~MỤC LỤC~
I. ĐẶT VẤN ĐỀ. 1
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 1
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN DÂN SỰ 1
1.1.Khái niệm và đặc điểm. 1
1.2.Ý nghĩa. 2
2. PHÁP LUẬT TTDS VỀ VIỆC TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ. 3
2.1.Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. 3
2.1.1. Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. 3
2.1.2.Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm. 5
2.2.Thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ vụ án dân sự. 6
2.3.Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. 6
3.1. Thực tiễn 7
3.1.1. Ưu điểm 7
3.1.2. Khuyết điểm 8
3.1.3. Nguyên nhân 9
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện các quy định cảu bộ luật tố tụng dân sự về tạm đình chỉ vụ án dân sự 10
3.2.1. Kiến nghị về xây dựng quy định pháp luật 10
3.2.2. Kiến nghị về công tác thực hiện pháp luật 11
II. KẾT THÚC VẤN ĐỀ. 11
~DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO~ 12
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7254 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Pháp luật tố tụng dân sự về việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, phiên họp chỉ được tiến hành trong một thời gian ngắn do Tòa án quyết định nhưng tạm đình chỉ vụ án dân sự thì sẽ tiến hành đến khi nào căn cứ tạm đình chỉ không còn nữa. Về bản chất, tạm ngừng phiên họp khi Tòa án cần thêm thời gian để làm rõ các tình tiết, sự kiện để có thể giải quyết đúng đắn vụ án còn tạm đình chỉ vụ án dân sự là việc chỉ được tiến hành khi xuất hiện các tình tiết, sự kiện làm cho việc giải quyết vụ án không đảm bảo được quyền lợi của đương sự hoặc không đảm bảo được tính đúng đắn của vụ án dân sự đó.
Khác với hoãn phiên tòa, phiên họp được Tòa án quyết định khi đương sự văng mặt, Thẩm phán, hội thẩm nhân dân, người giám định, người phiên dịch vắng mặt hoặc không thể tham gia tố tụng mà không có người thay thế thì tạm đình chỉ vụ án dân sự được Tòa án áp dụng khi có những căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự như chưa có chủ thể thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng, chưa xác định được người đại diện hoặc cần đợ kết quả giải quyết của một vụ việc dân sự khác.
1.2.Ý nghĩa.
Thư nhất, việc Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đúng đắn, kịp thời sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Khi xuất hiện những căn cứ làm cho quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố tụng không được đảm bảo nếu quá trình giải quyết vụ việc vẫn được tiếp tục thì quyết định tạm đình chỉ là cần thiết.
Thứ hai, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự không chỉ có ý nghĩa đối với Tòa án trong quá trình xét xử vụ án dân sự. Vì hoạt động giải quyết vụ án tạm ngừng lại nên Tòa án có thêm thời gian thu thập chứng cứ, tài liệu, triệu tập đương sự,... để chuẩn bị tốt hơn cho phiên tòa xét xử.
Thứ ba, việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có tác dụng thôi thúc các bên có liên quan nhanh chóng đáp ứng đủ điều kiện cần thiết để quá trình tố tụng được tiếp tục tiến hành.
Thứ tư, việc ra quyết định tạm đình chỉ đúng cho thấy Tòa án có trách nhiệm rất cao trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Từ đó thể hiện ý thức của những người tiến hành tố tụng, tôn trọng việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, qua đó củng cố niềm tin của người dân đối với Tòa án, đối với pháp luật.
Thứ năm, tạm đình chỉ vụ án dân sự góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tính khách quan, chính xác trong hoạt động xét xử của Tòa án. Chỉ khi xuất hiện các nguyên nhân làm cho việc tố tụng bị gián đoạn tạm thời và có thể khắc phục được, pháp luật cho phép tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Nó sẽ hạn chế được tư tưởng không đúng của một số thẩm phán là phải giải quyết nhanh chóng bằng mọi cách.
2. PHÁP LUẬT TTDS VỀ VIỆC TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ.
2.1.Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
2.1.1. Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm.
Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được quy định tại điều 189 BLTTDS. Theo quy định tại điều 259 BLTTDS thì những căn cứ nói trên chỉ được áp dụng cho việc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
Theo hướng dẫn tại phần II, mục 8 Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP thì “Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự không phụ thuộc vào việc có hay không có yêu cầu của đương sự khi xuất hiện một trong các căn cứ quy định tại điều 189 BLTTDS”. Theo quy định tại Điều 189 BLTTDS thì khi có những căn cứ sau đay xuất hiện thì các Tòa án có thể ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự:
- Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó.
Theo quy định tại khoản 1 điều 62 BLTTDS “Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng”. Do vậy, nếu cá nhân là đương sự trong một vụ án dân sự mà chết mà chưa có chủ thể thừa kế quyền và nghĩa vụ của họ hoặc người thừa kế chưa sẵn sàng tham gia tố tụng thì Tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự để đảm bảo quyền tham gia tố tụng, quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể này.
Theo hướng dẫn tại nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP thì trường hợp cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó là trường hợp đã có quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc sáp nhập, chia tách cơ quan, tổ chức đó nhưng cơ quan, tổ chức mới chưa được thành lập hoặc đã được thành lập nhưng chưa đủ điều kiện để hoạt động theo quy định của pháp luật.
- Một bên đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật.
Một người mất NLHVDS là người mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình (điều 21 BLDS). Trong trường hợp đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự thì họ không thể tự mình đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà phải có người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đó. Như vậy, trong trường hợp một bên đương sự mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện tham gia tố tụng thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án dân sự đó.
- Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế.
Đại diện hợp pháp của đương sự bao gồm đại diện theo pháp luật, đại diện theo ủy quyền. quan hệ đại diện có thể bị chấm dứt, thay thế khi có những sự kiện pháp lý nhất định. Tùy thuộc vào tính chất của mỗi loại đại diện mà có những căn cứ chấm dứt khác nhau, tuy nhiên, việc chấm dứt đại diện đều có một hậu quả pháp lý chung đó là kết thúc quan hệ pháp luật giữa người đại diện và người được đại diện. để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thì Tòa án phải tạm ngừng giải quyết vụ án dân sự đó nếu việc chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự cần phải có người đại diện khác để tham gia tố tụng nhưng chưa có người thay thế ngay.
- Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án.
Trường hợp Tòa án cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan là trường hợp vụ án mà Tòa án đang giải quyết có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính, dân sự, lao động hay hôn nhân khác. Tòa án muốn giải quyết được vụ án đang thụ lý thì phải dựa vào kết quả giải quyết các vụ việc trước đó vì khi chưa có kết quả giải quyết những vụ việc có liên quan đó thì Tòa án không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án dân sự này.
Trường hợp sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án là trường hợp Tòa án thụ lý giải quyết vụ án thì phát hiện được sự việc mà đương sự yêu cầu phải do cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền giải quyết trước mà đương sự chưa yêu cầu hoặc yêu cầu nhưng chưa có kết quả giải quyết. Vì vậy, trong trường hợp này Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và hướng dẫn đương sự gửi đơn yêu cầu đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết đó. Các trường hợp cần phỉ yêu cầu cơ quan,tổ chức khác giải quyết ví dụ như: tranh chấp lao động cá nhân thì phải cần hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động giải quyết trước; trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các giấy tờ hợp lệ khác do pháp luật đất đai quy định và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì phải được tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã trước nếu như không giải quyết được thì mới thuộc thẩm quyền của Tòa án; hoặc trong trường hợp bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra thì phải tiến hành thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường với bên bị thiệt hại nếu không thương lượng được thì mới yêu cầu Tòa án giải quyết.
Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
Theo nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP thì các trường hợp này là các trường hợp mà Tòa án có quyền ra quyết định tamh đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nhưng chưa được liệt kê trong BLTTDS và các căn cứ này có thể quy định trong các văn bản pháp luật khác hoặc sau khi BLTTDS có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Đây là những quy định mở, mang tính dự phòng đối với những trường hợp phát sinh những lý do mà Tòa án cần thiết phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự mới đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự (Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Luật TTDS 2004, luận văn thạc sỹ luật hoc, Phạm Hải Tâm, trường đại học luật Hà Nội, 2010).
Theo quy định tại điều 259 BLTTDS thì “Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, hậu quả của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án và tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án được thực hiện theo quy định tại các điều 189, 190 và 191 của Bộ luật này”. Đồng thời Điều 265 cũng quy định rõ “Tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử phúc thẩm tại phiên toà. Tại phiên toà phúc thẩm, việc tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án được thực hiện theo quy định tại Điều 259 và Điều 260 của Bộ luật này”.
Như vậy, căn cứ, thẩm quyền, hậu quả pháp lý của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp phúc thẩm cũng giống với ở cấp sơ thẩm do phạm vi xét xử phúc thẩm khác phạm vi xét xử sơ thẩm nên tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở cấp phúc thẩm có thể không làm ảnh hưởng đến phần vụ án đã được giải quyết ở sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị sơ thẩm. trong trường hợp kháng cáo, kháng nghị toàn bộ vụ án thì tạm đình chỉ giải quyết vụ án ở phúc thẩm cũng không đồng nghĩa với tạm đình chỉ giải quyết vụ án ở sơ thẩm do việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp phúc thẩm được tiến hành khi có bản án, quyết định sơ thẩm. thực chất ở đây, Tòa án cấp phúc thẩm tạm dừng việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
2.1.2.Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm.
Giám đốc thẩm và tái thẩm là thủ tục đặc biệt vì bản chất của nó là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhằm kiểm tra tính hợp pháp về mặt giải quyết nội dung, thủ tục ra bản án, quyết định. Việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chủ yếu dựa trên hồ sơ vụ án, theo yêu cầu của Viện kiểm sát chứ không phải do yêu cầu của đương sự, đương sự không bắt buộc phải tham gia tố tụng. có lé vì thế mà BLTTDS không có quy định nào đề cập đến việc tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự ở cấp giám đốc thẩm, tái thẩm. tuy nhiên, trên thức tế cho thấy có những nguyên nhân làm cho việc giải quyết vụ án tại giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm không tiến hành ngay được. vậy Tòa án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm phải quyết định như thế nào khi không có quy định tạm đình chỉ giai quyết vụ án ở giai đoạn này? (Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự, khóa luận tốt nghiệp, Hoàng thị Phương Liên, trường đại học luật Hà Nội, 2010).
2.2.Thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ vụ án dân sự.
Tại Tòa án cấp sơ thẩm: đối vối trường hợp đương sự có yêu cầu tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì Tòa án phải xem xét yêu cầu đó có phù hợp với căn cứ tạm đình chỉ theo điều 194 BLTTDS hay không. Theo quy định tại khoản 1 điều 194 BLTTDS “Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó”.
Như vậy, trước khi mở phiên tòa sơ thẩm thì thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đó có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi xuất hiện những căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự như đã nói trên. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm thì theo quy định tại khoản 2 điều 210 BLTTDS thì quyết định tạm đình chỉ vụ án dân sự phải được thảo luận, được quyết định thông qua phòng nghị án. Do đó, thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm thuộc về Hộ đồng xét xử quyết định.
Tại Tòa án cấp phúc thẩm: theo quy định tại điều 258 BLTTDS thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Trường hợp trước khi mở phiên tòa phúc thẩm mà có căn cứ tạm đình chỉ vụ án thì thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa quyết định, còn tại phiên tòa phúc thẩm thì do Hội đồng xét xử phúc thẩm thảo luận và thông qua tại phòng nghị án.
2.3.Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự không phải là chấm dứt giải quyết vụ án và đình chỉ tố tụng mà là tạm thời ngừng việc giải quyết vụ án dân sự, hoạt động tố tụng tạm thời bị gián đoạn trong một thời gian nhất định. Khi Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì theo quy định tại điều 190 BLTTDS sẽ có những hậu quả pháp lý như sau:
“1. Toà án không xoá tên vụ án dân sự bị tạm đình chỉ giải quyết trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó.
2. Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được gửi tại kho bạc nhà nước và được xử lý khi Toà án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.
3. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm”.
Sau khi vụ án dân sự bị tạm đình chỉ Tòa án có thể ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự khi lý do tạm đình chỉ không còn theo Điều 191 Luật TTDS.
3. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật TTDS về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
3.1. Thực tiễn
3.1.1. Ưu điểm
- Thứ nhất: về công tác giải quyết vụ án
Nhìn chung, thẩm phán của Tòa án các cấp đã áp dụng chính xác quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong mọi trường hợp.
- Đối với các vụ án phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự do tòa án cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thì số vụ án tồn lại trước đó là 10760 vụ, số mới thụ lý là 72321, đã giải quyết được 72494 vụ, số vụ bị tạm đình chỉ là 5102 vụ, chiếm 7.03 % tổng số vụ đã được giải quyết. Ở các Tòa án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì số lượng vụ án bị tạm đình chỉ ở so thẩm là tương đối lớn: Số tồn trước đó là 656 vụ, thụ lý mới 2246 vụ, đã giải quyết 2068 vụ , trong đó số vụ bị tạm đình chỉ là 437 vụ, chiếm tỉ lệ 21,13 % tổng số vụ đã được giải quyết.
- Số vụ án sơ thẩm về hôn nhân và giai đình bị tạm đình chỉ ở Tòa án cấp huyện là 1064 vụ/73560 vụ đã giải quyết chiếm tỉ lệ 1.04 %. Ở cấp tỉnh là 214 vụ/ 2592 vụ đã giải quyết chiếm tỉ lệ 8,26%.
Bên cạnh đó các vụ án về lao động có tỷ lệ án tạm đình chỉ ở cấp sơ thẩm là 398 vụ chiếm tỉ lệ 4,16% trên tổng số vụ giải quyết; số vụ án về kinh doanh thương mại và tuyên bố phá sản ở cấp sơ thẩm là 295 vụ chiếm 6,2% trên tổng số vụ giải quyết
Theo các thẩm phán việc phải tạm đình chỉ vụ án dân sự chủ yếu tập trung vào căn cứ nguyên đơn có yêu cầu và cần đợi kết quả giải quyết trước của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. ngoài ra những vụ án dân sự mà tòa án ra quyết định tạm đình chỉ do bị đơn ốm phải điều trị dài ngày , bị đơn vắng mặt cũng khá nhiều. ví dụ: theo số liệu năm của TAND huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh, trong 3 vụ tạm đình chỉ có 1 trường hợp do nguyên đơn yêu cầu, 2 trường hợp cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan có thẩm quyền trước.
Thứ hai: về công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
TANDTC đã làm tốt nhiệm vụ hướng dẫn Tòa án cấp dưới trong việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Trong Báo cáo tham luận tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2006, Tòa kinh tế đã nêu lên ý kiến cần phải đưa ra rút kinh nghiệm đối với các đương sự để tòa án có thể xét xử vắng mặt ở cấp sơ thẩm và đình chỉ xét xử ở cấp phúc thẩm. Đó là để có được chứng cứ chứng minh là “đã triệu tập hợp lệ” đối với các đương sự cần áp dụng phương thức tống đạt trực tiếp thông qua bưu điện bằng cách gửi giấy triệu tập bằng thư bảo đảm. Cũng trong báo cáo này, Tòa kinh tế đưa ra kiến nghị khi xuất hiện căn cứ quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 192 BLTTDS thì không nên ra quyết định đình chỉ, chỉ nên ra quyết định đình chỉ mà thôi.
Khi có quan điểm tranh cãi về mối quan hệ giữa đình chỉ theo khoản 1 Điều 192 BLTTDS, trong Báo cáo tham luận tại Hội nghị tổng kết công tác ngành TAND năm 2008 của mình, Tòa Dân sự đã đề xuất ý kiến về cách hiểu và áp dụng quy định này trong lúc TANDTC chưa có hướng dẫn cụ thể.
Việc tạm đình chỉ chỉ khi có các căn cứ khác mà pháp luật có quy định không hề dễ dàng. Chẳng hạn đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia, mặc dù UBTVQH đã ban hành Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH ngày 27/7/2006 hướng dẫn song đến nay vẫn còn có Tòa án lúng túng khi xử lý các vụ tạm đình chỉ. Do đó trong Báo cáo tham luận tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2006, Tóa Dân sự có một vài lưu ý với Tòa địa phương về vấn đề này.
Các hướng dẫn này góp phần không nhỏ trong việc hướng dẫn áp dụng đúng BLTTDS nói chung và quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nói riêng. Nhờ đó hiệu quả của công tác xét xử được nâng cao rõ rệt.
3.1.2. Khuyết điểm
Mặc dù BLTTDS hiện hành đã quy định về thủ tục tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khá rõ ràng nhưng khi áp dụng trên thực tiễn vẫn còn không ít sai sót.
- Không đưa người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn vào tham gia tố tụng: khi có đương sự trong VADS chế thì Tòa phải làm rõ họ có để lại tài sản thừa kết không và ai là người được hưởng tài sản thừa kế để triệu tập họ tham gia tố tụng giải quyết vụ án. Nếu chưa có người thừa kế thì căn cứ khoản 1 Điều 189 BLTTDS để tạm đình chỉ. Thực tế có tòa án đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi có người thừa kế của bị đơn mà tòa án không triệu tập họ. Trong báo cáo tham luận tại Hội nghị tổng kết công tác nghành TADN năm 2008, Tòa Dân sự đã rút kinh nghiệm đối với trường hợp này. Đó là vụ tranh chấp hợp đồng sang nhượng nhà đất có nguyên đơn là ông Lê Văn Bé với bị đơn là ông Lê Văn Sùng do TAND thành phố H xét xử tại bản án dân sự phúc thẩm số 196/2007/DCPT ngày 7/2/2007.
- Về trách nhiệm kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của các tổ chức sau khi hợp nhất thành một tổ chức khác, sáp nhập vào tổ chức khác hoặc chuyển đổi thành tổ chức khác: nhiều công văn trao đổi nghiệp vụ của Tòa án địa phương có nêu trường hợp bị đơn là tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi không bàn giao khoản nợ có tranh chấp sang tổ chức mới. Do pháp luật không quy định trường hợp nào bắt buộc phải bàn giao,trường hợp nào không phải bàn giao nên Tòa án gặp khó khăn khi xác định tư cách đương sự, không có căn cứ để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
- Hiện nay, pháp luật tố tụng dân sự không quy định về việc áp dụng tạm đình chỉ vụ án dân sự ở Tòa án cấp giám đốc thẩm và tái thẩm trong khi đó, trên thưc tế có những nguyên nhân khiếm cho việc giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp giám đốc thẩm và tái thẩm phải tạm ngừng.
3.1.3. Nguyên nhân
* Nguyên nhân khách quan
Số lượng các vụ án dân sự cần phải tạm đình chỉ mà ngành tòa án phải thụ lý ngày càng tăng, tính chất cũng phức tạp, khong khi đó một số quy định của pháp luật vẫn còn nhiều bất cập chưa phù hợp nhưng chậm được sửa đổi, bổ xung hoặc hướng dẫn áp dụng.
Thủ tục hành chính ở một số ngành phức tạp, nên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác chậm trễ trong việc giải quyết yêu cầu, khiếu nại theo thủ tục tiền tố tụng làm cho thời gian tạm đình chỉ kéo dài lâu dẫn đến tình trạng nhâm án.
Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các tòa án tuy đã được tăng cường nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn; chế độ lương và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức Tòa án chưa thực sự tương xứng với tính chất công việc đặc thù của Tòa án; nguồn tuyển dụng cán bộ ở một số địa phương miền núi, vung sâu, vùng xa rất khó khăn.
Thẩm phán thường xuyên bị đe dọa, gâu sức ép, thậm chí bị hành hung, gây thương tích, ảnh hưởng tới tính khách quan, đúng đắn trong việc ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
*Nguyên nhân chủ quan
Những sai sót, khuyết điểm trong áp dụng các quy định của pháp luật TTDS về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự chủ yếu do lỗi chủ quan. Các sai sót này đã tồn tại nhiều năm, được hướng dẫn, tập huấn, rút kinh nghiệm nhưng vẫn chậm được khắc phục.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những sai sót đó là do trình độ, năng lực còn hạn chế và thiếu trách nhiệm cá nhân của đội ngũ cán bộ Tòa án, nhất là Thảm phán ở các Tòa án địa phương. Theo thống kê tại Hội nghị triển khai công tác của ngành Tòa án năm 2008 thì toàn ngành hiện còn khoảng 200 thẩm phán cấp tỉnh và cấp huyện chưa tốt nghiệp Đại học Luật, thuộc diện được nợ tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Một số cán bộ tòa án mắc sai phạm ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là do không ý thức được tầm quan trọng của việc phải đưa giấy triệu tập đến tận tay đương sự. Nhất là có cán bộ khi giải quyết vụ án dân sự không lưu ý đến các quy định có liên quan đến tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của các ngành luật khác như Luật Phá sản, Luật Thương mại,…
Việc hướng dẫn, áp dụng thống nhất pháp luật về tamjd dình chỉ vụ án dân sự chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặc dù có rất nhiều vướng mắc cần được hướng dẫn áp dụng nhưng TANDTC chậm ban hành các nghị quyết để hướng dẫn tháo gỡ, giải quyết vướng mắc.
Việc quản lý cán bộ ở mốt số đơn vị chưa chặt chẽ, có nơi chưa chú trọng việc giáo dục chính trị tư tưởng và động viên cán bộ, Thẩm phán thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm cảu người cán bộ Tòa án theo quy tắc ứng xử của ngành TAND và quy định của pháp luật.
Công tác đào tạo bồi dưỡng năng lực , trình độ nghiệp vụ cho đội nghĩ cán bộ, thẩm phán, hội thẩm Tòa án chưa thức sự đổi mới để đặt hiệu quả cao hơn.
Công tác giám đốc kiểm tra chưa đảm bảo chất lượng, thiếu kiên quyết hoặc bỏ qua những sai lầm của các bản án, quyết định đã có hiệu lức pháp luật. Công tác tổng kết thực tiễn xây dựng pháp luật còn hạn chế, cần được tập trung chỉ đạo để nâng cao chất lượng, tạo ra sự chuyển biến trong toàn ngành.
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện các quy định cảu bộ luật tố tụng dân sự về tạm đình chỉ vụ án dân sự
3.2.1. Kiến nghị về xây dựng quy định pháp luật
- Thứ nhất: đối với căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án do đương sự là cá nhân đã chết mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân đó được quy định tại khoản 1 Điều 189 BLTTDS. Quy định như thế có thể hợp lý với nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liê quan song với bị đơn con có bất cập. Vì vậy BLTTDS cần hướng dẫn thêm: Nếu bị đơn chết, chưa có cá nhân, tổ chức, cơ quan nào kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng mà không có tài sản để lại thì sau đó dù xác định được người này thì Tòa án không nên ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án mà có thể ra luôn quyết định đình chỉ, xóa tên vụ án trong sổ thụ lý để tránh lãng phí thời gian, công sức lại không đặt hiệu quả gì.
-Thứ hai: nêu rõ những trường hợp nào sự việc cần được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết trước khi khởi kiện Tại tòa. Ví dụ: Điều 9 Luật Báo chi sủa đổi bổ sung quy định khi thông tin sai sự thật, xuyên tác, vu khống xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân mà cơ quan báo chí không đăng, không cải chính, xin lỗi không đúng các quy định của Luật Báo chí; không đăng phát song lời phát biểu của tổ chức, cá nhan thì họ có quyền khiếu nại với cơ quan chủ quản của báo chí, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí hoặc khởi kiện ra tòa. Vậy nếu cá nhân không đợi cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí giải quyết khiếu nại mà họ nộp đơn khởi kiện thì tòa án có căn cứ Khoản 4 Điều 189 BLTTDS để tạm đình chỉ giải quyết VADS?
- Thứ ba; Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn về trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo yêu cầu cảu nguyên đơn theo Điểm d khoản 1 Điều 59 BLTTDS. Nếu đề nghị đó hợp lý như đi công tác không kịp về, bị ốm,… phù hợp với quy định tại Điều 189 BLTTDS và các quy định khác của pháp luật thì Tòa án mới được chấp nhận và ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
- Thứ tư: BLTTDS nên có hẳn một điều luật quy định rõ tại phiên tòa sơ thẩm thẩm quyền tạm đình chỉ giải quyết VADS thuộc về Hội đồng xét xử.
- Thứ năm, đối với tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm thì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, BLTTDS cần quy định thêm về tạm đình chỉ ở cấp giám đốc thẩm, tái thẩm: “Nếu xuất hiện các căn cứ quy định tại Điều 189 BLTTDS, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền tạm đình chỉ giải quyết VADS”
3.2.2. Kiến nghị về công tác thực hiện pháp luật
Một là, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ ngành Tòa án. Hiện nay có rất nhiều những cán bộ tư pháp có trình độ chuyên mô thấp kém và tồn tại những cán bộ có phẩm chất đạo đức kém, không nhiệt tình trong công việc, tham ô, hối lộ,… vì vậy, cần phải đào tạo một đội ngũ cán bộ chuyên trách vừa v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.doc