MỤC LỤC
Trang:
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG .1
I. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 1
1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ .1
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra .4
2.1. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ 4
2.2. Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh” .8
2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra .8
2.4. Bàn về điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 9
3. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 10
4. Xác định thiệt hại .16
II. Thực tiễn áp dụng quy định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra .17
KẾT LUẬN .20
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2672 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong hệ thống luật dân sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
háp luật quy định là NNHCĐ nhưng chúng lại có đầy đủ tính chất của NNHCĐ, ví dụ như ong bò vẽ, rắn độc, chó dại, trâu điên… Như vậy, khi xem xét sự vật gây thiệt hại có phải là NNHCĐ hay không, cần căn cứ vào tính chất của sự vật đó như: mức độ nguy hiểm; khả năng kiểm soát của con người đối với sự vật; quy định của pháp luật liên quan đến việc trông giữ, sử dụng… Xe đạp điện hay xe máy có dung tích xi lanh dưới 50cm3 là những phương tiện giao thông có gắn động cơ, khi tham gia giao thông có thể đạt vận tốc lớn, có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản người khác, tuy còn nhiều quan điểm khác nhau nhưng theo em cần được xem là NNHCĐ. Đối với trường hợp chó dại, trâu điên gây thiệt hại tới tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người, mặc dù rất nguy hiểm nhưng đây là những động vật đã được thuần hóa, không còn mang tính chất hoang dã, không thể coi là “thú dữ”. Mặt khác, BLDS đã có riêng điều luật quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625) áp dụng đối với chủ sở hữu, người quản lý súc vật nên không thể áp dụng quy định về BTTH do NNHCĐ gây ra được. Còn ong bò vẽ, rắn độc mặc dù không phải là “thú dữ” (theo các định nghĩa trong từ điển) nhưng phải coi là NNHCĐ vì đây là loại động vật còn mang tính hoang dã, chưa được thuần hóa và có tính chất nguy hiểm lớn. Và như thế, việc xác định một vật có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ hay không sẽ phải căn cứ vào các quy định của pháp luật và tính chất của sự vật đó. NNHCĐ không chỉ bao gồm những sự vật được liệt kê tại Điều 623 Bộ luật dân sự mà còn bao gồm những sự vật khác mà hoạt động của chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh, con người không thể hoàn toàn kiểm soát được nguy cơ gây thiệt hại. Đối với NNHCĐ, pháp luật thường có những quy định nghiêm ngặt trong việc trông giữ, vận hành, sử dụng, vận chuyển… chúng để tránh gây thiệt hại. Vì vậy, xác định NNHCĐ không chỉ căn cứ vào khái niệm NNHCĐ tại Điều 623 Bộ luật dân sự mà còn phải căn cứ vào các văn bản, các quy định khác có liên quan, nếu không thì phải xin ý kiến chỉ đạo của Tòa án nhân dân Tối cao trước khi quyết định.
Thiệt hại liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm rất đa dạng và do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, chỉ áp dụng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau:
Thứ nhất: Những sự vật được coi là NNHCĐ phải đang trong tình trạng vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông vận tải cơ giới đang tham gia giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện; nhà máy công nghiệp đang hoạt động… Trường hợp thiệt hại xảy ra khi NNHCĐ đang ở trạng thái “tĩnh” – không hoạt động thì không thể coi là thiệt hại do NNHCĐ gây ra, ví dụ: xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt hại; ô tô tự nhiên bốc cháy gây thiệt hại; cột điện đổ khi đang thi công, không có điện…
Thứ hai: Thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân NNHCĐ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra.
Có quan điểm cho rằng các vật là vô tri vô giác, vì vậy chúng không thể gây thiệt hại nếu không có sự tác động của con người. Quan điểm này cho rằng đằng sau việc gây thiệt hại của một vật bao giờ cũng có sự tác động của con người. Chiếc xe gây tai nạn là do người lái xe làm cho nó chuyển động. Quan điểm này đánh đồng tất cả các thiệt hại đều do con người gây ra, vì vậy các thiệt hại đều quy về một nguyên tắc BTTH nói chung.
Tuy nhiên, không phải mọi thiệt hại do vật gây ra đều có sự tác động của con người. Nhiều trường hợp, hoạt động của NNHCĐ nằm ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người và tự thân NNHCĐ gây thiệt hại. Việc xác định thiệt hại là do “tác động của người” hay “tác động của vật” có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi xác định trách nhiệm BTTH.
Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến NNHCĐ nhưng do “tác động của con người”, do hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm BTTH. Hầu hết các vụ tai nạn, thiệt hại đều có sự tham gia của vật với vai trò trung gian như là công cụ, phương tiện mà con người sử dụng để gây thiệt hại như: đặt mìn để gây thiệt hại cho người khác, để đánh cá; dùng súng sát thương người khác; lái xe phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn; dùng chất độc để đầu độc người khác; dùng nguồn điện để gài bẫy trộm; nhốt người vào chuồng hổ cho con thú tấn công… Những trường hợp này thiệt hại hoàn toàn do hành vi có chủ ý của con người chứ không phải do tự thân NNHCĐ gây thiệt hại.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của NNHCĐ, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người thì sẽ áp dụng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra như: xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật…
Một điểm cần lưu ý là hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ phải có tính trái pháp luật. Hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi phá dỡ các công trình xây dựng trái phép không thể coi là trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của NNHCĐ mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái pháp luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 BLDS). Nói tóm lại, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của NNHCĐ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
2.2. Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”.
NNHCĐ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có liên quan đến NNHCĐ… Có những chủ thể do mối quan hệ sở hữu, lao động mà họ trực tiếp tiếp xúc với NNHCĐ Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử dụng NNHCĐ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ chỉ được đặt ra khi NNHCĐ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”- là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến NNHCĐ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
Do đặc điểm của NNHCĐ là những loại tài sản có khả năng gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng, thiệt hại do NNHCĐ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động của NNHCĐ.
2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của NNHCĐ là nguyên nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt động của NNHCĐ. Khi xác định trách nhiệm BTTH, điểm mấu chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra. Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra chỉ được áp dụng.
2.4. Bàn về điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Theo quan điểm cổ điển, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi có điều kiện lỗi. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Điều kiện này trong nhiều trường hợp thực tế là không thể thực hiện được khi thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của ai cả. Khuynh hướng xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên ý niệm lỗi nhiều khi không bảo đảm được một cách hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng
Để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân chống lại việc gây ra tai nạn, có quan điểm cho rằng trách nhiệm BTTH trong một số trường hợp có thể phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Thực tế cho thấy các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ giới hóa, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người. Nếu trong mọi trường hợp xảy ra thiệt hại đều buộc người bị hại dẫn chứng lỗi thì không khác gì gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi thường thiệt hại của nạn nhân. Vì vậy, khi có việc gây thiệt hại, người bị thiệt hại được bảo đảm bồi thường ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi. BBTH do NNHCĐ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 BLDS quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”.
Nếu như các trường hợp BTTH thông thường dựa trên sự suy đoán lỗi thì trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra dựa trên sự suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ quản lý NNHCĐ. Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra chỉ được áp dụng khi hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ nằm ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của người chiếm hữu, vận hành và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành NNHCĐ thì không áp dụng trách nhiệm này mà sẽ áp dụng trách nhiệm BTTH nói chung. Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra không loại trừ khả năng thiệt hại cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành NNHCĐ nhưng hành vi của người trông giữ, vận hành NNHCĐ không phải nguyên nhân có tính quyết định đến thiệt hại. Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu NNHCĐ không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp họ chứng minh được mình không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành NNHCĐ. Quan điểm này khả thi hơn bởi lẽ yếu tố lỗi không phải là một điều kiện tiên quyết làm phát sinh trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra. Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của NNHCĐ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người (như xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp trước dẫn đến đổi hưởng đột ngột gây thiệt hại) hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển NNHCĐ thì không áp dụng trách nhiệm này.
3. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Căn cứ vào khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra có thể được áp dụng với các chủ thể sau:
+ Chủ sở hữu;
+ Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ;
+ Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật NNHCĐ.
Việc xác định ai trong số các chủ thể trên phải chịu trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể.
Điều 165 BLDS quy định Nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu, theo đó “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Khi có thiệt hại do NNHCĐ gây ra, trước tiên người ta nghĩ đến nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, vì vậy, trách nhiệm bồi thường trước hết được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc về người khác. Chúng ta có thể xem xét các trường hợp sau:
- Chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ.
Chủ sở hữu NNHCĐ là người có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt NNHCĐ, có thể nêu ra một số chủ sở hữu: công dân, pháp nhân, tổ chức kinh tế tư nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Chủ sở hữu NNHCĐ phải bổi thường trong các trường hợp: phương tiện giao thông không giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng; NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. Xét về lỗi thì ở trường hợp thứ nhất chủ sở hữu NNHCĐ phải bồi thường cả khi có lỗi và khi không có lỗi, trừ khi: thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; thiệt hại xảy ra không trường hợp bất khả kháng; thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết. Còn ở trường hợp thứ hai thì chủ sở hữu NNHCĐ phải bồi thường khi có lỗi trong việc để nguồn cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. Đây là trường hợp chủ sở hữu NNHCĐ không thực hiện đầy đủ các quy định về bảo quản, sử dụng...(Ví dụ: để xe máy bên vệ đường không khóa và không rút chìa khóa khỏi ổ...) để NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. Trong trường hợp này, chủ sở hữu NNHCĐ phải liên đới (cùng người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật) bồi thường cho người bị thiệt hại.
- Trường hợp chủ sở hữu NNHCĐ chuyển giao NNHCĐ cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo ý chí của chủ sở hữu.
Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng luôn có các hình thức thể hiện khác nhau: Chủ sở hữu có thể trực tiếp chiếm hữu, sử dụng để khai thác công dụng của tài sản; chủ sở hữu cũng có thể chuyển giao quyền chiếm hữu thực tế tài sản cho người khác và cho phép người này được sử dụng tài sản của mình (cho thuê, cho mượn, chuyển giao theo nghĩa vụ lao động…). Trong trường hợp NNHCĐ được chuyển giao cho người khác theo ý chí của chủ sở hữu, chủ sở hữu NNHCĐ vẫn có quyền kiểm soát về mặt pháp lý (chiếm hữu pháp lý) đối với tài sản. Khi cho thuê, cho mượn hay chuyển giao NNHCĐ theo nghĩa vụ lao động, mặc dù chủ sở hữu không trực tiếp khai thác công dụng của tài sản nhưng đó cũng là một hình thức chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản, cụ thể là khai thác lợi ích kinh tế từ tài sản. BLDS 2005 quy định “nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sư dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Tuy nhiên, nếu cho rằng khi chủ sở hữu đã chuyển giao NNHCĐ cho người khác là chủ sở hữu hoàn toàn hết trách nhiệm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là không hợp lý. Quy định của BLDS 2005 hiện nay hoàn toàn chưa phân định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong các trường hợp khác nhau. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về BTTH ngoài hợp đồng mặc dù đã đưa ra được một số ví dụ cụ thể mang tính chất hướng dẫn về vấn đề này nhưng lại chưa đưa ra được các quy định mang tính chất khái quát chung.
Ta có thể thấy chủ sở hữu NNHCĐ có thể chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua hai hình thức sau:
Chủ sở hữu NNHCĐ chuyển giao NNHCĐ theo nghĩa vụ lao động. Trong trường hợp này, người được chuyển giao NNHCĐ là những người làm công, ăn lương, được giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ để thực hiện nhiệm vụ mà người chủ lao động giao cho. Giữa chủ sở hữu NNHCĐ và người được giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ có mối quan hệ lao động, được xác lập qua tuyển dụng hoặc ký kết hợp đồng lao động. Mặc dù người lao động là người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ nhưng hoàn toàn dưới sự quản lý, điều hành của chủ sở hữu NNHCĐ và vì lợi ích của chủ sở hữu nên phải coi đây giống như trường hợp chủ sở hữu NNHCĐ đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng, theo đó, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm khi tài sản của mình gây thiệt hại cho người khác.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý một số trường hợp biệt lệ sau:
Thứ nhất: Người được giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ theo nghĩa vụ lao động nhưng thiệt hại xảy ra không phải trong lúc người đó thực hiện nhiệm vụ mà người sử dụng lao động giao cho thì ai sẽ bồi thường. Ví dụ: Anh A là lái xe theo hợp đồng của Công ty X, có nhiệm vụ đưa giám đốc đi họp hội nghị. Trong lúc chờ giám đốc họp, A tranh thủ lái xe đi chơi thăm bạn bè. Xe bị mất lái trong lúc A điều khiển xe đi chơi dẫn đến gây thiệt hại. Theo chúng tôi, trong trường hợp này, thiệt hại xảy ra không phải trong lúc A đang thực hiện nghĩa vụ lao động vì lợi ích của chủ sở hữu NNHCĐ. Vì vậy, A là người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Thứ hai: Giữa người lao động và người sử dụng lao động có thỏa thuận người lao động phải chịu mọi trách nhiệm khi NNHCĐ gây ra thiệt hại. Ví dụ: B là lái xe Taxi của Công ty X. B đóng cổ phần vào Công ty X 20.000 000 (hai mươi triệu) và được giao 1 xe Taxi. Giữa B và Công ty có ký thỏa thuận B phải chịu mọi trách nhiệm khi xe của mình gây thiệt hại. Thỏa thuận này theo chúng tôi là không trái pháp luật, đạo đức xã hội, cũng như không nhằm trốn tránh việc bồi thường. Theo quy định pháp luật hiện nay, vấn đề gánh chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp các bên có thỏa thuận sẽ căn cứ vào thỏa thuận tự nguyện giữa các bên. Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu buộc người bị thiệt hại đòi người lái xe phải bồi thường trong trường hợp tự thân NNHCĐ gây ra là tương đối khó khăn. Mặt khác, ô tô thuộc sở hữu của công ty và Công ty có trách nhiệm bảo đảm an toàn tài sản thuộc sở hữu, quản lý của mình. Người lái xe chỉ là người đang thực hiện một hoạt động của công ty, mang lại lợi nhuận cho công ty, dưới sự giám sát, điều hành của công ty. Chúng tôi cho rằng trong trường hợp này, để bảo đảm được lợi ích cho người bị thiệt hại, bảo đảm thiệt hại được bồi thường nhanh chóng, cần xác định công ty phải bồi thường với tư cách chủ sở hữu. Còn thỏa thuận giữa lái xe và công ty là thỏa thuận bên trong nhằm đề cao trách nhiệm của người lái xe, đồng thời là cơ sở pháp lý để công ty yêu cầu lái xe thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn.
Trên thực tế hiện nay có nhiều hãng Taxi hoạt động theo phương thức người có xe có thể đăng ký tham gia vào hãng, hàng tháng đóng một khoản tiền để được sử dụng bộ đàm, logo của hãng, được điều hành đón khách, còn mọi chi phí, trách nhiệm liên quan đến xe cũng như lợi nhuận thu được họ được hưởng. Trong trường hợp này người lái xe là chủ sở hữu, đồng thời trực tiếp khai thác, sử dụng NNHCĐ nên theo chúng tôi, họ tự chịu trách nhiệm là hoàn toàn hợp lý.
- Trường hợp NNHCĐ được chuyển giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự.
Chủ sở hữu có thể chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ cho chủ thể khác thông qua hợp đồng: mượn, thuê, cầm cố, gửi giữ… tài sản hoặc ủy quyền cho người khác quản lý tài sản của mình. Đây là những hợp đồng dân sự được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, vì vậy sự cam kết thỏa thuận được coi như pháp luật đối với các bên. Trách nhiệm NNHCĐ do NNHCĐ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận đó. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì áp dụng nguyên tắc chung của pháp luật. Bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi giữ, được ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ pháp luật, vì vậy họ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định, trong đó có nghĩa vụ trông coi, quản lý NNHCĐ, không để tài sản mình quản lý gây thiệt hại cho người khác. Trường hợp NNHCĐ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm hữu, quản lý của họ, họ bị coi là có lỗi trong việc quản lý, sử dụng và phải chịu trách nhiệm bồi thường.
- Trường hợp NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, BLDS 2005 phân định thành 2 trường hợp.
Nếu chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu NNHCĐ hoàn toàn không có lỗi trong việc để NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật NNHCĐ phải BTTH do NNHCĐ gây ra. Chủ sở hữu, người chiếm hữu NNHCĐ sẽ được giải trừ khỏi trách nhiệm bồi thường nếu họ chứng minh được đã tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ trong việc bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng NNHCĐ theo quy định của pháp luật.
Trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp NNHCĐ cũng có lỗi trong việc để NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường cùng người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
- Người chiếm hữu, sử dụng trái phép NNHCĐ phải bồi thường thiệt hại. Mức độ, trách nhiệm BTTH của người chiếm hữu, sử dụng trái phép NNHCĐ phụ thuộc vào lỗi của chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ. Lỗi ở đây là lỗi trong việc quản lý NNHCĐ để người khác chiếm hữu, sử dụng trái phép gây thiệt hại. Do vậy, khi đánh giá lỗi của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ không được đánh đồng với lỗi gây ra thiệt hại. Đây chỉ là điều kiện gây ra thiệt hại chứ không phải nguyên nhân gây ra thiệt hại. Hành vi và lỗi của người chiếm hữu, sử dụng trái phép NNHCĐ mới là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Cho nên, trách nhiệm liên đới bồi thường của từng người phải được xác định theo mức độ lỗi. Người chiếm hữu, sử dụng trái phép NNHCĐ gây ra thiệt hại phải bồi thường nhiều hơn.
4. Xác định thiệt hại.
BTTH do NNHCĐ gây ra là một dạng bồi thường trong trường hợp cụ thể. Do vậy, về nguyên tắc thiệt hại phải được bồi thường bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm; thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại các Điều 608, 609, 610 BLDS.
- Thiệt hại tài sản là thiệt hại vật chất tính toán được. Tài sản bao bồm: vật có thực, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Theo quy định tại Điều 612 BLDS thì thiệt hại do tài sản bị xâm hại được bồi thường gồm tài sản bị mất, bị hủy hại, bị hư hỏng, lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại); chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị (nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc, thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu có); tùy từng trường hợp, Tòa án buộc người xâm phạm sức khỏe người khác phải bồi thường một khoản bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.
- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc cho người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho việc mai táng, tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; tùy từng trường hợp, Tòa án quyết định người gây thiệt hại do xâm phạm tính mạng phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thiết gần gũi nhất của nạn nhân. Như vậy, trong các vụ án vi phạm các quy định về điều khiển A xâm phạm tính mạng người khác, người phạm tội phải bồi thường bốn loại thiệt hại: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa người bị hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; và khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần.
II. Thực tiễn áp dụng quy định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật giải quyết BTTH do NNHCĐ gây ra thường là đối với các phương tiện giao thông đường bộ. Nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ có thể thấy:
Trong các vụ án vi phạm các quy định về điều khiển NNHCĐ gây ra thiệt hại cho cá nhân, không có trường hợp nào người gây thiệt hại được giảm mức bồi thường, theo quyết định của tòa án mà không có sự đồng ý của người được bồi thường. Mặc dù tại khoản 2 Điều 605 BLDS quy định “người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình”. Do vậy, có thể nói quy định tại khoản 2 Điều 605 BLDS chỉ có thể áp dụng trong trường hợp gây thiệt hại cho nhà nước.
Về nội dung, nhìn chung việc bồi thường thiệt hại đúng quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của người bị thiệt hại. Tuy nhiên vẫn còn một số bản án thiếu thống nhất hoặc quyết định chưa đúng thậm chí còn mâu thuẫn nhau, cụ thể:
- Theo quy định của pháp luật thì chủ phương giao thông đường bộ phải bồi thường thiệt hại do phương tiện giao thông gây ra, các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức và phương thức bồi thường. Các bên ở đây cần được hiểu là
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kỳ- Pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.doc