật hiện đại, làm cho đối phương phải liên tục đối phó, không có thời gian củng cố, khôi phục chiến đấu.
2.4.Xây dựng lực lượng Phòng không-không quân ở nước ta hiện nay
Phòng không là toàn bộ các biện pháp và hành động nhằm quản lí, bảo vệ an toàn vùng trời tổ quốc. Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp phòng không được coi trọng từ những ngày đầu kháng chiến, nhưng từ năm 1951 mới dần tổ chức thành lực lượng phòng không chiến đấu của bộ đội binh chủng hợp thành và góp phần xứng đáng vào chiến thắng Điện Biên Phủ (1954). Trong kháng chiến chống Mỹ, phòng không Việt Nam đã đánh bại chiến tranh phá hoại bằng không quân của địch, bảo vệ miền Bắc, bảo vệ giao thông chiến lược, bảo vệ bộ đội, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trong tương lai, phòng không phải đối phó với các cuộc tiến công, tập kích đường không từ vũ trụ và từ trên không bằng các phương tiện vũ khí hiện đại luôn được cải tiến và hoàn thiện với các thủ đoạn mới, quy mô rộng, tính bất ngờ cao.
Hiện nay lực lực lượng ta biên chế gồm có: lực lượng phòng không quốc gia, lực lượng phòng không lục quân, lực lượng phòng không hải quân và lực lượng phòng không địa phương.
2.4.1.Lực lượng phòng không quốc gia
Lực lượng phòng không quốc gia có nhiệm vụ bảo vệ an toàn vùng trời tổ quốc, bảo vệ những mục tiêu quan trọng của đất nước, là đơn vị nòng cốt. Hiệp đồng tác chiến với các lực lượng phòng không khác để tổ chức đánh trả các cuộc tập kích đường không của địch có hiệu quả. Lực lượng phòng không quốc gia của ta biên chế gồm :bộ đội tên lửa phòng không, bộ đội radar phòng không, bộ đội pháo phòng không, bộ đội không quân tiêm kích.
2.4.1.1.Bộ đội tên lửa phòng không
a.Nhiệm vụ: là binh chủng cơ bản của bộ đội phòng không quốc gia có nhiệm vụ hiệp đồng chặt chẽ với các quân binh chủng đánh trả các cuộc tập kích đường không của địch một cách có hiệu quả, bảo vệ vững chắc mục tiêu được giao. Đồng thời bộ đội tên lửa phòng không còn tham gia vào việc đập tan các cuộc tiến công trên bộ của địch bằng cách yểm hộ cho bộ binh, không quân hoạt động trên chiến trường.
b.Biên chế tổ chức: phụ thuộc vào trang thiết bị kĩ thuật, nhiệm vụ được giao, đặc điểm hoạt động của địch trên không, tính chất khu vực mục tiêu được bảo vệ và phương pháp chiến đấu của ta. Bộ đội tên lửa phòng không được tổ chức thành các trung(lữ) đoàn, trong trung(lữ) đoàn có các phân đội hoả lực, phân đội kĩ thuật và các phân đội đảm bảo khác.
c.Khả năng chiến đấu:
-Có hoả lực mạnh, hiệu quả cao.
-Có khả năng tiêu diệt mục tiêu trên không có độ cao từ 20m đến 30 km.
-Có khả năng chiến đấu trong mọi điều kiện thời tiết.
-Có khả năng cơ động hoả lực nhanh.
2.4.1.2.Bộ đội radar phòng không
a.Nhiệm vụ: là một binh chủng đảm bảo chủ yếu cho tác chiến phòng không và phòng tránh địch trên không của quân chủng phòng không, của quân đội và phòng không nhân dân trong cả nước. Nhiệm vụ là quản lí chặt chẽ vùng trời tổ quốc, kịp thời phát hiện mọi hoạt động trên không đặc biệt là thời điểm tập kích đường không của địch để tổ quốc không bị bất ngờ trong mọi tình huống.
b.Biên chế tổ chức: trung đoàn radar phòng không thuộc biên chế sư đoàn phòng không. Dưới trung đoàn có các trạm radar (radar cảnh giới, radar dẫn đường), các cụm vọng quan sát và một phân đội phục vụ cho chỉ huy.
c.Đặc điểm chiến đấu:
-Thường xuyên sẵn sàng chiến đấu, tình huống chiến đấu diễn biến khẩn trương, phức tạp, quyết liệt, không gian rộng lớn.
-Đối tượng chiến đấu có số lượng máy bay nhiều và phương tiện hoạt động đường không được trang bị hiện đại.
-Đội hình chiến đấu phân tán, rộng khắp lại chịu ảnh hưởng nhiều vào điều kiện địa hình thời tiết khác nhau song lại đòi hỏi sự chỉ huy chiến đấu tập trung thống nhất cao.
-Hiệp đồng chiến đấu với các đơn vị có yêu cầu cao và khác nhau, nhất là đối với các đơn vị hoả lực phòng không.
-Trang bị khí tài đồng bộ, hiện đại, trong chiến đấu đảm bảo kĩ thuật rất phức tạp, tiêu thụ cơ sở vật chất lớn.
2.4.1.3.Bộ đội pháo phòng không
a.Nhiệm vụ: là binh chủng có nhiệm vụ hiệp đồng với không quân tiêm kích, tên lửa phòng không, radar phòng không cũng như các phương tiện phòng không khác, bảo vệ vững chắc vùng trời tổ quốc. Tiêu diệt các mục tiêu trên không từ tầm trung trở xuống (chủ yếu là máy bay chiến thuật, trực thăng, tên lửa có cánh..). Đồng thời bảo vệ bộ đội hợp thành trong các hình thức tác chiến.
b.Biên chế, tổ chức: pháo phòng không là lực lượng cơ bản để xây dựng lực lượng phòng không tại chỗ, tầng thấp và rộng khắp. Chính vì vậy, pháo phòng không được biên chế thuộc quân chủng phòng không, quân chủng hải quân và các quân khu, quân đoàn.
c.Tính chất chiến đấu:
-Diễn biến nhanh, khẩn trương, liên tục, phức tạp.
-Yêu cầu hiệp đồng tác chiến cao.
-Hình thức, phương pháp chiến đấu khá phong phú, đa dạng.
2.4.1.4.Bộ đội không quân tiêm kích
a.Nhiệm vụ: là binh chủng được trang bị máy bay tiêm kích để tiêu diệt các khí cụ bay (có hoặc không có người lái) của đối phương ở trên không. Có thể được dùng để đánh phá các mục tiêu trên mặt đất, mặt nước và trinh sát đường không.
b.Biên chế tổ chức: trong binh chủng được chia thành các sư đoàn tiêm kích phóng không, dưới là các trung đoàn. Trong trung đoàn không quân tiêm kích có các phi đội và các đơn vị đảm bảo. Trong tổ hợp không quân tiêm kích-tên lửa, ngoài các máy bay tiêm kích còn các đài radar, các hệ thống dẫn đường cho máy bay tiêm kích trong quân chủng phòng không thường là tự động, điều này cho phép nâng cao hiệu quả chiến đấu của không quân tiêm kích rất nhiều.
c.Đặc điểm chiến đấu:
-Có thể chiến đấu ban ngày, ban đêm, trong mọi điều kiện khí tượng khác nhau.
-Có thể quan sát bằng mắt được.
-Đánh đơn hoặc đánh trong đội hình tốp, độc lập hoặnc được dẫn đường từ sở chỉ huy.
d.Hiệp đồng tác chiến:
-Hiệp đồng theo độ cao, khu vực hoả lực.
-Hiệp đồng theo hướng mục tiêu bảo vệ.
-Hiệp đồng theo dộ cao.
2.4.2.Lực lượng phòng không lục quân
a.Nhiệm vụ: để đảm bảo an toàn cho hoạt động tác chiến của bộ đội trên mặt đất do lực lượng phòng không trong biên chế của bộ đội lục quân tiến hành độc lập hoặc có phối hợp với các lực lượng phòng không khác.
b.Biên chế: được biên chế từ Bộ tổng tham mưu đến các quân khu, quân đoàn xuống đến tỉnh thành và cấp thấp nhất là huyện.
2.4.3.Lực lượng phòng không hải quân
a.Nhiệm vụ: phòng không hải quân được tiến hành để đánh trả và phòng tránh các cuộc tiến công đường không của đối phương, bảo vệ lực lượng hải quân hoạt động trên biển và các điểm trú đậu, các tuyến giao thông trên biển và các mục tiêu quan trọng của hải quân.
b.Biên chế:
-Mỗi vùng hải quân có 1 tiểu đoàn 37 ly hai nòng.
-Mỗi lữ đoàn hải quân có một tiểu đoàn pháo 37 ly hai nòng và một trung đội tên lửa A.83.
-Ngoài ra trên các hạm tàu đều có trang bị súng máy và pháo phòng không 37 ly tuỳ theo tàu lớn hay nhỏ.
2.4.4.Phòng không địa phương
a.Nhiệm vụ: phòng không để bảo vệ các mục tiêu kinh tế, chính trị, quân sự, đầu mối giao thông quan trọng và tính mạng, tài sản nhân dân ở địa phương đó do bộ đội phòng không của tỉnh, thành, quận, huyện... tiến hành dưới sự chỉ đạo của cơ quan quân sự địa phương phối hợp với các lực lượng phòng không khác.
b.Biên chế tổ chức:
-Lực lượng phòng không của quân khu được trang bị và biên chế theo lực lượng phòng không lục quân.
-Lực lượng phòng không trong dân quân tự vệ do ban chỉ huy quân sự tỉnh, thành, quận, huyện...lãnh đạo trực tiếp. Lực lượng này được biên chế 2-3% trong tổng số dân quân tự vệ địa phương, được giao nhiệm vụ chủ yếu bảo vệ các mục tiêu quan trọng của địa phương.
3.Cảm nhận bản thân
Ta có thể hình dung cục diện một cuộc chiến diễn ra trong tương lai như sau. Mở màn cuộc chiến, bên tiến công tiến hành thủ đoạn gây sát thương “ mềm” bằng tác chiến điện tử, làm cho công tác chỉ huy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60245.DOC