Cách mạng Tháng Tám đã thể hiện nổi bật sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc mới xuất hiện, sau một thời gian dài hàng trăm năm bị phân tán, chia rẽ, xói mòn. Sự ra đời của Mặt trận Việt Minh đã mở ra bước ngoặt trong việc tập hợp lực lượng toàn dân tộc ở nước ta. Ngày 20-11-1941, Mặt trận Việt Minh đã nêu rõ mục tiêu là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do. Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với tiến bộ xã hội. Ðánh đuổi được Nhật, Pháp, nước ta xây dựng chính thể dân chủ cộng hòa, thực hiện phổ thông đầu phiếu, ban bố các quyền tự do dân chủ, nam nữ bình đẳng, các dân tộc thiểu số có quyền tự quyết, thực hiện giảm tô, chia lại công điền, thực hiện ngày làm 8 giờ, phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp, khuyến khích trí thức phát triển y tế, giáo dục, văn hóa văn nghệ, thể dục - thể thao.
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2204 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích về luận điểm của Hồ Chí Minh: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Để thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, trước hết phải có cương lĩnh đúng đắn phù hợp với thực tiễn của đất nước qua các thời kỳ cách mạng khác nhau. Ngay từ ngày đầu mới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, được hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930 thông qua, trong đó đã nêu cao khẩu hiệu “Việt Nam độc lập”, Việt Nam tự do và chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, uyển chuyển.Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 75 năm qua trước hết là thắng lợi của Cương lĩnh, chiến lược đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, là thắng lợi của tư tưởng cách mạng cao cả và vĩ đại của Hồ Chí Minh - tư tưởng độc lập, tự do. Khối quần chúng đông đảo chỉ trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu cao cả, được tổ chức lại thành một khối vững chắc trên cơ sở của Mặt trận dân tộc thống nhất, được hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện trong tiến trình cách mạng. Năm 1941, cùng với chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng, Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh giữa lúc nhân dân Việt Nam đang sống quằn quại trong cảnh nước sôi, lửa nóng, lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, ai cũng muốn độc lập, tự do. Thành lập Mặt trận Việt Minh là một điển hình sáng tạo của Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc. Tiếp đến trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc 1945 - 1954, mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục được củng cố và mở rộng. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam đã ra đời, thực hiện sự đoàn kết quốc dân để làm cho nước Việt Nam được độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường. Hội ra đời tạo điều kiện mới để đoàn kết và tranh thủ những ai có thể tranh thủ được nhằm thống nhất lực lượng quốc gia dân tộc, chống chia rẽ. Trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, Hồ Chí Minh đã giương cao ngọn cờ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và chiến lược đại đoàn kết dân tộc để đẩy mạnh cuộc cách mạng ở miền Nam, thống nhất đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra đời, kế tục sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc của Mặt trận Liên Việt. Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã được thành lập nhằm tạo điều kiện để mở rộng khối đoàn kết dân tộc dưới ngọn cờ của Mặt trận. Đầu năm 1968, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình miền Nam Việt Nam ra đời. Đây là một tổ chức thích hợp để thu hút các tầng lớp trung gian và thượng lưu ở thành thị miền Nam vào khối đại đoàn kết dân tộc chống Mỹ cứu nước. Trải qua hơn 20 năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thắng lợi hoàn toàn. Non sông đã thu về một mối. Năm 1976, các tổ chức Mặt trận trong cả nước đã được thống nhất lại thành một mặt trận chung lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện sứ mạng đại đoàn kết dân tộc, cùng nhau xây dựng lại đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, làm cho Việt Nam thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giành độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Khát vọng và lý tưởng ấy đã thôi thúc, quán xuyến mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời cách mạng của Người.
Trong Tuyên ngôn Độc lập đọc trước quốc dân đồng bào ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đã chỉ rõ: "Dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm để xây dựng nên Nhà nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ cộng hòà". Bản chất nhân dân của Nhà nước ta - Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước CHXHCN Việt Nam - do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là thành quả của các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống phong kiến và ngoại xâm, là thành quả trực tiếp của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Ngay từ đầu và trong quá trình hiện diện của mình, Nhà nước không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà còn là đại biểu ý chí, tâm nguyện và trí tuệ của cả dân tộc Việt Nam. Quan điểm xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nhân dân là chủ thể quyền lực, nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung chứ Nhà nước không phải là nơi để "thăng quan, phát tài", chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc. Người khẳng định: "Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra"...
Đã là nhà nước của dân thì chính quyền ấy nhất thiết phải do dân quyết định, tức là nhân dân phải là người thực hiện quyền lực, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua các đại biểu của mình. Đó là những hình thức cơ bản của nền dân chủ. Dân chủ vừa là thành quả đấu tranh cách mạng của dân tộc, vừa là giá trị văn hóa, do đó theo Người "Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ sinh hoạt chính trị toàn dân... làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia vào công việc của Nhà nước". Chính quyền của nhân dân phải do nhân dân tự tay mình thực hiện. Như vậy nền tảng xã hội sâu và rộng, ý thức chính trị và khả năng tham gia vào đời sống chính trị của nhân dân là yếu tố đảm bảo cho nền dân chủ mới. Người coi yếu tố đầu tiên của dân chủ là "Có việc gì thì ai cũng được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo hơn thì được. Ấy là dân chủ". Phải chăng, phương châm chúng ta đang thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chính là thể hiện tư tưởng của Bác Hồ về dân chủ, thực hành dân chủ.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc xây dựng nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước phải căn cứ vào chỗ bộ máy nhà nước giải quyết những nhu cầu thiết yếu hằng ngày của dân chúng tốt hay chưa, có vì lợi ích của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân hay không. Trong điều kiện có chính quyền, Người đã tiên lượng: "Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công vi tư". Thực chất những căn bệnh đó là vi phạm quyền làm chủ của nhân dân lao động, là độc tố phản văn hoá đi ngược lại bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngoài việc giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, "Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì" (*), còn phải là công việc thường xuyên, liên tục và được đông đảo quần chúng nhân dân cùng tham gia kiểm soát, giám sát mọi hoạt động của bộ máy nhà nước để phòng tránh tha hóa quyền lực và chống giặc "nội xâm" đó có hiệu quả.
Để Nhà nước ta luôn trong sạch vững mạnh, điều không thể thiếu mà Bác Hồ luôn đặc biệt quan tâm xây dựng, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn là những "công bộc" của nhân dân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân; "việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh". Bởi xét tới cùng cán bộ luôn là cái gốc của mọi công việc. Do đó, việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, đặc biệt biết sử dụng nhân tài "vừa hồng vừa chuyên" là một khâu quan trọng để hoàn thiện bộ máy nhà nước, nhất là trong giai đoạn chúng ta đang xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN. Đảng phải có cơ chế, chính sách để sớm phát hiện và bồi dưỡng các tài năng giới thiệu vào các cơ quan nhà nước... Người yêu cầu : "Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới được".
Sau khi cách mạng thành công, nhà nước của dân, do dân tộc và vì dân tộc được thành lập, chiến lược đại đoàn kết quốc gia dân tộc không chỉ được thực thi bằng cách tập hợp lực lượng quần chúng rộng rãi, phong phú về nội dung và hình thức tổ chức, mà còn phải liên hiệp quốc dân ở trong Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan hành chính cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Hồ Chí Minh đề xuất và tổ chức thành công Quốc dân đại hội Tân Trào, lập ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc tháng 8 năm 1945 trong đêm trước cuộc Tổng khởi nghĩa, đặc biệt là tổ chức cuộc Tổng tuyển cử toàn dân vào tháng 1 năm 1946, để bầu ra quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội của độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và của đại đoàn kết toàn dân, và Quốc hội đã lập chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một chính phủ chung của cả dân tộc chứ không phải là chính phủ riêng của một đảng phái, một giai cấp nào. Đây cũng là một điển hình thành công sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong tổ chức nhà nước pháp quyền của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc, là một bài học vô cùng quý báu của việc thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực xây dựng, tổ chức nhà nước. Hồ Chí Minh đã thực thi thắng lợi chiến lược đại đoàn kết dân tộc do Đảng Cộng sản là người lãnh đạo duy nhất chính vì Người đã thành công trong việc sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng đạo đức và văn minh, một “Đảng hiện thân cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, một đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam”. Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến, vốn có ở tất cả các dân tộc trên thế giới chứ không riêng gì của dân tộc Việt Nam. Song, tư tưởng ấy được hình thành sớm hay muộn, đậm hay nhạt, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu hiện cũng như chiều hướng phát triển của nó lại tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm tự nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử được hun đúc từ chính lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc Việt Nam. Lịch sứ mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nan là lịch sử đất tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập tử tay kẻ thù xâm lược (thời gian chống giặc ngoại xâm cộng lại lên tới trên 12 thế kỷ!) Chính vì vậy mà tinh thần yêu nước đã ngầm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hùng mạnh đến đây. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khỉ Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.
Bottom of Form
Cuối thế kỷ XIX,. Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913. Thất bại của phong trào Cần Vương do chưa quy tụ, tập hợp thành một khối thống nhất đủ mạnh để chống Pháp.Hơn nữa các đạo quân này không được lòng dân nhiều lắm bởi để có phương tiện sống và duy trì chiến đấu,họ phải đi cướp phá dân chúng.Điều đó chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra. Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908). Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp không thành, ông về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911). Ông về Trung Quốc lập raViệt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc, nhưng rồi cũng không thành công. Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nướcViệt Nam . ở Bắc Kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo những nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. ở Trung Kỳ, có cuộc vận động Duy tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong trào đấu tranh chống thuế (1908). Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu các phong trào yêu nước đấu tranh giành độc lập dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đều bị thất bại do các phong trào này chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn.
Cách mạng Tháng Tám là một trong những trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã đập tan ách phát-xít Nhật, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp gần 100 năm, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Ðảng ta từ khi ra đời bị khủng bố dã man, đã trở thành đảng lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo xã hội.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám đã xác định nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi là sự lãnh đạo thống nhất của một Ðảng duy nhất. Việt Nam là một nước trên một dải đất dài, có 54 dân tộc anh em, lại bị thực dân Pháp thực hiện chính sách chia để trị, những thủ đoạn lừa bịp về độc lập giả hiệu, khối đại đoàn kết Ðông Á của phát-xít Nhật mê hoặc, đi đôi với sự đàn áp tàn bạo những người yêu nước, cho nên phải có một Ðảng thống nhất lãnh đạo, vừa kiên cường vượt qua mọi thử thách, vừa thể hiện tập trung ý chí và tầm cao trí tuệ của dân tộc, mới giành được thắng lợi nhanh gọn khi có thời cơ thuận lợi. Ðảng có cơ sở tổ chức trên toàn quốc làm nòng cốt lãnh đạo các địa phương vùng lên kịp thời, chớp được thời cơ "ngàn năm có một" đã giành được chính quyền cách mạng trên cả nước.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám-1945 là sự vùng lên của hàng chục triệu nhân dân cả nước, cả ở rừng núi, nông thôn và thành thị, đập tan chính quyền phản động, mà đòn quyết định cuối cùng là ở các thành thị lớn. Lực lượng cách mạng của quần chúng đã áp đảo lực lượng phản động, làm nổi bật sức mạnh "xoay trời chuyển đất" chưa từng có của khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ bắc đến nam. Lực lượng vũ trang cách mạng tuy còn nhỏ nhưng đã là những đội quân xung kích, đã từng đánh Pháp, đánh Nhật với những trận nổi tiếng như Phai Khắt - Nà Ngần, Tam Ðảo, Sơn Dương, Thái Nguyên, Quảng Ngãi, Quảng Yên...Các đội vũ trang cách mạng đã hỗ trợ, bảo vệ quần chúng biểu tình, tuần hành thị uy, tiến công các đồn bốt, các trại bảo an, trấn áp bọn Việt gian, bọn phản động, chiếm các công sở, phá các nhà tù, kho súng. Không có lực lượng vũ trang cách mạng, chính quyền tay sai Nhật không tan rã nhanh chóng, không hạn chế được sự chống đối của kẻ thù cầm súng. Không có lực lượng vũ trang cách mạng không thể làm tăng thêm sức mạnh tiến công của lực lượng chính trị của quần chúng, đưa cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh gọn. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là cuộc khởi nghĩa vũ trang, song lực lượng chính trị của quần chúng có sức mạnh quyết định.
Cách mạng Tháng Tám đã thể hiện nổi bật sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc mới xuất hiện, sau một thời gian dài hàng trăm năm bị phân tán, chia rẽ, xói mòn. Sự ra đời của Mặt trận Việt Minh đã mở ra bước ngoặt trong việc tập hợp lực lượng toàn dân tộc ở nước ta. Ngày 20-11-1941, Mặt trận Việt Minh đã nêu rõ mục tiêu là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do. Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với tiến bộ xã hội. Ðánh đuổi được Nhật, Pháp, nước ta xây dựng chính thể dân chủ cộng hòa, thực hiện phổ thông đầu phiếu, ban bố các quyền tự do dân chủ, nam nữ bình đẳng, các dân tộc thiểu số có quyền tự quyết, thực hiện giảm tô, chia lại công điền, thực hiện ngày làm 8 giờ, phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp, khuyến khích trí thức phát triển y tế, giáo dục, văn hóa văn nghệ, thể dục - thể thao...Mặt trận Việt Minh tập họp mọi lực lượng yêu nước, các đoàn thể cứu quốc, trên nền tảng liên minh công nông và lao động trí óc, đoàn kết với mọi tầng lớp, không phân biệt ngành nghề, sắc tộc, tôn giáo, mọi nhân sĩ, không thành kiến với quá khứ, cùng hợp tác vì mục tiêu cao nhất là độc lập, thống nhất cho đất nước. Quốc dân Ðại hội họp ở Tân Trào là một hình ảnh tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc. Trong cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, tại Bắc Bộ Phủ, ta bắt được Ngô Ðình Diệm, muốn ông ta cùng phấn đấu cho nước nhà độc lập, nhưng Diệm từ chối và ta đã trả tự do cho ông ta.Khái niệm đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh: là một hệ thống những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục.Tập hợp và tổ chức cách mạng và tiến bộ nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.Nói cách khác, đó là một tư tưởng xây dựng, củng cố mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai đoạn , giải phóng con người.
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kì quy báu của nhân dân ta.Người cho rằng:’’muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh vũ trang cách mạng, cách mạng vô sản..Trong từng thời kì,từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn được Người nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà tư tưởng đoàn kết là tư tưởng cơ bản, nhất quán , xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.Đoàn kết quyết định thành công cách mạng vì đoàn kết tạo lên sức mạnh là then chốt của thành công.Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc vào một mối thống nhất’’Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một’’.Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mô, mức độ của thành công.Đoàn kết phải luôn được nhận định là vấn đề sống còn của cách mạng.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được quán triệt trong mọi đường lối, chính sách của Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việtt Nam.Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao Động Việt Nam năm 1951,Hồ Chí Minh nêu mục đích của Đảng Lao Động Việt Nam gồm 8 chữ :’’đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc’’.Trước Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến nhiệm vụ của tuyên huấn là làm sao cho dồng bào hiểu được mấy điều:một là đoàn kết, hai là làm cách mạng đòi độc lập dân tộc.Sau kháng chiến Bác lại nêu nhiệm vụ của tuyên huấn là để dân hiểu:một là đoàn kết, hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội, ba là đấu tranh thống nhất nước nhà.Như vậy, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.Vì vấn đề cơ bản của cách mạng suy cho cùng là phải có bộ tham mưu đưa ra đường lối tập hợp sức mạnh toàn dân đánh giặc.Vấn đề đại đoàn kết dân tộc phải xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cách mạng do quần chúng nhân dân tiến hành.Đảng phải có sứ mệnh thức tỉnh,tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch của cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.Hồ Chí Minh cho rằng yêu nước phải thể hiện ở thương dân, không thương dân thì không có tinh thần yêu nước.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh,’’dân’’ chỉ mọi con dân đất việt, con rồng cháu tiên, không phân biệt dân tộc đa số,người tín ngưỡng và người không tín ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái, trai,giàu ,nghèo.Đoàn kết với mỗi người dân cụ thể , với toàn thể đồng bào quần chúng và cả hai đối tượng trên đều là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc.Bác Hồ đã nêu’’Ta đoàn kết là để đấu tranh thống nhất và độc lập Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết là để xây dựng nước nhà.Vậy ai có tài, có đức,có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đều đoàn kết với họ’’.Trong khi xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc phải tin vào dân , dựa vào dân và phấn đấu vì quyền lợi của dân.Mỗi người’’ai cũng ít hay nhiều có tấm lòng yêu nước’’tiềm ẩn.Cần thức tỉnh lương tri của mỗi con người thì lòng yêu nước sẽ bộc lộ.Điểm chung để quy tụ khối đại đoàn kết dân tộc làn độc lập dân tộc, là cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.Đại đoàn kết dân tộc là nền tảng là gốc rễ là nguồn sức mạnh vô địch, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.Trong khi tập hợp khối đại đoàn kết thì lực lượng chủ yếu của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh công nông cho nên trước hết là đoàn kết đại đa số nhân dân, àm đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.Về sau Hồ Chí Minh mở rộng’’liên minh công nông là lao động trí óc làm nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân’’.’’Trong bầu trời không có gì quý bằng dân , trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân’’.Điều kiện để thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân là phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa,đoàn kết, phải có tấm lòng khoan dung độ lượng.Người mà có lầm lạc, mà biết lỗi thì đoàn kết với họ, tránh khoét sâu cách biệt’’bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc thì dù người đó trước đây chống lại chúng ta bây giờ cũng thật thà đoàn kết với họ’’.Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Đại đoàn kết phải biến thành sức mạnh vất chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trân dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.Khối đại đoàn kết toàn dân phải được giác ngộ mục tiêu, tổ chức thành khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn.Và đưa quần chúng vào tổ chức phù hợp với từng giai cấp, từng lứa tuổi, giới tính, ngành nghề, tôn giáo phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng.Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi qui tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước.Trong từng thời kì mặt trận có tên gọi khác nhau như: Hội phản đế đồng minh, Mặt trận dân chủ,Mặt trận việt minh,Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam .Nhưng thực chất chỉ là một –đó là tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các lực lượng phấn đầu vì hòa bình, vì mục tiêu của dân tộc.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh Đảng cộng sản vừa là thành viên,vừa là người lãnh đạo mặt trận dân tộc.Đảng lãnh đạo bằng việc xác định chính sách mặt trận đúng đắn phù hợp với từng thời kì của cách mạng.Đảng phải dùng phương pháp vận động giáo dục, thuyết phục nêu gương, lấy lòng nhân ái để cảm hóa khơi dậy tinh thần tự giác, tự nguyện,không gò ép quan niêu mệnh lệnh.Từ đoàn kết dân tộc đến đoàn kết quốc tế, tử tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là kết tinh mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc với giai cấp nhân loại.Mở rộng khối đại đoàn kết đến đâu thì giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc, giai cấp, nhân loại đến đó.Quyền lợi của nhân dân lao động luôn gắn với quyền lợi tối cao của dân tộc.
Giữ vững độc lập ,tự chủ,dựa vào sức mình là chính,tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN,sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ,đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị,hợp tác,sẵn sàng’’làm bạn với t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25392.doc