MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1
I.Pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng. 1
1. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng: 1
1.1. Khái niệm rủi ro trong hoạt động ngân hàng: 1
1.2. Sự cần thiết của việc phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng. 1
1.3.Các loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng. 2
2. Các quy định pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng: 3
2.1. Nhóm quy định về trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân hàng. 3
2.1.1. Quy định về đảm bảo các tỷ lệ an toàn: 3
2.1.2. Quy định về dự trữ bắt buộc: 4
2.1.3. Quy định về phân loại nợ trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý rủi ro tín dụng. 5
2.1.4. Các quy định về bảo hiểm tiền gửi. 5
2.1.5. Các quy định về bảo đảm tiền vay: 6
2.2. Nhóm quy định về các hạn chế trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. 7
2.2.1. Những trường hợp không được cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng: 7
2.2.2. Giới hạn tín dụng đối với khách hàng: 8
2.2.3. Giới hạn đầu tư góp vốn mua cổ phần. 8
2.3. Nhóm quy định về kiểm soát đặc biệt, thanh tra kiểm tra giám sát hoạt động ngân hàng: 9
2.3.1. Kiểm soát đặc biệt: 9
2.3.2. Thanh tra, kiểm tra giám sát hoạt động của ngân hàng. 10
II. Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng: 10
1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng: 10
1.1. Về phía các tổ chức tín dụng: 10
1.2. Về phía các quy định của pháp luật về phòng chống rủi ro trong hoạt động ngân hàng. 13
2. Hướng hoàn thiện pháp luật về rủi ro trong hoạt động ngân hàng: 15
KẾT THÚC VẤN ĐỀ 15
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3662 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hải trích lập dự phòng rủi ro để đảm bảo trạng thái ổn định của nguồn vốn tín dụng, khắc phục hậu quả do rủi ro. Theo quy định tại điều 131 Luật các Tổ chức tín dụng thì TCTD phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Khoản dự phòng rủi ro này được hạch toán vào chi phí hoạt động. Trong trường hợp TCTD thu hồi được vốn đã được xử lý bằng khoản dự phòng rủi ro, số tiền thu hồi này được coi là doanh thu của TCTD.
Nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát rủi ro, NHNN đã quy định cụ thể hơn về việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 (được sử dụng bổ sung bằng Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007).
Theo quy định này thì tất cả các TCTD hoạt động tại Việt Nam trừ chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội, phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng.
Quyết định đã quy định rõ, dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của TCTD không được thực hiện nghĩa vụ theo cam kết và nó được tính theo dự nợ gốc và dự phòng cụ thể và dự phòng chung. Trong đó dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản nợ mà hiện nay TCTD đang thực hiện. Còn dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của các TCTD khi chất lượng các khoản nợ suy giảm.
Tỷ lệ dự phòng cụ thể đối với các nhóm: nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn), nhóm 2 (nợ cần chú ý), nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ),nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) tương ứng là 0%, 5%, 20%, 50%, 100%. Số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ trích lập dự phòng mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản đảm bảo. Nếu giá trị tài sản đảm bảo được tính theo tỷ lệ phần trăm lớn hơn giá trị các khoản nợ thì số tiền dự phòng bằng không, nghĩa là TCTD trên thực tế không phải trích lập dự phòng cho khoản nợ đó.
Để đảm bảo duy trì mức ổn định cần thiết của dự phòng rủi ro, pháp luật quy định các TCTD phải đảm bảo đúng mức dự phòng rủi ro đã quy định. Việc sử dụng dự phòng rủi ro phải trong phạm vi hiện có và chỉ được sử dụng dự phòng rủi ro trong trường hợp đó là khi khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể phá sản theo quy định của pháp luật, cá nhân chết hoặc bị mất tích và các khoản nợ được xếp loại vào nhóm 5 theo quy định phân loại nợ.
Dự phòng rủi ro rất quan trọng, nó đóng vai trò lớn trong việc tạo an toàn và ổn định cho TCTD qua việc phục hồi những thiệt hại xảy ra do rủi ro trong hoạt động tín dụng gây ra. Do đó các TCTD cần phải nghiêm chỉnh thực hiện quy định này để đảm bảo khắc phục những rủi ro phát sinh.
2.1.4. Các quy định về bảo hiểm tiền gửi.
Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng. Nó có một vị trí quan trọng đối với hoạt động của TCTD. Đây là một trong các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn, phòng chống rủi ro cho hoạt động ngân hàng và hệ thống ngân hàng. Theo quy định tại Luật các Tổ chức tín dụng thì TCTD có hoạt động nhận tiền gửi có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi.
Theo các quy định hiện hành thì bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm phi thương mại, theo đó các TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng có nhận tiền gửi bằng Việt Nam đồng của khách hàng là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh thì bắt buộc phải tham gia đóng phí bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo quy định. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thì Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được bảo hiểm của khách hàng gửi tiền ở tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó. Giới hạn số tiền được bảo hiểm là số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc lẫn lãi và một người gửi tiền tại một tổ chức tham gia bảo hiểm thuộc đối tượng gửi tiền được bảo hiểm tối đa là 50 triệu đồng (theo Khoản 3 Điều 1 Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005).
Chủ thể trong quan hệ bảo hiểm tiền gửi bao gồm chủ thể nhận bảo hiểm tiền gửi, người tham gia bảo hiểm và người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Chủ thể nhận bảo hiểm tiền gửi là tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Cơ quan này ngoài trách nhiệm thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi cho TCTD nó còn thực hiện một số nhiệm vụ khác như thực hiện giám sát rủi ro, thực hiện các biện pháp hỗ trợ các TCTD khi các tổ chức này gặp khó khăn. Như vậy bảo hiểm tiền gửi đảm bảo cho các đối tượng gửi tiền không gặp rủi ro trong quá trình gửi tiền tại TCTD đồng thời không gây sự đổ vỡ hàng loạt các TCTD khi một TCTD gặp rủi ro và rơi vào tình trạng phá sản.
2.1.5. Các quy định về bảo đảm tiền vay:
Trong hoạt động ngân hàng, khi người vay vốn không trả được nợ cho ngân hàng, TCTD với nguyên nhân khách quan hay chủ quan nào thì mục đích của TCTD đối với khoản cho vay là nhằm thu hồi cả vốn và lãi sau một thời gian cho vay không đạt được. Lúc đó, TCTD sẽ phải đối mặt với những rủi ro phát sinh từ khoản vay đó. Phần vốn của TCTD không thể thu hồi được có thể gây ra rủi ro thanh khoản ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của TCTD, phá sản TCTD có thể xảy ra. Để đảm bảo thu hồi vốn vay đầy đủ khi đến hạn, Luật các Tổ chức tín dụng có quy định “Tổ chức tín dụng cho vay trên cơ sở đảm bảo bằng tài sản cầm cố, thế chấp, của khách hàng vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba…”
Và tại Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 12/12/1999 về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng (hiện nay được thay thế bằng Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch đảm bảo) thì bảo đảm tiền vay là việc các tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã đến hạn cho khách hàng vay. Có thể thấy, bản chất của bảo đảm tiền vay là khách hàng sử dụng tài sản của mình hoặc tài sản uy tín của bên thứ ba để trả nợ thay cho khoản nợ mà người vay đã sử dụng vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng không có khả năng trả được khi đến hạn cho TCTD. Do đó khi có rủi ro xảy ra, có nghĩa là khi bê vay không trả được nợ cho TCTD với bất kỳ lý do nào thì TCTD vẫn có thể thu hồi nợ thông qua tài sản đảm bảo, thông qua cam kết trả nợ của bên thứ ba. Và như vậy, TCTD sẽ có thể thu hồi được nợ ngay cả khi bên vay không trả được nợ.
Hiện nay quy định về đảm bảo tiền vay được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm, theo đó có quy định:
- Tài sản dùng đảm bảo tiền vay là tài sản hợp pháp bao gồm tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bên có nghĩa vụ và bên thứ ba mà người này cam kết dùng tài sản đó để thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với ngân hàng. Tài sản này có thể là tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai và phải là tài sản được phép giao dịch (Khoản 1 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP).
- Hình thức bảo đảm: bảo đảm tiền vay được thực hiện dưới các hình thức cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, tín chấp…
- Về các trường hợp phải đăng kí giao dịch bảo đảm tiền vay: Để đảm bảo an toàn hơn nữa cho hoạt động bảo đảm tiền vay, pháp luật quy định các trường hợp phải đăng ký giao dịch bảo đảm bao gồm: thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, thế chấp tàu bay tàu biển, thế chấp một tài sản để thực hiện nhiều nghĩa vụ (Điều 12 Nghị định 163/2006/NĐ-CP).
Như vậy, với quy định chặt chẽ về các biện pháp bảo đảm tiền vay, rõ ràng rủi ro các khoản nợ xấu, nợ khó đòi của ngân hàng sẽ được giảm đến mức tối thiểu, giúp đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng.
2.2. Nhóm quy định về các hạn chế trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.
An toàn trong hoạt động, phòng chống những rủi ro phát sinh là yêu cầu bức thiết đối với các nhà quản trị ngân hàng cũng như các cơ quan quản lý nhà nước về ngân hàng. Nhằm thực hiện mục đích trên, pháp luật có những quy định có tính hạn chế quyền tự do kinh doanh của các TCTD. Các quy định đó được đặt ra nhằm phòng chống rủi ro cho chính TCTD và đồng thời bảo vệ những lợi ích chung của nhà nước và xã hội, đó là sự ổn định tiền tệ quốc gia, sự an toàn của cả hệ thống ngân hàng và của người gửi tiền.
Do tính rủi ro cao của các hoạt động kinh doanh của các TCTD nên hầy như pháp luật các nước đều có quy định về hạn chế hoạt động của các TCTD nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng như hạn chế đối với khách hàng và mức cho vay bảo lãnh, góp vốn. Pháp luật Việt Nam cũng đã có quy định cụ thể về các hạn chế trong hoạt động ngân hàng của các TCTD.
2.2.1. Những trường hợp không được cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng:
Theo quy định tại Điều 126 Luật các tổ chức tín dụng, các TCTD trừ tổ chức tín dụng hợp tác trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng không được cho vay đối với các đối tượng sau:
- Thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc) của TCTD;
- Người thẩm định xét duyệt cho vay;
- Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên hội đồng quản trị, Ban kiểm soát; Tổng giám đốc (Giám đốc), phó tổng giám đốc (Phó giám đốc). Đồng thời TCTD không được chấp nhận bảo lãnh của các đối tượng trên để làm cơ sở cho việc cấp tín dụng đối với khách hàng.
Ngoài ra, tại Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 (được sửa đổi bổ xung bằng Quyết định số 34/2008/QĐ-NHNN ngày 5 tháng 12 năm 2008) thì ngoài các đối tượng trên, TCTD không được cấp tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát cũng như không được cho vay không có tài sản đảm bảo đối với các khoản vay nhằm đầu tư kinh doanh chứng khoán.
Mục đích cho vay của TCTD là đáp ứng nhu cầu cho vay vốn hợp pháp của khách hàng thông qua đó tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên không phải vì lợi nhuận mà TCTD cho vay với mọi mục đích. Do đó bên cạnh sự hạn chế về mặt chủ thể, tại quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 (được sửa đổi bổ sung bằng Quyết định só 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3/2/2005 và Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/5/2005) có quy định TCTD không được cho vay đối với các nhu cầu vay vốn để:
- Mua sắm các tài sản và chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua bán chuyển nhượng, chuyển đổi.
- Thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm.
- Đáp ứng các nhu cầu tài chính của các giao dịch mà pháp luật cấm.
Theo quy định tại Điều 127 luật các Tổ chức tín dụng TCTD không được cấp tín dụng không có đảm bảo, cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho những đối tượng sau:
- Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD, Kế toán trưởng, Thanh tra viên;
- Các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng;
- Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều 126 của Luật này sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó.
- Tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng trên không được quá 5% vối tự có của tổ chức tín dụng.
2.2.2. Giới hạn tín dụng đối với khách hàng:
Khi một khách hàng vay vốn với một số lượng lớn, nếu khách hàng đó không trả được nợ thì TCTD sẽ gặp nhiều khó khăn khi không thu hồi được khoản nợ lớn từ khách hàng đó. Dĩ nhiên TCTD sẽ phải đối mặt với rủi ro là sẽ bị mất vốn, dẫn đễn mất khả năng chi trả, phá sản có thể xảy ra. Do đó, để phòng chống rủi ro trên phát sinh, pháp luật quy định giới hạn tín dụng đối với một khách hàng và nhóm khách hàng có liên quan nhằm phân tán bớt rủi ro trong hoạt động của TCTD. Tránh tình trạng vốn của TCTD bị ứ đọng kho một khách hàng, một nhóm khách hàng không trả được nợ.
Giới hạn tín dụng đối với khách hàng được quy định tại Điều 128 Luật các Tổ chức tín dụng và được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư 13/2010 như sau:
Đối với hoạt động cho vay bảo lãnh thì:
+ Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD và đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn của TCTD.
+ Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của TCTD và đối với một nhớm khách hàng có liên quan là không vượt quá 60% vốn tự có của TCTD.
Bên cạnh đó TCTD không được cấp tín dụng có đảm bảo bằng tài sản, cấp tín dụng với những điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm soát, và phải tuân thủ các hạn chế sau:
+ Tổng mức cho vay và bảo lãnh của TCTD đối với một doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm soát không được vượt quá 10% vốn tự có của TCTD.
+ Tổng mức cho vay và bảo lãnh của TCTD đối với các doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm soát không được vượt quá 20% vốn tự có của TCTD.
Đối với hoạt động cho thuê tài chính:
+ Tổng mức cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá 30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính.
+ Tổng mức cho thuê tài chính đối với một nhóm khách hàng không được vượt quá 50% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính.
1.2.3. Giới hạn đầu tư góp vốn mua cổ phần.
Theo quy định tại Điều 129 Luật các Tổ chức tín dụng, các TCTD được sử dụng vốn điều lệ, quỹ dự trữ để góp vốn mua cổ phần của các doanh nghiệp và của các TCTD khác. Mức vốn góp mua cổ phần của TCTD trong một doanh nghiệp, tổng mức vốn góp mua cổ phần của TCTD trong các doanh nghiệp không được vượt mức tối đa mà pháp luật quy định với từng loại hình TCTD.
Theo quy định tại Quyết định 492/2000/QĐ-NHNN ngày 28/12/2000, chỉ những TCTD sau mới được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn mua cổ phần: Các TCTD ngân hàng: ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư; Các TCTD phi ngân hàng dưới hình thức công ty tài chính.
Mức góp vốn mua cổ phần được giới hạn theo tỷ lệ nhất định, tùy thuộc vào mức góp vốn mua cổ phần. Theo Thông tư 13/2010 thì:
+ Mức góp vốn mua cổ phần của TCTD trong một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, TCTD khác không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư TCTD đó.
+ Tổng mức vốn, mua cổ phần của TCTD trong tất cả doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư TCTD khác không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của TCTD.
2.3. Nhóm quy định về kiểm soát đặc biệt, thanh tra kiểm tra giám sát hoạt động ngân hàng:
2.3.1. Kiểm soát đặc biệt:
Các tác động rủi ro trong hoạt động ngân hàng là lý do khách quan để Nhà ước tăng cường điểu chỉnh hoạt động ngân hàng thông qua cơ chế kiểm soát đặc biệt.
Kiểm soát đặc biệt là biện pháp quản lý nhà nước do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng đối với các TCTD có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán nhằm đảm bảo an toàn của hệ thống các TCTD.
Nếu để TCTD bị phá sản thì hậu quả xấu sẽ xảy ra đối với hệ thống TCTD, đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. Chính vì vậy, ngoài các biện pháp phòng chống rủi ro ngân hàng Nhà nước cần áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt để hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro dẫn đến phá sản trong hoạt động ngân hàng. Điều 146 Khoản 1 Luật các Tổ chức tín dụng có quy định: “Kiểm soát đặc biệt là việc một TCTD được đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước do có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán”.
Mục đích của kiểm soát đặc biệt là đưa ra các biện pháp cần thiết đối với TCTD bị kiểm soát nhằm bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, giúp TCTD khôi phục lại hoạt động bình thường của mình. Với chức năng của mình, NHNN có trách nhiệm kiểm tra thường xuyên, phát hiện kịp thời những trường hợp TCTD mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán. Theo đó tại Điều 93 Luật các Tổ chức tín dụng có quy định, TCTD được đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt trong những trường hợp sau:
Có nguy cơ mất khả năng chi trả (Khả năng chi trả của TCTD được xác định bằng tỷ lệ giữa tài sản “Có” có thể thanh toán ngay so với các loại tài sản “Nợ” phải thanh toán tại một thời điểm nhất định của TCTD).
Nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Khi số lỗ lũy kế của TCTD lớn hơn 50% tổng số vốn điều lệ thực có và các quỹ.
khi xảy ra một trong các trường hợp trêm, Thống đốc NHNN ra quyết định đặt TCTD đó vào tình trạng kiểm soát đặc biệt. Quyết định này ghi rõ tên của TCTD, lý do, thời hạn kiểm soát đặc biệt, họ tên những thành viên được Thống đốc NHNN cử làm nhiệm vụ kiểm soát đặc biệt và những nhiệm vụ cụ theer của ban kiểm soát đặc biệt. Ban kiểm soát đặc biệt được thành lập có nhiệm vụ chỉ đạo Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đóc (Giám đốc) TCTD được đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt xây dựng phương án củng cố tổ chức và hoạt động; chỉ đạo và giám sát việc triển khai các giải pháp được thực hiện nên trong phương án củng cố TCTD đã được Ban kiểm soát đặc biệt thông qua; báo cáo NHNN về tình hình hoạt động, kết quả thực hiện phương án củng cố TCTD. Đồng thời, Luật cũng quy định trách nhiệm của TCTD được kiểm soát đặc biệt, khoản vay đặc biệt và trường hợp chám dứt kiểm soát đặc biệt. Và theo quy định tại Điều 152 Luật các Tổ chức tín dụng thì việc kiểm soát đặc biệt kết thúc trong trường hợp:
Hết thời hạn kiểm soát đặc biệt mà không được gia hạn.
Hoạt đọng của TCTD trở lại bình thường.
Trước khi kết thúc thời hạn kiểm soát đặc biệt, TCTD được sát nhập, hợp nhất.
TCTD lâm vào tình trạng phá sản.
Việc kết thúc kiểm soát đặc biệt được thực hiện bằng một quyết định của Thống đốc NHNN và sẽ được thông báo cho các cơ quan liên quan.
2.3.2. Thanh tra, kiểm tra giám sát hoạt động của ngân hàng.
Khác với tính chất nhất thời và bất bình thường của hoạt động kiểm soát đặc biệt, Thanh tra kiểm tra giám sát ngân hàng là hoạt động tiến hành thường xuyên định kì của NHNN. Tính chất thường xuyên này bắt nguồn từ tính đặc thù của kinh doanh tiền tệ, lĩnh vực kinh doanh có độ rủi ro cao.
Trong hoạt động của mình, các ngân hàng phải chịu sự thanh tra, kiểm soát của cơ quan quản lý theo quy định của pháp luật. Mục đích của hoạt động này là góp phần đảm bảo sự an toàn lành mạnh, hiệu quả trong hoạt động ngân hàng, nhằm bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, tránh rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Theo quy đinh tại Điều 50 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thanh tra ngân hàng là thanh tra chuyên ngành về ngân hàng, thuộc bộ máy Ngân hàng Nhà nước. Do đó, thanh tra ngân hàng có quyền thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan tới chức năng quản lý nhà nước của ngân hàng về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng chỉ tuân theo pháp luật, đảm bảo khách quan chính xác, kịp thời, dân chủ, không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của thanh tra ngân hàng.
Nội dung của hoạt động thanh tra bao gồm:
- Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, việc thực hiện các quy định ghi trong giấy phép hoạt động ngân hàng.
- Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
- Kiến nghị các biện pháp đảm bảo thi hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
II. Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
1.1. Về phía các tổ chức tín dụng:
Về tuân thủ một số quy định liên quan của Ngân hàng Nhà nước:
Các tổ chức tín dụng còn chưa tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về phòng chống rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Để phòng chống những rủi ro phát sinh, pháp luật đã có những quy định về trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các tổ chức tín dụng chưa thực sự tuân thủ các quy định đó.
Thông tư số 13/2010/TT-NHNN quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng theo Điều 4, là các tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro của tổ chức tín dụng (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ).
Cũng theo Điều 4, tổ chức tín dụng phải thực hiện báo cáo tài chính hợp nhất theo quy định của pháp luật, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ theo quy định nói trên, phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp nhất vốn, tài sản của tổ chức tín dụng và công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất). Hầu như các tổ chức tín dụng chưa thực sự tuân thủ đúng các quy định trên. Măc dù các tỷ lệ này có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo toàn vốn, đảm bảo khả năng chi trả, phòng chống những rủi ro phát sinh cho các tổ chức tín dụng. Hiện nay, một số tổ chức tín dụng còn sử dụng số liệu ước tính để tính toán tài sản có rủi ro thay vì số liệu thống kê trực tiếp.
Về tuân thủ Quyết định số 16/2007/QĐ-NHNN ngày 18/4/2007 ban hành chế độ báo cáo tài chính đối với các tổ chức tín dụng: hầu hết hệ thống thông tin hiện tại của các tổ chức tín dụng không hỗ trợ việc lập thuyết minh về rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản trong việc lập báo cáo tài chính của tổ chức tín dụng.
Về quản trị rủi ro tín dụng, thanh khoản, ngoại hối, tác nghiệp và lãi suất:
Quản trị rủi ro tín dụng: Chưa có nhiều tổ chức tín dụng xây dựng chiến lược tín dụng tổng thể và kế hoạch khả thi để thực hiện chiến lược này, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc phát triển nguồn lực và ưu tiên đầu tư chiều sâu để tạo vị thế cạnh tranh cho từng tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng chưa xác định được chính xác mức độ rủi ro hiện có và rủi ro tiềm tàng do một số hạn chế như phân loại nợ theo tiêu chí định lượng là chủ yếu, dẫn tới tỷ lệ nợ xấu chưa phản ánh đúng chất lượng tín dụng thực tế; hệ thống thông tin quản trị còn yếu, chưa hỗ trợ việc phân tích chất lượng tín dụng; chưa lượng hoá được rủi ro tín dụng của các đối tác thanh toán; chưa đánh giá thường xuyên năng lực của cán bộ tín dụng và mức độ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Nhiều tổ chức tín dụng đã xây dựng cẩm nang tín dụng nhưng chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả việc thực hiện cẩm nang này. Hệ thống xếp hạng tín dụng là cốt lõi của hệ thống quản lý rủi ro tín dụng, nhưng chưa có nhiều tổ chức tín dụng xây dựng được hệ thống này để hỗ trợ việc thẩm định, áp dụng chính sách khách hàng, giám sát khách hàng, phân loại nợ trên cơ sở kết hợp phân tích yếu tố định tính và định lượng theo thông lệ quốc tế. Chức năng kiểm tra tín dụng độc lập chưa được phát huy và sử dụng hiệu quả.
Hiện nay dù danh nghĩa là hoạt động đa năng, nhưng thu nhập từ hoạt động tín dụng hiện vẫn chiếm trên/dưới 90% tổng thu nhập của từng NHTM Việt Nam. Rủi ro tín dụng của các NH chủ yếu là do thất bại của khách hàng trong việc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết với NH.
Một số sự kiện rủi ro tín dụng điển hình như vụ Epco-Minh Phụng. Năm 2008 là vụ việc của khu du lịch sinh thái An Khánh do một số tập đoàn tư nhân chuyển giao cho nhau và đã bị thế chấp để vay vốn một NHTMCP, nhưng Cty vẫn bán 47 lô biệt thự tại khu này cho các hộ dân. Khi Cty không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán cho NH, NH ra thông báo chuyển quyền hưởng thụ lô đất trên thì người dân mới biết mình đã bỏ tiền ra mua đất đã bị thế chấp...
Những rủi ro tín dụng như vậy ngoài nguyên nhân từ chủ quan của khách hàng còn có nguyên nhân từ phía NH đã vi phạm các quy định về cho vay trong hoạt động của TCTD, và trong một số vụ còn có sự tiếp tay của một số cán bộ NH cho đối tác lợi dụng việc kinh doanh BĐS để lừa đảo.
Hiện nay, các yêu cầu về thông tin phục vụ phân tích tín dụng vẫn chưa được đáp ứng đáng tin cậy, đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời. Các thông tin về báo cáo tài chính của DN chưa bị bắt buộc phải qua kiểm toán do vậy độ chính xác của báo cáo chưa cao.
Việc tìm kiếm thông tin cực kỳ khó khăn, tình trạng thông tin bất cân xứng là phổ biến (cán bộ tín dụng chủ yếu lấy thông tin từ chính sự khai báo của khách hàng). Thiếu các trung tâm dữ liệu khách hàng cá nhân, hộ gia đình, DNVVN... (Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN mới chỉ cung cấp thông tin về DN).
Quản trị rủi ro thanh khoản: các chiến lược quản lý thanh khoản của hầu hết các tổ chức tín dụng đều rất bao quát. Các tổ chức tín dụng chưa có công cụ phù hợp để lượng hoá rủi ro, báo cáo phục vụ quản lý thanh khoản chủ yếu là ngắn hạn (thường dưới 2 tuần), thiếu các báo cáo phân tích dài hạn để phục vụ mục tiêu huy động và sử dụng nguồn vốn hiệu quả. Mặc dù cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro thanh khoản đã được xây dựng, nhưng việc vận hành nó chưa hiệu quả, vai trò của ALCO còn mờ nhạt. Các công cụ như phân tích và quản trị độ lệch thời gian, tình huống, rủi ro tập trung, ảnh hưởng của các cam kết cho vay chưa giải ngân… chưa được áp dụng phổ biến và linh hoạt. Rất ít tổ chức tín dụng xây dựng kế hoạch (giả định) đối phó tình trạng khủng hoảng thanh khoản, nếu có xây dựng thì cũng chưa được luyện tập và cập nhật thường xuyên, liên tục.
Quản trị rủi ro ngoại hối: Hầu hết các tổ chức tín dụng trong nước chưa xây dựng được chiến lược quản lý rủi ro ngoại hối. Trình độ và kinh nghiệm quản lý rủi ro ngoại hối còn hạn chế, hệ thống thông tin quản lý chưa hỗ trợ được việc lập báo cáo phục vụ quản lý rủi ro ngoại hối. Các bước kiể
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng.doc