MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 1
I. Pháp luật về đương sự trong vụ án dân sự 1
1. Khái niệm đương sự trong vụ án dân sự 1
1.1. Nguyên đơn 1
1.2. Bị đơn 1
1.3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan 2
2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự và năng lực pháp luật tố tụng dân sự của đương sự 2
2.1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự 2
2.2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự 2
3. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự 3
II. Xác định tư cách đương sự trong vụ án dân sự 5
1. Xác định tư cách nguyên đơn 6
2. Xác định tư cách của bị đơn 7
3. Xác định tư cách của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan 8
III. Thực trạng quy định của pháp luật về đương sự và hướng hoàn thiện 8
1. Thực trạng quy định của pháp luật về đương sự 8
2. Hướng hoàn thiện pháp luật 9
KẾT LUẬN 10
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6327 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Pháp luật về đương sự trong vụ án dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Từ quy định này, có thể thấy các chủ thể có thể trở thành đương sự trong các vụ án dân sự khá phong phú, đa dạng. Đương sự trong vụ án dân sự bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1.1. Nguyên đơn
Nguyên đơn trong vụ án dân sự là những đương sự quan trọng của vụ án dân sự. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 56 BLTTDS thì “nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan tổ chức khác, do bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm hại.
Cơ quan tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc linh vực mình phụ trách cũng là đương sự”.
1.2. Bị đơn
Bị đơn là chủ thể không thể thiếu trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án dân sự. Bị đơn là chủ thể luôn đi kèm với nguyên đơn. Khi xác định được tư cách nguyên đơn thì cũng xác định được tư cách của bị đơn. Việc tham gia tố tụng của nguyên đơn mang tính chủ động, còn việc tham gia tố tụng của bị đơn mang tính bị động, do bị bắt buộc tham gia tố tụng.
Theo khoản 3 Điều 56 BLTTDS: “Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm”.
1.3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Đây cũng chính là đương sự của vụ án, vì quyền lợi, nghĩa vụ của họ bị tác động trực tiếp khi tiến hành việc giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hiểu một cách chung nhất là người tham gia tố tụng vào vụ án đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc tham gia vào quá trình tố tụng của họ có thể do họ chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự khác hoặc theo yêu cầu của tòa án. Như vậy, để có thể xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự, thì các chủ thể này phải có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án mà Tòa án đang giải quyết, đồng thời phải được Tòa án đưa họ vào tham gia tố tụng do thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của chính họ.
Là một loại chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự nên để tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự thì đương sự phải có năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự.
2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự và năng lực pháp luật tố tụng dân sự của đương sự
2.1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của đương sự là khả năng pháp luật quy định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác có các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân gắn liền với sự tồn tại của cá nhân đó. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức xuất hiện khi được thành lập và chấm dứt khi không còn tồn tại.
Đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là các chủ thể bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của tổ chức và năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân với tư cách là đương sự trong vụ án dân sự là như nhau, bình đẳng với nhau. Vì vậy, để giải quyết đúng đắn và khách quan pháp luật tố tụng dân sự quy định: “Mọi cá nhân, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” (khoản 1 Điều 57 BLTTDS).
2.2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự
Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng của đương sự, bằng chính hành vi của mình, xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Đối với cá nhân, năng lực hành vi của cá nhân được xác định dựa trên cơ sở khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của cá nhân đó và trên cơ sở tính chất, yêu cầu của việc tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Thông thường, cá nhân được xác định có năng lực pháp luật tố tụng dân sự đầy đủ khi cá nhân đó đủ 18 tuổi trở lên và không bị mất năng lực hành vi dân sự. (khoản 3 Điều 57 BLTTDS). Còn đối với người dưới 18 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này khi tham gia vào quan hệ tố tụng tại Tòa án thì người đại diện hợp pháp của họ sẽ thay mặt để thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố tụng.
3. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự để đảm bảo cho các đương sự có điều kiện thuận lợi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, đồng thời bảo đảm việc giải quyết vụ án dân sự nhanh chóng, kịp thời , đúng đắn, pháp luật tố tụng dân sự đã quy định khá cụ thể, chi tiết về quyền và nghĩa vụ chung của đương sự.
Về nguyên tắc, để đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ án dân sự thì các đương sự phải bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Mặt khác, Tòa án với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và có trách nhiệm tạo điều kiện để cho đương sự thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ chung của đương sự trong các lĩnh vực, giai đoạn tố tụng khác nhau tại Điều 58 BLTTDS. Điều 58 quy định 20 quyền và nghĩa vụ khác nhau của đương sự, có thể chia làm 3 nhóm:
* Các quyền thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự:
- Quyền đề nghị Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đương sự không những có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi Toà án đã thụ lý vụ án, mà trong trường hợp do tình thế khẩn cấp cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra đương sự có quyền yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện.
- Tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành. Đương sự có thể tự hòa giải hoặc Tòa án giúp đỡ đương sự thỏa thuận tự nguyện với nhau về việc giải quyết vụ án không trái pháp luật và đạo đức xã hội (Tòa án hòa giải).
- Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
- Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của BLTTDS. Việc đương sự thực hiện quyền kháng cáo là điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử phúc thẩm góp phần đảm bảo cho các đương sự có đièu kiện bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
* Các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong hoạt động cung cấp chứng cứ, chứng minh:
- Cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Vì bản thân đương sự trong quan hệ phát sinh tranh chấp hơn ai hết là người hiểu rõ nhất nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp, nội dung vụ án và là người đưa ra yêu cầu nên họ phải cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh làm rõ tình tiết vụ án.
- Yêu cầu cá nhân, cơ quan tổ chức đang lưu giữ quản lí chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án; đề nghị Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được.
- Được biết và ghi ché sao chụp tài liệu chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập để tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự có thể bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất.
* Ngoài ra, đương sự còn có các quyền và nghĩa vụ khác như:
- Nhận thong báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình;
- Yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định pháp luật;
- Tham gia phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa;
- Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa;
…
Có thể thấy, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã quy định tương đối đầy đủ, chi tiết các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong vụ án dân sự. Các quy định này đã khắc phục được những khuyết điểm của văn bản tố tụng dân sự trước đây, tạo cơ sở pháp lí bảo đảm cho các đương sự có thể thực hiện được đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình, đồng thời hạn chế việc các cơ quan tiến hành tố tụng , người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng xâm phạm việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự.
Ngoài các quyền và nghĩa vụ chung được BLTTDS quy định cho tất cả các đương sự, xuất phát từ đặc thù của từng loại đương sự mà BLTTDS còn quy định các quyền và nghĩa vụ riêng tương ứng với từng loại đương sự cụ thể.
+ Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn:
Nguyên đơn tham gia vào quá trình tố tụng mang tính chủ động, hoạt động của nguyên đơn có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc đình chỉ tố tụng. Do đó, ngoài những quyền và nghĩa vụ đã được nêu chung ở Điều 58 BLTTDS, nguyên đơn còn có các quyền và nghĩa vụ riêng được quy định tại Điều 59 BLTTDS trong đó có một số nội dung đáng chú ý:
- Quyền rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện, nhưng quyền này bị hạn chế ở chỗ nguyên đơn chỉ được thực hiện quyền này trước khi xét xử sơ thẩm hay tại phiên toà sơ thẩm. Còn trước khi xử phúc thẩm hoặc tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn tự nguyện rút đơn khởi kiện thì phải được sự đồng ý của bị đơn. Quy định này nhằm tránh tình trạng nguyên đơn bị thua kiện tại cấp sơ thẩm nên rút đơn khởi kiện để kéo dài việc tranh chấp đó. Vì nguyên đơn rút đơn khởi kiện vẫn có quyền khởi kiện lại nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
- Quyền thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện. Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chỉ được chấp nhận trước khi mở phiên toà sơ thẩm. Tại phiên toà sơ thẩm nguyên đơn chỉ được thay đổi, bổ sung yêu cầu không được vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu (Điều 218 khoản 1 BLTTDS)
- Nguyên đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và theo Điều 192 thì Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dù nguyên đơn có lý do hay không có lý do. Đây là điểm mới khác với các quy định trong các pháp lệnh tố tụng trước đây. Trước đây Toà án chỉ đình chỉ khi nguyên đơn vắng mặt không có lý do chính đáng.
+ Quyền và nghĩa vụ của bị đơn:
Khác với nguyên đơn, bị đơn tham gia vào quá trình tố tụng một cách bị động, việc tham gia của họ là theo yêu cầu của nguyên đơn hoặc người khởi kiện theo quy định của pháp luật. Vì vậy, để tạo điều kiện cho bị đơn có sự bình đẳng về quyền, nghĩa vụ với nguyên đơn, ngoài những quyền và nghĩa vụ chung của đương sự, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành quy định thêm bị đơn còn có những quyền và nghĩa vụ:
- Chấp nhận hay bác bỏ những yêu cầu của nguyên đơn;
- Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu;
- Được Toà án thông báo về việc bị khởi kiện;
- Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án giải quyết vắng mặt bị đơn;
Những quyền và nghĩa vụ trên đây của bị đơn là sự kế thừa những quy định trong các pháp lệnh tố tụng trước đó.
+ Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Ngoài các quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 58 BLTTDS; tùy thuộc vào từng vị trí tố tụng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là người có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn mà họ cũng có các quyền và nghĩa vụ riêng. Theo quy định tại Điều 61 BLTTDS, nếu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc chỉ có quyền lợi thì họ có các quyền và nghĩa vụ như của nguyên đơn theo quy định tại Điều 59 BLTTDS. Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên bị đơn hoặc chỉ có nghĩa vụ thì họ có các quyền, nghĩa vụ như bị đơn được quy định tại Điều 60 BLTTDS.
II. Xác định tư cách đương sự trong vụ án dân sự
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự thì việc xác định thì việc xác định thành phần đương sự, tư cách đương sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp các đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để đảm bảo quyền lợi của mình, đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ án dân sự. Việc xác định đúng tư cách đương sự sẽ tránh được việc vụ án phải xử đi, xử lại nhiều lần gây mất thời gian, tổn phí cho các đương sự và Toà án. Xác định đúng tư cách đương sự sẽ tránh được việc giải quyết không đúng về quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ pháp luật nội dung, đảm bảo mối liên hệ giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự.
1. Xác định tư cách nguyên đơn
+ Xác định tư cách nguyên đơn trong trường hợp chủ thể khởi kiện để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình
Theo quy định tại khoản 2 điều 56 BLTTDS thì “nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiên…để yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm”. Như vậy, nguyên đơn là chủ thể thỏa mãn hai điều kiện: Được giả thiết có quyền lợi bị xâm hại hay tranh chấp với bị đơn và đã tự mình khởi kiện.
Có thể thấy, quy định trên chưa đủ để xác định tư cách đương sự trong vụ án dân sự. Để xác định một cách đúng đắn tư cách nguyên đơn dân sự thì ngoài các quy định trên, cần căn cứ vào các quy định cụ thể của luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự, thương mại... và dựa trên cơ sở quan hệ pháp luật có tranh chấp, pháp luật nội dung điều chỉnh quan hệ đó.
Trong quan hệ nhân thân thì những chủ thể tham gia quan hệ mới có quyền và nghĩa vụ với nhau. Nên khi phát sinh tranh chấp, chủ thể có quyền chỉ có thể yêu cầu người có nghĩa vụ thi hành nghĩa vụ. Trong quan hệ nghĩa vụ (quan hệ đối nhân) thì quyền của chủ thể này là nghĩa vụ của chủ thể khác và ngược lại. Điểm khác biệt lớn nhất giữa quyền đối nhân và quyền đối vật đó là quyền và nghĩa vụ trong quan hệ đối nhân luôn tồn tại và gắn với cá nhân nhất định là chủ thể của quan hệ đó.
Ngoài ra khi xem xét vấn đề xác định tư cách nguyên đơn trong vụ án dân sự trong trường hợp người khởi kiện bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình không thể không nhắc tới quyền khởi kiện của người kế quyền và người thế quyền. Các chủ thể này không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật có tranh chấp nhưng pháp luật vẫn quy định cho họ có quyền khởi kiện bởi chủ thể này đã được chủ thể có quyền lợi trong quan hệ nguyên thủy chuyển giao quyền và nghĩa vụ. Vì vậy, khi thực hiện khởi kiện, họ có tư cách của chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm yêu cầu tòa án bảo vệ.
+ Xác định tư cách nguyên đơn trong trường hợp đương sự là cơ quan
Về tư cách tham gia tố tụng dân sự, khoản 2 điều 56 BLTTDS quy định “cơ quan, tổ chức do bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn”. Đương sự là cơ quan bao gồm các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân. Cơ quan tham gia tố tụng dân sự thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. + Xác định tư cách nguyên đơn trong trường hợp đương sự là tổ chức
Đương sự là tổ chức bao gồm: tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp,tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp. Tổ chức tham gia tố tụng dân sự thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Trường hợp tổ chức có nhiều bộ phận thì chỉ những bộ phận hoàn toàn độc lập về tài chính mới có tư cách đương sự.
2. Xác định tư cách của bị đơn
- Việc xác định tư cách bị đơn trong quan hệ pháp luật về sở hữu:
Trước hết, ta có thể thấy, bị đơn trong quan hệ pháp luật về sở hữu thường là bên vi phạm quyền sở hữu của chủ thể khác. Thông thường bị đơn sẽ là người đang chiếm giữ bất hợp pháp tài sản của người khác.
Theo pháp luật dân sự hiện hành thì, có sự phân biệt giữa tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu và tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sơ hữu. Đối với động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, chủ sở hữu chỉ có quyền kiện người chiếm hữu ngay tình để đòi lại tài sản trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu (kiện vật quyền).
- Việc xác định tư cách bị đơn trong quan hệ hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc các quan hệ khác về nghĩa vụ:
Trong các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, người bị thiệt hại phải khởi kiện người có trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự và trong trường hợp này, người bị khởi kiện là bị đơn. Đối với việc khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, việc xác định tư cách đương được hướng dẫn cụ thể trong Nghị quyết số 03/ 2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đối với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, theo quy định của Nghị quyết 03 thì bị đơn được xác định là người có trách nhiệm trong quan hệ bồi thường và tư cách bị đơn sẽ thuộc về người có trách nhiệm bồi thường.
Đối với việc thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới, thì chủ thể có quyền có thể yêu cầu bất cứ người nào trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện hoàn toàn nghĩa vụ (Điều 298 BLTTDS). Trong trường hợp này, bị đơn trong vụ kiện là một trong những người có nghĩa vụ liên đới bị nguyên đơn khởi kiện.
- Việc xác định tư cách bị đơn xét trong quan hệ bảo lãnh:
Trong quan hệ pháp luật này, việc xác định tư cách bị đơn phụ thuộc vào những điều kiện luât định. Chủ nợ có thể khởi kiện người có nghĩa vụ theo quan hệ hợp dồng hoặc hoặc theo quan hệ bảo lãnh để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật dân sự. Cụ thể là bị đơn sẽ là người bảo lãnh nếu nghĩa vụ đến hạn phải thực hiện nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Nếu không thuộc trường hợp này thì người bị kiện hay bị đơm phải là người có nghĩa vụ theo quan hệ hợp đồng chứ không phải là người bảo lãnh (Điều 361, Điều 366 BLDS).
3. Xác định tư cách của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Để xác định tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, trước hết ta căn cứ vào việc xác định tư cách các đương sự trước đó của Tòa án. Cũng giống như bị đơn, sự xuất hiện của người có quyền lợi phụ thuộc vòa việc thực hiện quyền khởi kiện của nguyên đơn và việc thụ lý vụ án dân sự của Tòa án. Nếu nguyên đơn không khởi kiện và tòa án không thụ lý vụ án dân sự thì không thể xuất hiện tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Giống như nguyên đơn, họ cũng có quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp phá khi cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm hại bởi chủ thể khác. Tuy nhiên trong vụ án dân sựu họ không tham gia với tư cách nguyên đơn dân sự vì họ tham gia tố tụng sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án theo yêu cầu khởi kiện trước đó của nguyên đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể tham gia tố tụng dân sự với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan độc lập hoặc không độc lập (đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn).
III. Thực trạng quy định của pháp luật về đương sự và hướng hoàn thiện
1. Thực trạng quy định của pháp luật về đương sự
BLTTDS ra đời đã đáp ứng được các yêu cầu thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội và các yêu cầu hội nhập, hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, các quy định về đương sự trong vụ án dân sự đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần phải có nghiên cứu, đánh giá kịp thời để có phương hướng hoàn thiện.
Thứ nhất, về khái niệm đương sự, thành phần đương sự
Đương sự là chủ thể không thể thiếu được trong vụ án dân sự, việc xác định đầy đủ thành phần đương sự, tư cách đương sự là một bảo đảm để tất cả các đương sự có điều kiện tham gia tố tụng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng, từ đó họ có thể bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự đang bị vi phạm hoặc tranh chấp.
Tuy nhiên, khoản 1 Điều 56 BLTTDS mới chỉ dừng lại ở việc quy định về thành phần đương sự mà không có quy định về khái nhiệm đương sự trong vụ án dân sự. Do không có quy định cụ thể về vấn đề này nên trong thực tiễn áp dụng đã xảy ra không ít các trường hợp Tòa án đã xác định sai đương sự tham gia vào quá trình giải quyết vụ án, làm quá trình giải quyết vụ án không đúng đắn.
Mặt khác, khoản 2,3,4 Điều 56 BLTTDS đã đề cập đến khái niệm về nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng không có quy định rõ các loại người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong khi đó theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 61 BLTTDS thì người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: “Có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn”.
Thứ hai, về năng lực hành vi tố tụng dân sự
Vấn đề này được quy định tại Điều 57 BLTTDS về cơ bản đã thể hiện được khá đầy đủ các nội dung chủ yếu của năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự.Tuy nhiên, các quy định tại Điều 57 BLTTDS đã gần như đồng nhất phạm trù năng lực hành vi tố tụng dân sự với phạm trù năng lực hành vi dân sự, lấy điều kiện tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, lao động làm điều kiện tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là chưa hợp lý, vì nội dung và yêu cầu tham gia vào mỗi quan hệ pháp luật dân sự là khác nhau. Trong pháp luật tố tụng dân sự chỉ nên quy định là có năng lực hành vi hoặc không có năng lực hành vi tố tụng dân sự mà thôi.
Thứ ba, việc xử lý trong trường hợp đương sự vắng mặt
Vấn đề này chưa được quy định đầy đủ đồng thời chưa đảm bảo thống nhất giữa các quy định trong Bộ luật. Đặc biệt chưa đảm bảo được sự bình đẳng giữa các đương sự trong vụ án. BLTTDS mới chỉ quy định biện pháp xử lý của Tòa án đối với trường hợp: đương sự trong vụ án dân sự đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ nhất mà vắng mặt có lý do chính đáng thì Tòa án phải hoãn để triệu tập lần thứ hai; đương sự được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án có thể đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự (nếu đương sự vắng mặt là nguyên đơn), xét xử vắng mặt (nếu đương sự vắng mặt là bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan)… Tuy nhiên, trong tất cả các quy định của BLTTDS lại không đề cập đến là Tòa án sẽ xử lý như thế nào nếu đương sự được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt không có lý do chính đáng.
Thứ tư, về việc xử lý hậu quả khi đương sự rút đơn kiện, rút yêu cầu
Nếu tại phiên tòa sơ thẩm mà đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ việc xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút (khoản 2 Điều 218 BLTTDS). Tuy nhiên, nếu trước phiên Tòa sơ thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện là tự nguyện và được Tòa án chấp nhận thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự (điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS). Vậy trong trường hợp này bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nhưng họ vẫn giữ nguyên yêu cầu, đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm nhưng yêu cầu của họ lại không được giải quyết do vụ án đã bị chấm dứt. Như vậy có thể thấy cùng một trường hợp nhưng việc giải quyết trước phiên tòa và tại phiên tòa sơ thẩm là chưa thống nhất. Do đó không đảm bảo bình đẳng quyền lợi cho các đương sự.
2. Hướng hoàn thiện pháp luật
* Về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
- BLTTDS cần quy định rõ như thế nào là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, như thế nào là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người tham gia vào vụ án đã xảy ra giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền lợi của mình, yêu cầu của họ độc lập với yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía bên nguyên đơn hoặc bên bị đơn là người tham gia vào vụ án để bảo vệ quyền lợi của mình, yêu cầu của họ phụ thuộc vào yêu cầu hay phản yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn.
* Về năng lực hành vi tố tụng dân sự
Nên gộp hai quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều 57 BLTTDS thành một khoản với nội dung: “Đương sự là người dưới 15 tuổi thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này thì tại Toà án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện” để dễ hiểu, ngắn gọn, đồng thời tránh sự hiểu nhầm đồng nhất năng lực hành vi tố tụng dân sự với năng lực hành vi dân sự.
* Về quyền, nghĩa vụ của đương sự
- BLTTDS cần quy định đương sự được toà án triệu tập vắng mặt có lý do chính đáng lần thứ bao nhiêu cũng phải hoãn để triệu tập lần thứ tiếp theo để bảo đảm quyền tham gia của đương sự. Tuy nhiên nếu đương sự được Toà án triệu tập hợp lệ vắng mặt không có lý do chính đáng thì cần áp dụng ngay các biện pháp xử lý đối với đương sự để việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời, đồng thời hạn chế việc đương sự cố tình gây khó khăn cho Toà án nhằm trì hoãn quá trình tố tụng.
- Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước phiên toà sơ thẩm thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu của nguyên đơn đã rút đơn, còn Toà án vẫn giải quyết các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đương sự và việc xác định tư cách của đương sự trong vụ án dân sự.doc