MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG CHÍNH 3
I. Những vấn đề lý luận về doanh nghiệp 3
1. Khái niệm doanh nghiệp 3
2. Phân loại doanh nghiệp 6
II. Tổng quan pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp 8
1. Những quy định chung của pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp 8
2. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 10
III. Đánh giá hệ thống pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp 12
1. Đánh giá chung về hệ thống pháp luật doanh nghiệp 12
2. Đánh giá đối với từng loại doanh nghiệp 13
IV.Định hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về
doanh nghiệp ở Việt Nam 16
1. Định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp 16
2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp 17
KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10057 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vị số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 81 và khoản 5 điều 84 của Luật doanh nghiệp 2005.
Công ty trách nhiệm hữu hạn, theo quy định tại khoản 1 điều 38 Luật Doanh nghiệp 2005, là doanh nghiệp trong đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên không vượt quá 50. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp. Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại các điều 43, 44, và 45 của Luật này. Đây là mô hình tổ chức kinh doanh phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay.
- Ba là, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Về bản chất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nươc ngoài là công ty, tuy nhiên quy chế pháp lý cho các doanh nghiệp này không giống như các công ty có vốn đầu tư trong nước. Nhiều ràng buộc pháp lý được đặt ra đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo pháp luật hiện hành, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm 2 loại doanh nghiệp:
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp cho hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam và Chính phủ nước ngoài; hoặc là doanh ngiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam; hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.
- Bốn là, doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước có lịch sử tồn tại khá lâu đời và hiện đang giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế theo quan điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo điều 1 của Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003, doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
II/ Tổng quan pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp:
1/ Những quy định chung của pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp:
Theo nghĩa rộng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Còn theo nghĩa hẹp, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp là các quan hệ pháp luật về tổ chức doanh nghiệp, đó là các quan hệ phát sinh trong các giai đoạn: gia nhập thị trường, quản trị doanh nghiệp, rút khỏi thị trường.
Những quy định về doanh nghiệp được nêu trong hệ thống văn bản pháp luật về doanh nghiệp. Nội dung của pháp luật về doanh nghiệp chủ yếu là những quy phạm ghi nhận và đảm bảo quyền, đồng thời xác định trách nhiệm của nàh đầu tư trong việc tổ chức, vận hành doanh nghiệp. Các nhóm quy phạm của pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp bao gồm:
- Một là, các quy định về bản chất pháp lý của loại hình doanh nghiệp. Các quy định này đưa ra những dấu hiệu pháp lý để xác định loại hình doanh nghiệp. Mỗi loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm pháp lý nhất định và cần được xác định trong luật pháp. Các nhà đầu tư có quyền lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu và điều kiện của mình, song trong quá trình tổ chức vận hành doanh nghiệp, phải tuân thủ những quy định vể bản chất của loại hình doanh nghiệp đã lựa chọn.
- Hai là, các quy định về thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh. Thành lập doanh nghiệp có ỹ nghĩa xác lập tư cách pháp lý cho doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, với yêu cầu của nguyên tắc tự do kinh doanh, thành lập doanh nghiệp được coi là quyền cơ bản của nhà đầu tư. Tuy nhiên, sự hiện diện của doanh nghiệp trên thương trường luôn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến những lợi ích của các chủ thể có liên quan, vì vậy việc thành lập doanh nghiệp phải được thực hiện trên khuôn khổ pháp luật. Chế định thành lập doanh nghiệp thường bao gồm những nội dung cơ bản là: đối tượng có quyền thành lập doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, thủ tục đăng ký kinh doanh.
- Ba là, các quy định về tổ chức quản lý doanh nghiệp. Với yêu cầu của nguyên tắc tự do kinh doanh, việc tổ chức quản lý (nội bộ) doanh nghiệp trước hết và chủ yếu thuộc quyền quyết định của chủ sở hữu các doanh nghiệp. Pháp luật chỉ quy định ràng buộc những vấn đề cơ bản, mang tính nguyên tắc, xác lập khung pháp lý cho việc tổ chức quản lý doanh nghiệp. Nội dung của chế định tổ chức quản lý doanh nghiệp bao gồm các vấn đề là: cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý, thẩm quyền và thể thức hoạt động của bộ máy quản lý doanh nghiệp, nghĩa vụ của người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát giao dịch tư lợi.
- Bốn là, các quy định về cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Vốn là cơ sở vật chất không thể thiếu cho sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được quan niệm là vốn kinh doanh, là giá trị của toàn bộ tài sản được đầu tư vào hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời. Việc xác định cấu trúc vốn của doanh nghiệp phải tuân thủ những ràng buộc của pháp luật ở các mức độ khác nhau, tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Nội dung của các quy định về cấu trúc vốn của doanh nghiệp bao gồm hai nội dung cơ bản là: cơ sở hình thành, mối quan hệ (tỷ lệ) giữa vốn chủ sở hữu và vốn tín dụng; và cơ chế điều chỉnh, huy động vốn của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.
- Năm là, các quy định về tổ chức lại doanh nghiệp. Tổ chức lại doanh nghiệp là một nhu cầu chính đáng của các nhà đầu tư, nó có thể xuất hiện trong quá trình tự nhiên của doanh nghiệp. Nội dung của việc tổ chức lại doanh nghiệp chính là sự biến đổi của doanh nghiệp cho phù hợp với môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể, nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn. Các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp về cơ bản bao gồm: chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp và chuyển đổi hình thức pháp lý của doanh nghiệp. Biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp cho từng loại hình doanh nghiệp khác nhau thì khác nhau.
- Sáu là, các quy định về giải thể doanh nghiệp. Giải thể doanh nghiệp là một trong những thủ tục pháp lý dẫn đến chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp. Các quy định pháp luật về giải thể doanh nghiệp bao gồm hai nội dung cơ bản là: các trường hợp giải thể và thủ tục giải thể. Về nguyên tắc, việc quyết định giải thể doanh nghiệp thuộc quyền của chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp không còn thỏa mãn các điều kiện tồn tại theo quy định của pháp luật hoặc kinh doanh vi phạm pháp luật thì doanh nghiệp sẽ bị bắt buộc phải giải thể.
Như vậy, phụ thuộc vào các loại hình doanh nghiệp, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp được cấu trúc với những chế định phù hợp với các đặc điểm pháp lý của từng loại doanh nghiệp.
2/ Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường:
Trong cơ chế thị trường, sự tồn tại của pháp luật là một nhu cầu bắt nguồn từ chính đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi pháp luật phải đảm bảo các quy luật, nguyên tắc của thị trường. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, pháp luật về doanh nghiệp cùng với các chế định khác của pháp luật kinh tế, là công cụ không thể thiếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với các nhà đầu tư, pháp luật về doanh nghiệp không chỉ có vai trò đảm bảo quyền tự do và sự bình đẳng mà còn có vai trò đảm bảo sự an toàn trong đầu tư vốn của họ. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp thể hiện ở những mặt sau:
- Một là, pháp luật về doanh nghiệp phải đảm bảo quyền tự do của công dân trong tổ chức hoạt động kinh doanh. Với một xã hội có nhà nước, tự do kinh doanh chỉ có ý nghĩa hiện thực khi được ghi nhận bởi pháp luật. Vì vây, quyền tự do kinh doanh không thể được thực hiện hiệu quả trên thực tế nếu thiếu pháp luật.
Vai trò ghi nhận và đảm bảo quyền tự do kinh doanh của pháp luật về doanh nghiệp thể hiện ở những nội dung cơ bản là:
Pháp luật về doanh nghiệp quy định những ngành nghề, lĩnh vực cấm kinh doanh hoặc hạn chế kinh doanh.
Pháp luật về doanh nghiệp quy định thủ tục đăng ký kinh doanh cho các nhà đầu tư.
Pháp luật về doanh nghiệp quy định các hình thức doanh nghiệp để các nhà đầu tư lựa chọn.
Pháp luật về doanh nghiệp quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của nhà đầu tư trong tổ chức hoạt động của doanh nghiệp như: tổ chức bộ máy quản lý nội bộ của doanh nghiệp; mở rộng, thu hẹp quy mô kinh doanh; huy động vốn; chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp...
- Hai là, pháp luật về doanh nghiệp đảm bảo quyền sở hữu vốn và tài sản trong kinh doanh của các nhà đầu tư. Vốn và tài sản là tiền đề vật chất không thể thiếu để thực hiện hoạt động kinh doanh. Vì vậy, quyền sở hữu vốn và tài sản cần phải được ghi nhận bằng pháp luật. Pháp luật về doanh nghiệp góp phần khẳng định địa vị chủ sở hữu tài sản của các tổ chức, cá nhân khi họ dùng vốn và tài sản để đầu tư kinh doanh. Với quy định về quyền và nghĩa vụ của người góp vốn vào doanh nghiệp, pháp luật về doanh nghiệp thể hiện vai trò tiếp tục phát triển các quy định về sở hữu đối với tài sản trong kinh doanh. Tính đặc thù của các quy định về sở hữu trong pháp luật về doanh nghiệp thể hiện ở chỗ pháp luật về doanh nghiệp bảo vệ quyền sở hữu tài sản trong trạng thái vận động, đồng thời hạn chế những tiêu cực phát sinh do chế độ đa sở hữu trong kinh doanh của cơ chế thị trường gây ra.
- Ba là, pháp luật về doanh nghiệp là công cụ đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh vận hành theo các quy luật của thị trường. Đối với pháp luật về doanh nghiệp, việc xác định tư cách chủ thể, xác định địa vị pháp lý của chủ thể kinh doanh, đảm bảo quyền tự do kinh doanh và quyền bình đẳng của họ có tầm quan trọng đặc biệt. Đó là cơ sở, sự đảm bảo pháp lý để các chủ thể kinh doanh tiến hành các hoạt động của mình trên thương trường.
- Bốn là, pháp luật về doanh nghiệp góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như phân hóa giàu nghèo, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường... Để đạt được mục tiêu đặt ra, Nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ khác nhau để điều tiết và định hướng nền kinh tế thị trường, trong đó pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu nhất. Với tư cách là một bộ phận cấu thành của pháp luật kinh doanh, pháp luật về doanh nghiệp góp phần giải quyết các vấn đề xã hội; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp và lợi ích của các chủ thể có quan hệ với doanh nghiệp (chủ nọ, người lao động...) trong tổ chức hoạt động kinh doanh.
Như vậy có thể thấy rằng vai trò của pháp luật doanh nghiệp là rất to lớn, nó có ý nghĩa làm hoàn thiện hơn nữa các loại hình doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy nền kinh tế thị trường ngày một phát triển.
III/ Đánh giá hệ thống pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp:
Nhìn chung, hệ thống pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp đã được xây dựng một cách khá đầy đủ, bao trùm được hầu hết các hoạt động kinh tế, thương mại trong thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, hệ thống này vẫn còn có một số điểm bất cập, sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những thành tựu và hạn chế của hệ thống pháp luật về doanh nghiệp trên các khía canh sau:
1/ Đánh giá chung về hệ thống pháp luật doanh nghiệp:
Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp được quy định dựa trên quan điểm của Nhà nước về đảm bảo quyền tự do bình đẳng trong kinh doanh.
Tuy nhiên hiện nay pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam chưa có thống nhất và còn nhiều bất cập. Đôi khi các quy phạm pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo lẫn nhau. Số lượng văn bản quá nhiều dẫn đến khó khăn cho việc áp dụng trong thực tế.
Thực tiễn cho thấy, việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp chưa đủ để giải quyết được rào cản đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Biểu hiện của vấn đề này trên thực tế là hiệu lực của Luật doanh nghiệp có phần bị hạn chế bởi sự không đồng bộ, thiếu thống nhất... Chính vì vậy những vướng mắc, rào cản đối với doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh vẫn còn nhiều.
Ngoài ra, luật doanh nghiệp hay rộng hơn là toàn bộ hệ thống pháp luật về doanh nghiệp chưa bao quát được hết các loại hình doanh nghiệp có thể và đang thực tế tồn tại. Việc đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều phức tạp gây tốn kém cho các chủ đầu tư khi gia nhập thị trường. Bên cạnh đó, các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, chưa đảm bảo dược sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, chưa có những biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp mà thực tiễn kinh doanh thời gian qua cho thấy là cần thiết...
2/ Đánh giá đối với từng loại hình doanh nghiệp:
2.1/ Doanh nghiệp nhà nước:
So với các nước trên thế giới, ở Việt Nam ,doanh nghiệp nhà nước được pháp luật điều chỉnh khá cụ thể. Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 đã có những đổi mới đáng kể so với các quy định trước đó về doanh nghiệp nhà nước, trong đó cơ bản nhất phải kể đến là các tiếp cận khái niệm doanh nghiệp nhà nước dựa trên tiêu chí quyền chi phối hay kiểm soát doanh nghiệp của nhà nước. Hình thức pháp lý của doanh nghiệp nhà nước được quy định rất đa dạng. Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 có ý nghĩa quan trọng, phù hợp với quan điểm: trong nên kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhà nước vẫn cần duy trì những doanh nghiệp nhà nước thuần túy, tức là những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn.
Tuy nhiên, pháp luật về doanh nghiệp nhà nước lại thể hiện sự phức tạp trong nội dung, thể hiện ở đối tượng điều chỉnh và phạm vi áp dụng của Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003. Những quy định về các loại hình doanh nghiệp trong luật này chủ yếu mang tính chất bổ sung cho những quy định về công ty trong Luật doanh nghiệp 2005. Những đổi mới của Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 về cơ bản chỉ dưng lại ở mức độ sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật doanh nghiệp 2005. Nhìn chung, Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 như là một giải pháp tình thế nhằm tiếp tục tổ chức, sắp xếp lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
2.2/ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Pháp luật hiện hành về đầu tư ở Việt Nam đang thể hiện sự phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Việc tổ chức vận hành doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài (cá nhân, tổ chức nước ngoài) khi đầu tư vào Việt nam được áp dụng quy chế pháp lý riêng, với nhiều quy định khác với quy chế pháp lý áp dụng cho các nhà đầu tư trong nước. Đây cũng là điểm bất cập của hệ thống pháp luật hiện hành về đầu tư tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam là một trong số ít nước ban hành Luật đầu tư nước ngoài và duy trì hai hệ thống pháp luật khác biệt áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài về thủ tục và điều kiện đầu tư.
2.3/ Doanh nghiệp tư nhân:
Doanh nghiệp tư nhân là hình thức tổ chức kinh doanh khá được ưa chuộng tại Việt Nam hiện nay. Các quy định về doanh nghiệp tư nhân trong Luật Doanh nghiệp 2005 nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu về tổ chức và hoạt động của loại hình doanh nghiệp này trong thời gian quá.
Tuy vậy pháp luật về doanh nghiệp tư nhân vẫn còn nhiều điểm bất cập là:
- Một là, việc sử dụng thuật ngữ “doanh nghiệp tư nhân” theo quy định của Luật doanh nghiệp vẫn chưa rõ ràng, nhất quán. Nhiều vấn đề có thể nảy sinh trong thực tiễn xuất phát từ sự quy định chưa rõ ràng và thiếu nhất quán này như: vấn đề xác định tư cách chủ thể hợp đồng, vấn đề xác định nghịa vụ tài sản đối với các khoản nợ dân sự của chủ doanh nghiệp tư nhân và các khoản nợ trong kinh doanh phát sinh từ hoạt động của doanh nghiệp.
- Hai là, luật doanh nghiệp chưa quy định rõ ràng, hợp lý về vấn đề bán doanh nghiệp tư nhân. Đối tượng của quan hệ mua bán là doanh nghiệp tư nhân, bao gồm cả tài sản và tư cách pháp lý của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo quy định của Luật doanh nghiệp thì việc mua bán doanh nghiệp tư nhân thực chất chỉ là mua bán tài sản của doanh nghiệp còn để thực hiện hoạt động kinh doanh, người mua doanh nghiệp phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh lại, giống như thành lập một doanh nghiệp mới. Người bán và người mua sẽ gặp phải những rườm rà, phức tạp về mặt pháp lý, mà có thể còn không đạt được mục đích của mình khi tham gia quan hệ mua bán doanh nghiệp.
- Ba là, luật doanh nghiệp 2005 chưa có quy định về vấn đề để lại thừa kế, tăng, cho doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy việc tặng cho hay để lại thừa kế doanh nghiệp tư nhân cũng sẽ được thực hiện theo quy định của bộ luật Dân sự. Cách làm này sẽ gây khó khăn, cản trở về mặt pháp lý đối với những người được tặng, cho, thừa kế doanh nghiệp nếu họ muốn tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân đó.
2.4/ Công ty hợp danh:
Việc ghi nhận hình thức công ty hợp danh là một điểm mới của Luật doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, Luật quy định về loại hình công ty này còn khá sơ sài, cụ thể:
- Một là, công ty hợp danh không được thừa nhận là một pháp nhân đã gây ra hàng loạt vấn đề pháp lý nảy sinh chưa có phương án giải quyết rõ ràng như: công ty hợp danh có thể nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật hay không? Công ty hợp danh có thể là nguyên đơn hay bị đơn trong các quan hệ pháp luật tố tụng hay không?..
- Hai là, công ty hợp danh và công ty hợp danh hữu hạn đều được xếp vào loại hình công ty đối nhân song có nhiều đặc điểm khác nhau về tổ chức quản lý. Điều này gây ra những khó khăn trong giải thích và áp dụng pháp luật. Về mặt pháp lý, công ty hợp danh và công ty hợp danh hữu hạn có những đặc điểm chung nhưng đây là hai loại hình doanh nghiệp khác nhau do vậy không thể đề cập đến khái niệm công ty hợp danh bao gồm hai loại công ty này được.
- Ba là, pháp luật về công ty hợp danh chưa xác định về phương thức phân chia lợi nhuận và rủi ro trong kinh doanh giữa các thành viên hợp danh. Thiếu sót này là nguy cơ tiềm ẩn làm phát sinh những tranh chấp trong nội bộ công ty, mà về pháp lý sẽ không dễ dàng giải quyết.
Ngoài ra những bất cập về công ty hợp danh còn được thể hiện trong nhiều quy định khác của Luật doanh nghiệp như quy định về cách thức quản lý và điều hành hoạt động của công ty chưa rõ ràng; chưa phân định rõ các quan hệ pháp lý giữa các thành viên với công ty, giữa các thành viên với nhau và giữa các thành viên với người có giao dịch với công ty...
2.5/ Công ty trách nhiệm hữu hạn:
* Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên:
Việc ghi nhận công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tiến bộ của Luật doanh nghiệp, có ý nghĩa đa dạng hóa loại hình doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp... tham gia vao hoạt động kinh doanh. Quy định này cũng giúp các doanh nghiệp dễ dàng mở rộng quy mô, địa bàn và ngành nghề kinh doanh.
Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập tồn tại như: không xác định rõ việc áp dụng mô hình ngành, nghề kinh doanh là tùy nghi lựa chọn hay là bắt buộc đối với các chủ sỏ hữu.
* Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên:
Luật doanh nghiệp Việt Nam đã quy định một cách cụ thể về loại hình công ty này đặc biệt là về vấn đề quản trị, bước đầu đã đảm bảo được hiệu quả kinh doanh của công ty mà vẫn thể hiện được đặc điểm của công ty này.
Tuy nhiên, pháp luật về công ty này vẫn còn một số hạn chế là: chưa bảo vệ được tối đa lợi ích của các thành viên, đặc biệt là các thành viên thiểu số trong công ty; các quy định về quản trị nội bộ của công ty còn chưa rõ ràng, đầy đủ, tư cách thành viên của công ty còn chưa được phân định rõ...
2.6/ Công ty cổ phần:
Về cơ bản, công ty cổ phần được quy định trong Luật doanh nghiệp 2005 phù hợp với quan điểm phổ biến về loại hình công ty này trong pháp luật các nước trên thế giới. So với trước đây, Luật doanh nghiệp 2005 đã quy định đầy đủ hơn các vấn đề pháp lý về tổ chức và hoạt động của loại hình công ty này, thẻ hiện trong các quy định về: bản chất pháp lý của công ty cổ phần, quy chế cổ đông, vốn và chế độ tài chính... Nhìn chung, Luật này đã tạo được cơ sở pháp lý cho các nhà đầu tư có thể tổ chức vận hành công ty cổ phần một cách thuân lợi, từ đó thúc đẩy sự phát triển mạnh của các công ty cổ phần trong thời gian qua.
Tuy nhiên, pháp luật về công ty cổ phần vẫn còn những hạn chế cần được khắc phục là: chưa quy định số lượng cổ đông tối thiểu, bất cập trong quy định về cổ phần ưu đãi biểu quyết gây bất bình đẳng, làm biến dạng các nguyên tắc pháp lý cơ bản trong quản trị công ty cổ phần... Ngoài ra, Luật doanh nghiệp còn chưa xác định rõ một chế độ cung cấp thông tin đầy đủ, định kỳ và thường xuyên cho các cổ đông. Thiếu những quy định cụ thể về phương thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu...
IV/ Định hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiêp ở Việt Nam:
1/ Định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp:
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp một mặt nhằm khắc phụ kịp thời những bất cập của hệ thống pháp luật về doanh nghiệp đang gây khó khăn cho việc tổ chức vận hành doanh nghiệp, mặt khác phải hướng tới việc tạo dựng hành lang pháp lý đầy đủ và phù hợp, đáp ứng nhu cầu phát triển ổn định lâu dài của các loại hình doanh nghiệp. Với cách tiếp cận như vậy, từ những cơ sở lý luật và thực tiễn ở Việt Nam, việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cần thực hiện theo những tư tưởng và định hướng chỉ đạo sau:
Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp phải căn cứ vào những đặc điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Pháp luật về doanh nghiệp phải phù hợp với đặc điểm văn hóa kinh doanh của người Việt.
Pháp luật về doanh nghiệp phải bảo đảm tiết kiệm chi phí tổ chức vận hành doanh nghiệp ở mức tối ưu.
Pháp luật về doanh nghiệp phải đảm bảo tính thống nhất và minh bạch.
Pháp luật về doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cần được đặt trong giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế.
2/ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp:
2.1/ Giải pháp hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật về doanh nghiệp:
Các loại hình doanh nghiệp được pháp luật quy định là biểu hiện cụ thể quan điểm của Nhà nước về bảo đảm quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, loại hình doanh nghiệp đòi hỏi phải được pháp luật ghi nhận một cách đa dạng trên quan điểm không phân biệt tính chất sở hữu và thành phần kinh tế. Việc phân loại doanh nghiệp cần dựa trên tiêu chí pháp lý chủ yếu là phương thức góp vốn và tính chất liên kết trong doanh nghiệp. Với tiêu chí xác định này, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay cần được hoàn thiện với cấu trúc bao gồm các bộ phận cấu thành cơ bản là:
Pháp luật về doanh nghiệp cá nhân.
Pháp luật về công ty hợp danh.
Pháp luật về công ty hợp danh hữu hạn.
Pháp luật về công ty cổ phần.
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn.
Với cấu trúc hệ thống pháp luật về doanh nghiệp như vậy, việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp có nội dung cơ bản là hoàn thiện các quy định về doanh nghiệp cá nhân và các loại hình công ty.
Về phương diện kỹ thuật lập pháp, vấn đề hình thức và cấu trúc văn bản pháp luật về doanh nghiệp cần được xác định một cách hợp lý. Pháp luật về doanh nghiệp cần phải đảm bảo tính thống nhất là quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, tính thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp cần được tiếp cận và nhấn mạnh về khía cạnh nội dung, thay vì hình thức và số lượng văn bản.
Về mặt khoa học, cần khẳng định rằng thống nhất pháp luật về doanh nghiệp là sự sắp xếp các quy định pháp luật về doanh nghiệp thành một chỉnh thể, với những bộ phận cấu thành tương thích, không mâu thuẫn nhau, không chồng chéo lẫn nhau.
2.2/ Giải pháp đối với doanh nghiệp nhà nước:
Như đã phân tích ở trên, khái niệm doanh nghiệp nhà nước và cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với doanh nghiệp nhà nước có những nét khá đặc thù so với xu hướng phổ biến trên thế giới. Trong điều kiện hiện nay, việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang là một nhiệm vụ quan trọng cần phải giải quyết. Để thực hiện được mục tiêu này, một số giải pháp đã được đặt ra:
- Một là, xác định rõ ràng và nhất quán về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mà đại diện là các doanh nghiệp nhà nước. Cần quan niệm rằng, vai trò chủ đạo, sự chi phối của kinh tế nhà nước không chấp nhận sự lạm dụng mệnh hlệnh hành chính. Hiệu quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước phải đủ sức cạnh tranh và canh tranh thắng với cuộc đối đầu với các thành phần kinh tế khác trên cơ sở một môi trường pháp lý bình đẳng.
- Hai là, đổi mới cơ chế điều chỉnh pháp luật về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bỏ sự phân biệt trong cơ chế điều chỉnh pháp luật về tổ chức và hoạt động giữa doanh nghiệp nhà nước và các loại hình công ty có cùng bản chất. Cổ phần hóa cần được đẩy nhanh hơn nhịp độ chậm của những kế hoạch hiện nay. Cần loại bớt các doanh ngiệp nhà nước yếu kém và không bền vững về tài chính và để các doanh nghiệp nhà nước có thể thể cổ phần hóa m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp.doc