Tiểu luận Phân tích về các hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự 2005 và một vài nhận xét, kiến nghị về các quy định đó

MỤC LỤC

MỤC LỤC 1

LỜI MỞ ĐẦU 3

NỘI DUNG 4

PHẦN THỨ NHẤT: CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG BLDS 2005. 4

I. SỞ HỮU NHÀ NƯỚC. 4

1. Khái niệm chung và đặc điểm: 4

2. Chủ thể của sở hữu nhà nước. 5

3. Khách thể của sở hữu nhà nước. 6

4. Nội dung hình thức sở hữu nhà nước. 6

II. SỞ HỮU TẬP THỂ. 7

1. Khái niệm chung và đặc điểm. 7

2. Chủ thể của sở hữu tập thể. 8

3. Khách thể của sở hữu tập thể. 8

4. Nội dung của sở hữu tập thể. 9

III. SỞ HỮU TƯ NHÂN. 9

1. Khái niệm chung và đặc điểm. 9

2. Chủ thể của hình thức sở hữu tư nhân. 10

3. Khách thể của hình thức sở hữu tư nhân. 10

4. Nội dung sở hữu tư nhân. 11

IV. SỞ HỮU CHUNG. 12

1. Khái niệm chung và đặc điểm. 12

2. Chủ thể của sở hữu chung. 12

3. Khách thể của sở hữu chung. 13

4. Nội dung của sở hữu chung. 13

V. SỞ HỮU CỦA TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ, TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI. 14

1. Khái niệm chung và đặc điểm 14

2. Chủ thể của hình thức sở hữu tài sản của các TCCT, TCCT-XH. 15

3. Khách thể của quan hệ sở hữu tài sản của các TCCT, TCCT-XH. 15

4. Nội dung sở hữu của TCCT, TCCT-XH. 16

VI. SỞ HỮU CỦA TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI – NGHỀ NGHIỆP, TỔ CHỨC XÃ HỘI, TỔ CHỨC XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP. 17

PHẦN THỨ HAI: NHỮNG NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ. 17

I. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ CHUNG. 17

II. MỘT VÀI NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ CHO CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU. 19

1. Đối với hình thức sở hữu nhà nước. 19

2. Đối với hình thức sở hữu tập thể. 20

3. Hình thức sở hữu tư nhân. 21

4. Về vấn đề sở hữu chung trong nhà chung cư. 21

KẾT LUẬN. 22

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 23

 

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6876 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích về các hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự 2005 và một vài nhận xét, kiến nghị về các quy định đó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trị kinh tế và có vai trò đặc biệt trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Điều 17 Hiến pháp 1992 và Điều 200 BLDS 2005 đã liệt kê khá rõ những loại tài sản này: Điều 17 Hiến pháp 1992: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân.” Ðiều 200 BLDS 2005: “Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định”. 4. Nội dung hình thức sở hữu nhà nước. Điều 202 BLDS 2005: “Quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước Việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước được thực hiện trong phạm vi và theo trình tự do pháp luật quy định”. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách là chủ sở hữu đặc biệt cũng có những quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những tài sản thuộc sở hữu của mình. Quyền chiếm hữu: Nhà nước thực hiện quyền chiếm hữu tài sản của mình bằng cách ban hành các văn bản pháp quy, quy định việc bảo quản, quy định thể lệ kiểm tra tài sản định kì và đột xuất để kiểm tra tài sản mà Nhà nước đã giao cho các cơ quan, doanh nghiệp của Nhà nước. Các cơ quan, doanh nghiệp phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định này. Quyền sử dụng: Với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước đương nhiên có quyền khai thác công dụng những tài sản thuộc sở hữu của mình. Tuy nhiên, việc này cũng khác với quyền sử dụng của các chủ thể khác đối với tài sản của mình: Nhà nước thực hiện việc khai thác lợi ích đối với tài sản của mình theo quy định của pháp luật và theo một kế hoạch nhất định, Nhà nước không trực tiếp thực hiện quyền sử dụng tài sản mà quyền này được chuyển giao cho các cơ quan, doanh nghiệp của Nhà nước để khai thác công dụng, hoặc Nhà nước chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân thông qua các hợp đồng dân sự hay thủ tục hành chính nhất định. Quyền định đoạt: Nhà nước định đoạt tài sản của mình bằng nhiều phương thức khác nhau. Việc định đoạt này có thể trực tiếp đươc thực hiện bởi các cơ quan quản lí Nhà nước ở trung ương và địa phương hoặc Nhà nước có thể cho phép các doanh nghiệp do Nhà nước thành lập thực hiện một phần quyền định đoạt đó. II. SỞ HỮU TẬP THỂ. 1. Khái niệm chung và đặc điểm. Sở hữu tập thể là một phạm trù kinh tế chỉ một hình thức sở hữu về TLSX, vốn, các loại tài sản khác do cá nhân, hộ gia đình đóng góp để sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung của tập thể được quy định trong điều lệ. Điều 208 BLDS 2005 đưa ra khái niệm sở hữu tập thể như sau: “Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng quản lý và cùng hưởng lợi”. Quyền sở hữu tập thể của hợp tác xã là một phạm trù pháp lí gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu tập thể của hợp tác xã. 2. Chủ thể của sở hữu tập thể. Xuất phát từ quy định ở Điều 208 BLDS: “Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác...”, có thể xác định được chủ thể của sở hữu tập thể chính là từng hợp tác xã riêng biệt (ví dụ như các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã công nghiệp, các hợp tác xã theo các ngành nghề khác theo Luật hợp tác xã năm 2003). Mỗi hợp tác xã là một chủ thể riêng biệt, là một chủ sở hữu đối với tài sản riêng của mình và do đó có quyền sở hữu đối với toàn bộ tài sản của hợp tác xã. Hợp tác xã trong sở hữu tài sản tập thể là một chủ thể dân sự thống nhất, không phụ thuộc vào số lượng xã viên, sở hữu tập thể của hợp tác xã không phải là sở hữu chung theo phần của từng các nhân. 3. Khách thể của sở hữu tập thể. Khách thể của sở hữu tập thể bao gồm các TLSX (không gồm các TLSX đặc biệt thuộc sở hữu toàn dân theo quy định tại Điều 17 Hiến pháp 1992 và Điều 200 BLDS 2005), công cụ lao động, vốn góp của xã viên, các loại quỹ do hợp tác xã lập ra. Tài sản thuộc sở hữu tập thể được quy định tại Điều 209 BLDS 2005: “Tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể Tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên, thu nhập hợp pháp do sản xuất, kinh doanh, được Nhà nước hỗ trợ hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu của tập thể đó”. 4. Nội dung của sở hữu tập thể. Nội dung của sở hữu tập thể (bao gồm cả ba lĩnh vực: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) được quy định tại Điều 210 BLDS 2005 như sau: “Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể 1. Việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể phải tuân theo pháp luật, phù hợp với điều lệ của tập thể đó, bảo đảm sự phát triển ổn định của sở hữu tập thể. 2. Tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể được giao cho các thành viên khai thác công dụng bằng sức lao động của mình trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm phục vụ nhu cầu mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế chung và lợi ích, nhu cầu của các thành viên. 3. Thành viên của tập thể có quyền được ưu tiên mua, thuê, thuê khoán tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể”. III. SỞ HỮU TƯ NHÂN. 1. Khái niệm chung và đặc điểm. Điều 211 BLDS 2005 quy định: “Sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân”. Theo các quy định từ Điều 211 đến Điều 213 có thể hiểu sở hữu tư nhân là sở hữu của từng cá nhân công dân về tư liệu sinh hoạt, tư liệu tiêu dùng và những tư liệu sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của công dân. Ba loại của sở hữu tư nhân được phân biệt bởi các yếu tố: Vốn, TLXS, đăng kí kinh doanh, quy mô vốn, sử dụng lao động làm thuê... Quyền sở hữu tư nhân theo BLDS là một bộ phận của chế định quyền sở hữu, điều chỉnh các quan hệ xã hội của cá nhân về sở hữu TLSX và tư liệu tiêu dùng. Quyền sở hữu tư nhân cũng có thể hiểu là những quyền dân sự cụ thể của cá nhân với tư cách là chủ sở hữu đối với tài sản của mình thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Đây là quyền bất khả xâm phạm, không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật. 2. Chủ thể của hình thức sở hữu tư nhân. Chủ thể của sở hữu tư nhân là từng cá nhân công dân. Nếu một tài sản hoặc một tập hợp tài sản thuộc quyền sở hữu của hai hay nhiều người thì chủ sở hữu là từng người trong số họ (đồng chủ sở hữu). Mọi cá nhân dù đã trưởng thành hay chưa trưởng thành, có hay không có năng lực hành vi dân sự hoặc năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ đều có “Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản” thuộc quyền sở hữu của mình. (khoản 2 Điều 15 BLDS 2005). Muốn trở thành chủ thể của sở hữu tư nhân được toàn quyền tự mình hành xử những quyền năng của chủ sở hữu phải có những điều kiện nhất định. Trường hợp công dân không có năng lực hành vi dân sự, năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ, khi thực hiện quyền sử dụng hay định đoạt phải thông qua hành vi của người giám hộ theo quy định từ Điều 59 đến Điều 79 BLDS 2005. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi định đoạt tài sản như tặng, cho, trao đổi... phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. BLDS ngoài việc quy định chủ thể của sở hữu tư nhân là công dân Việt Nam còn công nhận các chủ thể sở hữu tư nhân là công dân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có vốn về nước để sản xuất, kinh doanh. Những nguời này cũng là chủ thể của sở hữu tư nhân đối với phần vốn, tài sản mà họ sở hữu ở Việt Nam. 3. Khách thể của hình thức sở hữu tư nhân. Khách thể của sở hữu tư nhân là những tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân công dân (có thể là TLSX hoặc tư liệu tiêu dùng). Trong BLDS 20065, các loại tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân được quy định tại Điều 212: “Tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân 1. Thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác của cá nhân là tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân. Tài sản hợp pháp thuộc hình thức sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng, giá trị. 2. Cá nhân không được sở hữu đối với tài sản mà pháp luật quy định không thể thuộc hình thức sở hữu sở hữu tư nhân.” 4. Nội dung sở hữu tư nhân. Trong BLDS 2005, Điều 213 quy định về việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu tư nhân: “Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân 1. Cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác phù hợp với quy định của pháp luật. 2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Cá nhân có thể tự mình thực hiện quyền chiếm hữu tài sản hoặc thông qua một hợp đồng dân sự giao cho người khác thực hiện quyền chiếm hữu (gửi giữ) hoặc cả quyền sử dụng (cho thuê, mượn). Quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu tư nhân được pháp luật Dân sự khuyến khích tạo điều kiện nhằm giải phóng sức sản xuất và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Cá nhân không được sử dụng quyền của mình để hoạt động sản xuất kinh doanh bất hợp pháp. Trong hình thức sở hữu tư nhân, chủ sở hữu không những có quyền sở hữu mà còn có toàn quyền sử dụng, định đoạt tài sản đó nhưng không được gây thiệt hại và ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. IV. SỞ HỮU CHUNG. 1. Khái niệm chung và đặc điểm. Trong sáu hình thức sở hữu tại Bộ luật Dân sự 2005 thì hình thức sở hữu chung được quy định với nhiều Điều luật nhất (13 điều, từ Điều 214 đến Điều 226). BLDS 2005 đưa ra khái niệm và phân loại sở hữu chung trong Điều 214: “Sở hữu chung Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản. Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung”. Việc xác lập sở hữu chung có thể từ thỏa thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán (theo Điều 215). “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung” (khoản 1 Điều 216 BLDS). Sở hữu chung theo phần bao gồm sở hữu chung hỗn hợp và các loại sở hữu chung theo phần khác. Các điều 216 và 218 quy định về sở hữu chung theo phần, sở hữu chung hỗn hợp, tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp và việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp. Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia (ví dụ sở hữu chung của vợ chồng trong quá trình hôn nhân) và sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia (ví dụ sở hữu chung của cộng đồng, sở hữu chung trong nhà chung cư đối với cầu thang, sân chơi...). 2. Chủ thể của sở hữu chung. Chủ thể của sở hữu chung là tất cả các chủ sở hữu đối với tài sản đó (hình thức đồng sở hữu). Mỗi đồng chủ sở hữu khi thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung sẽ liên quan đến quyền lợi của tất cả các đồng chủ sở hữu khác. Tuy nhiên, mỗi đồng chủ sở hữu trong sở hữu chung có vị trí độc lập và tham gia quan hệ pháp luật dân sự một với tư cách là một chủ sở hữu độc lập. Tính chất cùng “chung nhau sở hữu” đối với tài sản chung hoàn toàn khác tính chất chung trong sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp. (Trong sở hữu tập thể, tài sản là của chung tất cả xã viên nhưng các thành viên của tập thể đó không có tư cách là chủ sở hữu). 3. Khách thể của sở hữu chung. Khách thể của sở hữu chung là một hoặc một tập hợp tài sản có đặc điểm là thống nhất, tài sản này khi chia tách về mặt vật lí thì sẽ không còn giá trị sử dụng như ban đầu, các chủ sở hữu sẽ không còn khai thác được công dụng vốn có của nó. Ví dụ: đem chia tách chiếc cầu thang bộ của một ngôi nhà chung cư ra thì chiếc cầu thang đó sẽ không còn tác dụng. BLDS 2005 cũng có quy định về vấn đề chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung tại Điều 224, Điều 226 quy định các trường hợp chấm dứt sở hữu chung. 4. Nội dung của sở hữu chung. Việc sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu chung phải được các đồng chủ sở hữu thỏa thuận dựa trên tính chất, công dụng của tài sản và dựa vào hoàn cảnh cụ thể của các đồng sở hữu chung. Việc thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung của hình thức sở hữu chung được quy định trong BLDS 2005 tại các Điều 221 (chiếm hữu), Điều 222 (sử dụng) và Điều 223 (định đoạt). Đối với việc sử dụng tài sản (Điều 222). Các đồng chủ sở hữu có thể thỏa thuận và lựa chọn một trong những hình thức: Cùng sử dụng để khai thác công dụng của tài sản; thay phiên nhau sử dụng; hoặc trong trường hợp các chủ sở hữu mua chung tài sản để cho thuê thì căn cứ vào phần quyền tài sản của mỗi chủ sở hữu để xác định quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người. Điều 223 quy định việc định đoạt tài sản chung như sau: “1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. 2. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật. 3. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn ba tháng đối với tài sản chung là bất động sản, một tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác. Trong trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Tòa án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. 4. Trong trường hợp một trong các chủ sở hữu chung từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung còn lại”. V. SỞ HỮU CỦA TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ, TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI. 1. Khái niệm chung và đặc điểm. Khái niệm sở hữu chung của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (TCCT, TCCT-XH) được quy định trong Điều 227 BLDS 2005. Theo đó ta có thể hiểu: Sở hữu của các TCCT, TCCT-XH là một phạm trù kinh tế để chỉ một loại hình sở hữu về tài sản là những cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị, vốn, các loại quỹ... của các tổ chức đó. Sở hữu của các TCCT, TCCT-XH là sở hữu chung không phân chia của các thành viên trong tổ chức để thực hiện những nhiệm vụ, mục đích được ghi trong điều lệ. Sở hữu của các TCCT, TCCT-XH là sở hữu chung của một pháp nhân nhưng mang tính chất cộng đồng, khác hình thức sở hữu tập thể và sở hữu chung thông thường. Quyền sở hữu của các TCCT, TCCT-XH là một phạm trù pháp lý được hiểu là: Tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của các chủ thể là TCCT, TCCT-XH. 2. Chủ thể của hình thức sở hữu tài sản của các TCCT, TCCT-XH. Mỗi TCCT, TCCT-XH là một chủ thể sở hữu riêng biệt đối với tài sản của tổ chức mình. Các TCCT, TCCT-XH ở nước ta rất đa dạng như: Đảng cộng sản Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội chữ thập đỏ, Hội nhà văn, Hội luật gia, Hội cựu chiến binh, các hội theo ngành nghề khác... Các TCCT, TCCT-XH là chủ sở hữu trong quan hệ pháp luật về sở hữu luôn nhân danh tổ chức mà không nhân danh nhà nước. Để trở thành chủ thể quyền sở hữu trong quan hệ pháp luật dân sự, các tổ chức đó phải là một tổ chức tự nguyện, thống nhất của người lao động cùng chung một lợi ích hay cùng giai cấp hoặc cùng một nghề nghiệp. Với tư cách là chủ thể sở hữu, các TCCT, TCCT-XH thực hiện đủ các quyền năng của một chủ sở hữu. 3. Khách thể của quan hệ sở hữu tài sản của các TCCT, TCCT-XH. Khách thể của quan hệ sở hữu của các TCCT, TCCT-XH là những tài sản cụ thể, xác định của một tổ chức. Tài sản đó có thể là những cơ sở vật chất, kỹ thuật, các trang thiết bị dùng để phục vụ cho quá trình hoạt động của tổ chức; các loại tài sản khác như: vốn, các loại quỹ hoặc các tài sản thuộc sở hữu của tổ chức đó. Phạm vi khách thể thuộc sở hữu của các TCCT, TCCT-XH rất phong phú và đa dạng. Điều 228 quy định về tài sản thuộc hình thức sở hữu của TCCT, TCCT-XH: “Tài sản thuộc hình thức sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội 1. Tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên, tài sản được tặng cho chung và từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước đã chuyển giao quyền sở hữu cho tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội là tài sản thuộc sở hữu của tổ chức đó. 2. Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước giao cho tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội để quản lý và sử dụng thì không thuộc sở hữu của tổ chức đó”. 4. Nội dung sở hữu của TCCT, TCCT-XH. Các TCCT, TCCT-XH với tư cách là chủ sở hữu cũng có đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự nhưng cũng có những nét đặc thù. Điều 229 BLDS quy định: “Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình theo quy định của pháp luật và phù hợp với mục đích hoạt động được quy định trong điều lệ”. Quyền chiếm hữu: Các TCCT, TCCT-XH kiểm soát tài sản của mình bằng các phương thức như ban hành các nội quy, quy định nội bộ về việc quản lí, kiểm kê, kiểm soát tài sản. Quyền sử dụng: Cũng như các chủ thể khác, TCCT, TCCT-XH có quyền khai thác công dụng của tài sản để thực hiện chức năng của tổ chức đó. Trong quá trình khai thác tài sản, ngoài việc tuân theo các quy định của pháp luật còn phải phù hợp với mục đích hoạt động đã được quy định trong điều lệ. Việc sử dụng tài sản phải đúng tính năng, đúng công dụng, đúng phương thức, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Quyền định đoạt: TCCT, TCCT-XH có quyền quyết định về việc sử dụng, chuyển giao, mua bán tài sản, hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân cần giúp đỡ... Là chủ sở hữu, các TCCT, TCCT-XH có toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình nhưng phải phù hợp với mục đích hoạt động được quy định trong điều lệ, phù hợp với trình tự, thủ tục định đoạt nếu pháp luật có quy định. VI. SỞ HỮU CỦA TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI – NGHỀ NGHIỆP, TỔ CHỨC XÃ HỘI, TỔ CHỨC XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP. Cũng tương tự như hình thức sở hữu của TCCT, TCCT-XH, trong BLDS 2005 hình thức sở hữu này được quy định thành một mục gồm 3 điều từ Điều 230 đến Điều 232. Điều 230 đưa ra khái niệm của hình thức sở hữu này: “Sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (TCCTXH, TCXH, TCXH-NN) là sở hữu của cả tổ chức đó nhằm thực hiện mục đích chung của các thành viên được quy định trong điều lệ”. Hình thức sở hữu của TCCTXH, TCXH, TCXH-NN được quy định trong BLDS 2005 có đặc điểm là: Về chủ thể: Cũng như hình thức sở hữu của TCCT, TCCT-XH, mỗi TCCTXH, TCXH, TCXH-NN là chủ thể sở hữu riêng biệt đối với tài sản của mình và có đầy đủ các quyền năng của một chủ sở hữu. Về khách thể: Khách thể của quan hệ sở hữu của các TCCT, TCCT-XH, TCCTXH, TCXH, TCXH-NN là những tài sản cụ thể, xác định. Tài sản đó “được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên, tài sản được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu của TCCT, TCCT-XH, TCCTXH, TCXH, TCXH-NN đó” (trích Điều 231 BLDS). Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của các TCCT, TCCT-XH, TCCTXH, TCXH, TCXH-NHÀ NƯỚC phải theo quy định của pháp luật và phù hợp với mục đích hoạt động được quy định trong điều lệ (quy định trong Điều 232) PHẦN THỨ HAI: NHỮNG NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ. I. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ CHUNG. Sau một thời gian đi vào cuộc sống, Bộ luật Dân sự đã phát huy vai trò trong việc tạo lập hành lang pháp lý cho các giao dịch dân sự, tạo chuẩn mực ứng xử pháp lý cho các chủ thể tham gia các giao dịch, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể. Tuy nhiên, do sự phát triển của kinh tế - xã hội,  Bộ luật cũng đã bộc lộ ít nhiều hạn chế, nhất là những vấn đề liên quan đến sở hữu. Trong chế định về các hình thức sở hữu, nhìn chung BLDS 2005 đã có những cải thiện rõ rệt so với BLDS 1995. Điểm hợp lí đã được khẳng định trong suốt thời gian qua khi Bộ luật phát huy vai trò trong thực tiễn cuộc sống. Tuy vậy, do các nguyên nhân khác nhau trong quá trình xây dụng luật và do sự phát triển không ngừng của xã hội, chúng ta đã nhận thấy một vài điểm không phù hợp trong nội dung về các hình thức sở hữu. BLDS 2005 quy định có sáu hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (gọi chung là các tổ chức). Nhìn chung thì sáu hình thức sở hữu của BLDS 2005 không thể hiện sự khác biệt về nội dung của quyền sở hữu. Việc phân loại các hình thức sở hữu như trong Bộ luật Dân sự là chưa hợp lý vì các hình thức sở hữu khác nhau ở hình thức thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu chứ không phải ở chức năng, nhiệm vụ, tính chất của các loại hình tổ chức. Sáu hình thức sở hữu hiện nay được xác định dựa trên sự liệt kê các loại hình tổ chức dựa theo chức năng nhiệm vụ của các loại hình tổ chức (pháp nhân). “Việc phân loại hình thức sở hữu căn cứ vào việc liệt kê chủ thể tỏ ra chưa khoa học vì sự liệt kê có thể chưa đầy đủ vì có thể còn nhiều loại hình tổ chức, các nhóm người mới phát sinh. Nếu như vậy thì khi có một thành phần kinh tế mới xuất hiện trong xã hội thì BLDS lại phải sửa, như vậy tính ổn định của BLDS không cao” - theo bà Hoàng Thị Thúy Hằng (Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp). Ngoài ra còn có sự không thống nhất trong tên gọi của một số hình thức sở hữu như Luật Đất đai thì quy định hình thức sử hữu toàn dân đối với đất đai còn Bộ luật Dân sự thì quy định hình thức sở hữu nhà nước đối với đất đai. Ngoài tên gọi và tiêu chí phân loại thì việc thiếu các quy định liên quan đến vật quyền như mối quan hệ giữa các loại quyền, thứ tự ưu tiên, hậu quả pháp lý khi xử lý các quyền… chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc đẩy mạnh lưu thông hàng hóa, khai thác có hiệu quả các loại tài sản, nhất là bất động sản. Từ những hạn chế trên, kiến nghị của cá nhân em là: Trong điều kiện Hiến pháp 1992 chưa sửa đổi, một mặt, vẫn phải ghi nhận các chế độ sở hữu theo Hiến pháp, đồng thời trong bộ luật Dân sự, là các hình thức sở hữu: toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu pháp nhân, sở hữu tư nhân và sở hữu chung; Mặt khác, cần bổ sung các quy định mang tính nguyên tắc trong bộ luật Dân sự làm cơ sở cho các quy chế pháp lý đối với các loại tài sản đặc thù do các luật chuyên ngành điều chỉnh. Ví dụ: quyền sử dụng đất, sở hữu trí tuệ, nhà chung cư, các loại giấy tờ có giá v.v… Nên dựa vào tiêu chí là sự khác biệt trong chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản để khẳng định hình thức sở hữu cho phù hợp, thay vì phân loại hình thức sở hữu theo kiểu liệt kê như hiện nay. Cụ thể, nếu tài sản thuộc về một chủ thể thì gọi là hình thức sở hữu tư nhân. Nếu tài sản thuộc sở hữu của từ hai chủ thể trở lên thì gọi là hình thức sở hữu chung. Cuối cùng, nếu tài sản thuộc về Nhà nước thì gọi là hình thức sở hữu Nhà nước. Tất nhiên, với cả 3 hình thức sở hữu này những đặc thù riêng trong chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của từng hình thức sẽ được pháp luật quy định phù hợp. Còn nếu dựa vào tiêu chí chủ thể có quyền trực tiếp chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thì sẽ có 4 hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước, sở hữu cá nhân, sở hữu pháp nhân và sở hữu chung. Với một ý kiến khác: theo TS. Phùng Trung Tập (Đại học Luật Hà Nội) cho rằng, “BLDS 2005 mới liệt kê được các hiện tượng sở hữu tồn tại trong xã hội và có vẻ đánh đồng các hình thức sở hữu với các thành phần kinh tế. BLDS sửa đổi không nên cá biệt hoá một nhóm tổ chức nhất định thành một hình thức sở hữu, bỏ quy định sở hữu tập thể và sở hữu chung hỗn hợp, đồ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích về các hình thức sở hữu trong BLDS 2005 và một vài nhận xét, kiến nghị về các quy định đó.doc