MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐÔ LA HÓA 2
1. Khái niệm đô la hóa 2
2. Nguyên nhân của tình trạng Đôla hóa 3
3. Tác động của “Đôla hóa” tới vấn đề tài chính quốc tế và nền kinh tế vĩ mô 4
3.1. Tác động tích cực 5
3.2. Tác động tiêu cực 5
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA TẠI VIỆT NAM 8
1. Thực trạng đô la hóa tại Việt Nam 8
1.1 Giai đoạn từ sau đổi mới tới trước khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (1988 – 1997) 8
1.2 Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2001. 10
1.3 Giai đoạn từ năm 2002 tới nay. 10
2. Nguyên nhân Đô la hóa tại Việt Nam 11
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG ĐÔ LA HÓA TẠI VIỆT NAM 15
1. Tạo niềm tin vào đồng nội tệ 15
2. Phát triển môi trường kinh tế vĩ mô 16
3. Các giải pháp khác 17
KẾT LUẬN 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO 19
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1695 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phát biểu quan điểm cá nhân về thực trạng đô la hoá tại Việt Nam, giải pháp và khắc phục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oán, trao đổi, cất giữ.
Trong điều kiện toàn cầu hóa như hiện nay, hầu hết các nước đang theo đuổi cơ chế thị trường và thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa, giao lưu thương mại ngày càng phát triển, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động mạnh vào sự tăng trưởng của nền kinh tế thì việc dự trữ ngoại tệ mạnh cho các hoạt động kinh doanh cũng là một nhu cầu khách quan để tránh lệ thuộc vào nguồn cung ngoại tệ từ nước ngoài.
Thứ ba: một quốc gia có trình độ phát triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ đô la hóa càng cao. Đồng nội tệ không phải là một đồng tiền chuyển đổi trên thị trường do giá trị của nó thấp cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng “Đôla hóa” ở những nước phát hành đồng nội tệ này.
3. Tác động của “Đôla hóa” tới vấn đề tài chính quốc tế và nền kinh tế vĩ mô
Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm trong nó hai mặt đối lập là: tích cực và tiêu cực. Điều quan trọng là phải phân tích để biết được những điểm tích cực và tiêu cực để có những chính sách thích hợp tạo điều kiện thuận lợi cho những yếu tố tích cực phát triển và hạn chế tới mức tối thiểu các tác động tiêu cực. Đối với vấn đề “Đôla hóa” mặc dù cũng có những tác động tích cực đối với nền kinh tế nhưng cái giá phải trả khi không kiểm soát tốt vấn đề này cũng là rất lớn. Vì thế cần phải biết rất rõ cái được và mất trong vấn đề này.
3.1. Tác động tích cực
- Ngoại tệ mạnh có thể làm giảm áp lực lên nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, nền kinh tế bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. “Đô la” có thể là công cụ làm thay đổi mức cung tiền tệ trên thị trường và làm lạm phát giảm đi, cụ thể khi mức cung tiền tệ cao Ngân Hàng Trung Ương (Center Bank) có thể bán ra ngoại tệ và mua vào nội tệ làm cho mức cung tiền tệ giảm xuống.
Ở những nước bị “Đô la hóa” chính thức, đồng Đô la là đồng tiền duy nhất được sử dụng trong các giao dịch của nền kinh tế, tuy nhiên chính phủ nước này không thể in Đôla để làm tăng lượng tiền cung ứng trong nước mà lượng Đôla này phụ thuộc hoàn toàn vào nước ngoài và tình trạng dự trữ, cũng như tài chính quốc tế của quốc gia đó. Vì thế, mức lạm phát có thể được duy trì ở mức thấp đồng thời không có rủi ro tỉ giá giữa đồng nội tệ với đồng ngoại tệ, tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Do sử dụng một nguồn vốn hữu hạn nên sẽ tăng được hiệu quả sử dụng vốn và thúc đẩy tài chính quốc tế ở quốc gia đó phát triển nhằm thu được một khoản lợi nhuận bằng “Đôla” bổ sung cho quỹ tiền tệ trong nước.
- Đôla hóa cũng được cho là có tác dụng thúc đẩy phát triển ngành Ngân hàng và nâng cao vai trò của nó trong nền kinh tế, phản ánh dưới góc độ tỷ trọng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng trong GDP hay là “độ sâu tài chính”. Thay vì chuyển tài sản của mình bằng ngoại tệ ra nước ngoài trong bối cảnh rủi ro lạm phát cao, thì nay có thể gửi vào các ngân hàng trong nước và hưởng lãi tính theo ngoại tệ mà không bận tâm tới lạm phát của đồng nội tệ. Các ngân hàng thương mại trong nước có thể dùng đồng “Đô la” đó cho các doanh nghiệp vay để thực hiện các giao dịch xuất nhập khẩu với nước ngoài hoặc thực hiện đầu tư vốn sang một nước nào đó. Nó cung cấp vốn bằng ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại kinh doanh. Điều này cũng làm hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài.
- Người ta tính rằng nếu một người Pháp đi du lịch từ Paris sang các nước Châu Âu khác nếu người đó có 100 đồng Francs và trong suốt chuyến đi họ không mua gì thì khi về Paris họ chỉ còn lại 50 đồng. Như vậy anh ta đã phải chi trả mất 50 đồng cho việc đổi tiền. Khi đồng ngoại tệ mạnh được chấp nhận trong thanh toán giao dịch tại một quốc gia thì chi phí giao dịch đổi tiền sẽ được xóa bỏ nhất là với những nước “đô la hóa” hoàn toàn, chi phí dự phòng rủi ro tỉ giá, các bảo hiểm rủi ro tỉ giá cũng không còn cần thiết. Tuy nhiên các ngân hàng và tổ chức tài chính lại mất đi một khoản doanh thu từ việc kinh doanh mua bán, hoán đổi ngoại tệ.
3.2. Tác động tiêu cực
Khi bị đô la hóa nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào đồng “đô la” đặc biệt là hệ thống tài chính. Khi sảy ra khủng hoảng tiền tệ có thể gây ra ảnh hưởng nặng nề tới hệ thống tài chính của nước bị đô la hóa, khi đó chính sách tiền tệ của nhà nước không được vận dụng một cách linh hoạt mà đây lại là một công cụ chính trong việc chống lại sự tác động của các cuộc khủng hoảng tài chính và làm giảm sự tăng trưởng. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương không phát huy hiệu quả, bị mất tính độc lập. Nó có thể gây ra khó khăn trên một số phương diện như:
- Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời. Ở trong các nước đô la hóa không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn trong hệ thống ngân hàng.
- Trong trường hợp ngân hàng thương mại sử dụng vốn vay bằng đồng ngoại tệ để cho vay dài hạn, do sự ràng buộc của đồng ngoại tệ vào nước ngoài là rất lớn, nếu có biến động nào trên thị trường vốn trong khi những biến động này ngân hàng không kiểm soát được làm cho người dân đi rút tiền ồ ạt tại các ngân hàng thương mại gây ra mất khả năng thanh toán đối với ngân hàng trong khi ngân hàng nhà nước lại khó khăn trong hỗ trợ vì đồng “đô la” bị hạn chế do không thể phát hành.
- Tình trạng chảy máu vàng có thể diễn ra. Các ngân hàng sẽ dùng ngoại tệ huy động được trong nước đem đi gửi ở thị trường nước ngoài để thu lợi nhuận do lãi suất trên thị trường nước ngoài cao mà không dùng những đồng “đô la” đó đầu tư trong nước trong khi chính phủ phải đi huy động đô la với giá cao hơn để thực hiện đầu tư vào các chương trình phát triển quốc gia. Mặt khác tại các nước đô la hóa hoàn toàn, nếu lãi suất đô la trong nước thấp hơn lãi suất huy động trên thị trường nước ngoài thì dân cư có thể gửi trên thị trường quốc tế và đồng “đô la” đó không được đầu tư trong nước.
- Đồng nội tệ nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, làm cho việc điều chỉnh lãi suất trở nên kém hiệu quả, tác động tới việc hoạch định và thực thi chính sách tỉ giá. Đô la hóa làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đồng ngoại tệ do đó làm cho tỉ giá tăng.
- Khi các quốc gia thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hóa sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái, làm cho giá hàng hóa sản xuất trong nước đắt hơn hàng nhập khẩu, do đó sẽ thúc đẩy nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu làm cho thâm hụt cán cân thương mại. Ngân hàng không có sức đề kháng trước những biến động về tỷ giá có thể dẫn đến khủng hoảng hệ thống ngân hàng.
- Đôla hóa chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đôla hóa hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hóa hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất.
Ngân hàng có rủi ro cao về thanh khoản và khả năng chi trả. Rủi ro về khả năng chi trả phát sinh bởi sự khác biệt về đồng tiền huy động và cho vay. Các ngân hàng với một lượng vốn lớn bằng ngoại tệ có được từ huy động tiền gửi ngoại tệ của công chúng trong nước buộc phải tìm cách cho vay một phần trong số này cho các đối tượng trong nước, và như vậy là đã chuyển giao rủi ro tiền tệ sang khách hàng không có biện pháp phòng hộ rủi ro, đồng thời vẫn còn giữ lại rủi ro về tín dụng cho mình. Khi bản tệ bị phá giá, các con nợ của ngân hàng dễ bị mất khả năng thanh toán vì các khoản thu của họ phần lớn bằng bản tệ, trong khi họ đi vay ngân hàng bằng ngoại tệ, những khoản vay này nay đã “phình to” ra nếu tính theo bản tệ bị mất giá. Đối với người gửi ngoại tệ vào ngân hàng, nếu họ lo ngại rằng ngân hàng mà họ gửi tiền đang có vấn đề với những khoản cho vay mất khả năng thu hồi của nó, họ sẽ thi nhau rút tiền của mình ra khỏi ngân hàng. Để đáp ứng được sự rút ồ ạt đó, ngân hàng buộc phải có một nguồn tài sản ngoại tệ có tính thanh khoản cao đủ lớn hoặc đi vay của ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Nhưng những nguồn trên đều có hạn, nhất là vào thời điểm mà các ngân hàng khác cũng bị rơi vào tình trạng này. Kết cục là sự sụp đổ của cả một hệ thống ngân hàng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng đô la hóa tại Việt Nam
Trước khi tiến hành đổi mới, mở cửa nền kinh tế Việt Nam có nền kinh tế thực hiện theo cơ chế quản lý tập trung bao cấp, nhà nước nắm quyền ngoại thương và ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh tranh của hàng hóa thấp, hệ thống ngân hàng còn ở giai đoạn sơ khai. Theo Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 07 năm 1963 của Chính phủ nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước, mọi giao dịch trong nước phải được thực hiện bằng Việt Nam Đồng (VND). Việc chuyển đổi VND được thực hiện theo kế hoạch với cơ chế đa tỉ giá (tỉ giá mậu dịch, tỉ giá phi mậu dịch) do Nhà nước công bố. Xuất khẩu và thanh toán theo các hiệp định song phương – đa phương thường sử dụng đồng Rúp chuyển nhượng của Nga và đồng Nhân dân tệ mậu dịch. Do trong giai đoạn này mức độ mở cửa nền kinh tế là nhỏ vì Việt Nam là nước theo thể chế Xã hội chủ nghĩa nên chỉ có mối quan hệ với những nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa và một số nước trung lập nên mức độ Đô la hóa là không đáng kể.
Vào cuối những năm 1980, do sự yếu kém trong quản lý chính sách tiền tệ vĩ mô, thất bại trong cải cách giá – lương – tiền làm cho lạm phát nước ta tăng mạnh có năm lên tới 845% và thường xuyên duy trì ở mức ba con số và buộc Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới nền kinh tế. Đây cũng là mốc mới đánh dấu cho sự phát triển kinh tế cũng như tình trạng đô la hóa tại Việt Nam. Từ năm 1986 tới nay có thể chia trình trạng Đôla hóa tại nước ta thành ba giai đoạn như sau:
1.1 Giai đoạn từ sau đổi mới tới trước khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (1988 – 1997)
Trong giai đoạn này, Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Nhà nước xóa bỏ chế độ độc quyền ngoại thương, đồng thời ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy kinh tế phát triển, mở rộng quan hệ quốc tế. Với việc xây dựng nền kinh tế thị trường, hoạt động phân phối trao đổi sản phẩm đã được tự do thực hiện trên thị trường một cách công khai tạo điều kiện cho giao thương buôn bán phát triển. Với việc Mỹ xóa bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam năm 1995 luồng vốn đầu tư vào Việt Nam bắt đầu tăng mạnh, GDP của nước ta cũng tăng trưởng cao và ổn định ở mức trung bình là 8%/năm và tình trạng siêu lạm phát được kiểm soát giảm mạnh từ mức 845% năm 1988 xuống còn dưới 10% năm 1989 và thường xuyên được duy trì ở mức trên dưới 10%. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng cũng được hình thành và phát triển. Đối với các giao dịch vãng lai: tổ chức được mua ngoại tệ để thanh toán nhập khẩu, trả lãi khoản vay nước ngoài, kiều hối được khuyến khích gửi về, được gửi vào ngân hàng và được rút bằng ngoại tệ, công dân Việt Nam có nhu cầu ngoại tệ để đi công tác, học tập, lao động, du lịch đều được xem xét cấp phép cho mua số ngoại tệ cần thiết.
Cùng với sự mở cửa và phát triển của nền kinh tế tình trạng Đô la hóa cũng xuất hiện và trở nên đáng lo ngại.
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
FCD/M2
28,2%
32,4%
41,2%
30,6%
22,9%
22,2%
21,0%
20,3%
23,6%
(Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
Mức độ đô lá hóa Việt Nam giai đoạn này đạt đỉnh điểm vào năm 1991 tỉ lệ FCD/M2 là 41,2%. Tuy nhiên bằng các biện pháp hữu hiệu của Nhà nước mức độ Đô la hóa có xu hướng giảm xuống từ năm 1992 trở đi và được kiểm soát ở mức trung bình 22% từ năm 1993 tới năm 1997 và trong cả giai đoạn là 26,9333%.
Những kết quả trên là do, lượng vốn đầu tư bằng ngoại tệ đổ vào Việt Nam tăng mạnh, tình trạng siêu lạm phát trước đổi mới đã gây ra tâm lý lo sợ vào sự mất giá của Việt Nam Đồng trong phần lớn dân cư và những lợi ích của việc sử dụng đô la trong cất giữ, vận chuyển thanh toán bằng đồng tiền này được ưa thích hơn do đó trong gia đoạn đầu mức độ đô la hóa tăng nhanh và trở nên nghiêm trọng.
Người dân ưa thích sử dụng ngoại tệ còn do lợi ích thực tế của việc sử dụng trong cất trữ, vận chuyển, thanh toán vì mệnh giá VND quá nhỏ, hệ thống thanh toán lại kém phát triển. Đến giai đoạn 1993 -1996, khi lạm phát chỉ ở mức trên dưới 10%, tỷ giá biến động ít, việc nắm giữ VND đã tỏ ra có lợi hơn nên mức độ ĐLH giảm mạnh, tỷ lệ FCD/M2 năm 1997 còn 22,9%. Đồng thời, Chính phủ cũng bắt đầu hạn chế việc thanh toán bằng ngoại tệ, xoá bỏ các điểm bán hàng thu ngoại tệ, tăng cường các bàn đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, thị trường ngoại tệ tự do, yết giá và thanh toán ngoại tệ trong dân cư vẫn chưa kiểm soát được do thói quen và các hoạt động kinh tế ngầm, do sự bất tiện khi sử dụng VND vẫn chưa được giải quyết cơ bản. Nhưng mặt khác cũng do các hoạt động ngoại hối trái phép tồn tại chủ yếu là do chưa được xử lý một cách kiên quyết. Nguyên nhân là thiếu chế tài, thiếu sự phối hợp của các cơ quan quản lý.
1.2 Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2001.
Trong giai đoạn này diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, mức tăng trưởng của Việt Nam giảm mạnh chỉ còn trung bình 6%/năm, tỉ lệ lạm phát ở mức 9,2% năm 1998 so với 3,7% năm 1997 và sau đó rơi vào giảm phát -0,6% năm 2000. Tình trạng đô la hóa tại Việt Nam cũng tăng lên và ở mức cao (trên 30%) vào năm 2001.
Năm
1998
1999
2000
2001
FCD/M2
24,6
26,1
26,9
31,7
(Nguồn : Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
Sau một thời gian ở mức trên 22% thì liên tiếp những năm sau khủng hoảng mức độ đô la hóa lại tăng trở lại. Nguyên nhân là do trong suốt một thời gian dài nền kinh tế Mỹ phục hồi và tăng trường, ổn định làm cho đồng USD hấp dẫn, mặt khác trong giai đoạn này Nhà nước cũng ban hành những chính sách mới đã tạo ra sự tin tưởng và thu hút một lượng lớn ngoại tệ từ thị trường tự do vào ngân hàng và do sự tác động của cuộc khủng hoảng, nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam cũng suy giảm và vay nợ nước ngoài gặp khó khăn. Mặt khác người dân có kỳ vọng và dự đoán nhà nước sẽ phá giá đồng nội tệ để kích thích đầu tư và xuất khẩu sau khi các nước trong khu vực đã phá giá đồng tiền nên người dân tích cực đầu cơ tích trự ngoại tệ để hy vọng thu được lợi nhuận từ chênh lệch tỉ giá.
1.3 Giai đoạn từ năm 2002 tới nay.
Trong giai đoạn này vị thế của nước ta được cải thiện mạnh mẽ, kinh tế phục hồi và bắt đầu tăng trưởng trở lại tới đốc độ trên 7%/năm, kim ngạch xuất nhập khẩu lần đầu tiên đạt gần 60 tỷ USD vào năm 2004. Đây cũng là giai đoạn mà mức độ Đô la hóa lại có sự biến động do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu gây ra và Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính này.
Từ năm 2002 tới năm 2007 tỉ lệ FCD/M2 của Việt Nam liên tục giảm xuống từ 30.1% năm xuống còn 20,2% năm 2007.
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
2007
FCD /M2
28,4
23,6
24,3
23,0
21,6
20,2
(Nguồn : Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
Đó là những con số tương đối còn ước tính số lượng ngoại tệ trên thị trường tự do năm 2005 có quy mô từ 4-6 tỷ USD/năm tương đương với 1/3 kim ngạch nhập khẩu. Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu từ năm 2008 và tình trạng lạm phát của Việt Nam luôn ở mức cao trên hai con số, tỉ giá đồng Việt Nam so với đồng SUD liên tục biến động, ước tính lượng ngoại tệ trên thị trường tự do khoảng 9 tỷ USD. Nhiều công ty đã niêm yết giá bằng cả hai giá USD và Việt Nam đồng để tránh rủi ro tỉ giá, người lao động đổi VND thành USD để đi xuất khẩu lao động, người dân đầu cơ tích trữ USD để thu lợi nhuận chênh lệch tỉ giá, hầu hết những mặt hàng nhập khẩu: ô tô, máy tính xách tay, linh kiện điện tử… đều được niêm yết bằng giá USD. Các ngân hàng thương mại Việt Nam huy động ngoại tệ và đem gửi 2 tỷ USD tại thị trường nước ngoài chỷ yếu là Singapore và Hồng Kông, chính phủ phát hành trái phiếu bằng đồng USD tại thị trường trong nước… Tất cả những hoạt động đó đã làm cho cung cầu USD trên thị trường Việt Nam thêm sôi động trong hai năm qua. Mặc dù chính phủ đã có những biện pháp mạnh can thiệp sự trao đổi mua bán đô la trên thị trường “chợ đen” tuy nhiên hoạt động ngầm vẫn diễn ra rất sôi động và nhà nước không thể kiểm soát được hết. Không chỉ các ngân hàng được đổi tiền mà các cửa hàng vàng cũng có một lượng USD để trao đổi cho khách hàng khi có nhu cầu.
Như vậy có thể thấy rằng, Việt Nam là một nước có mức độ “Đô la hóa” từng phần, từ thời kỳ sau đổi mới tới nay tỉ lệ FCD/M2 luôn trên 20% dù cho có những lúc xuống dưới 20% như vào tháng 3 năm 2007 là 19,6%. Nhưng đây chỉ là con số tương đối còn con số tuyệt đối thì lại là rất lớn trên thị trường tự do. Người dân đang dần dần quen với việc sử dụng đồng ngoại tệ thay thế cho VND trong rất nhiều trường hợp. Theo thống kê, đồng USD chiếm tới 90% trong tổng số các giao dịch thương mại của Việt Nam với nước ngoài, hầu hết những Công ty Xuất Nhập khẩu đều thanh toán và nhận thanh toán bằng đồng USD.
2. Nguyên nhân Đô la hóa tại Việt Nam
Mặc dù lãi suất của Việt Nam đồng luôn ở mức cao người dân và doanh nghiệp vẫn không sử dụng đồng nội tệ để gửi tiết kiệm mà tỉ lệ gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ lại bắt đầu tăng mạnh dù cho lãi suất huy động thấp hơn đồng nội tệ và có quy định của Chính phủ về quản lý ngoại hối cấm sử dụng, tàng trữ, vận chuyển ngoại tệ nhưng người dân Việt Nam vẫn bất chấp và vẫn yêu thích sở hữu đồng USD hơn. Điều này có thể được lý giải bởi một số nguyên nhân sau đây.
- Nguyên nhân mang tính lịch sử: Do nền kinh tế nước ta cuối những năm 1980s bị rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, sảy ra siêu lạm phát làm cho giá trị đồng Việt Nam Đồng liên tục bị mất giá đặc biệt là sau cải cách giá – lương – tiền, người dân không đổi được tiền và phải bỏ “trôi sông” lượng tiền mà họ tích trữ, mà đây lại là thói quen cố hữu của người dân Việt Nam “đồng tiền đi liền khúc ruột” dẫn tới tình trạng phần lớn người dân mất lòng tin vào đồng bản tệ và chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước.
- Do Việt Nam có một nguồn tiền mặt ngoại tệ rất lớn đang đi vào đặc biệt là đồng USD nên khối lượng tiền giao dịch trên thị trường tăng lên nhanh chóng nhất là tại các thị trường ngầm không được kiểm soát. Ngoại tệ chảy vào thị trường Việt Nam chủ yếu thông qua những con đường sau:
Thứ nhất: Việt Nam có hai triệu Việt Kiều đang làm ăn và sinh sống trên toàn cầu, nhiều nhất là tại Mỹ, hàng năm họ gửi một lượng kiều hối rất lớn về để giúp đỡ bà con thân nhân trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Trong những năm gần đây lượng kiều hối gửi về không những chỉ nhằm mục đích giúp đỡ thân nhân mà còn đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. Năm 2009 mặc dù sảy ra khủng hoảng kinh tế nhưng lượng kiều hối gửi về vẫn đạt mức cao gần 5 tỷ USD. Bên cạnh đó trong những năm qua nhà nước thúc đẩy xuất khẩu lao động đi các nước trên thế giới và làm cho lượng ngoại tệ chuyển về cũng tăng mạnh.
Thứ hai: Chúng ta đang đẩy mạnh thu hút khách du lịch và đã đạt được những thành quả nhất định trong việc phát triển ngành, số lượng khách nước ngoài tới Việt Nam ngày càng tăng lên
Thứ ba: Việt Nam được đánh giá là một điểm đến hấp dẫn trong đầu tư vì thế mà các dự án liên doanh, đầu tư trực tiếp 100% vốn nước ngoài cũng rất lớn. Năm 2007 Việt Nam đã huy động được gần 11 tỷ vốn đầu tư FDI, ngoài ra còn có các nguồn vốn hỗ trợ phát triển như ODA của các nước phát triển cung cấp, tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ ở nước ngoài…
Thứ tư: Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam sinh sống, làm ăn và học tập, tìm kiếm cơ hội đầu tư… ngày càng tăng cùng với đó là hoạt động chi tiêu của nhóm này cũng tăng lên như các chi phí: thuê nhà, chi phí sinh hoạt, chi phí cho các dịch vụ khác
Thứ năm: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế và vượt ngưỡng dành cho những nước kém phát triển vào năm 2004 khi kim ngạch xuất nhập khẩu nước ta vượt mức quy định cho khối các nước này là 60 tỷ USD.
- Do hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa thực sự phát triển, thị trường tài chính tiền tệ không thực hiện hết chức năng, vai trò của nó trong việc huy động vốn cho nền kinh tế quốc dân mà mới chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ nên hiện trạng sử dụng tiền mặt của người dân Việt Nam là rất phổ biến nên tạo điều kiện thuận lợi nhất định cho hoạt động đổi tiền diễn ra đặc biệt là trên thị trường ngầm khi mà người đổi tiền không cần phải xuất trình các giấy tờ, chứng từ chứng minh cho mục đích sử dụng hợp pháp đồng “đô la” được đổi như khi đi đổi tại các ngân hàng.
- Tại Việt Nam các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ, huy động vốn bằng ngoại tệ từ các nguồn khác nhau nhưng chủ yếu là từ dân cư để cho các doanh nghiệp nhập khẩu vay hoặc đem gửi ở nước ngoài, chính phủ phát hành trái phiếu bằng đồng USD. Tất cả những điều đó đã một phần cho phép hoạt động kinh doanh ngoại tệ được công khai tại thị trường tiền tệ trong nước. Và khi lợi nhuận thu được từ các hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở mức cao và được cho phép đã thúc đẩy giao dịch bằng ngoại tệ hơn là bằng nội tệ trong khi vẫn tránh được rủi ro tỉ giá trên thị trường và không phải thực hiện bảo hiểm rủi ro tỉ giá.
- Người Việt Nam đi làm ăn, công tác, học tập ở nước ngoài cũng đang ngày một tăng mạnh. Hiện nay nước ta có hàng trăm ngàn du học sinh ở cả diện học bổng toàn phần, bán học bổng và tự túc do đó nhu cầu ngoại tệ cho những mục đích này cũng tăng lên làm cho đổi ngoại tệ tăng mạnh.
- Xét dưới giác độ tâm lý thì người dân Việt Nam có tâm lý tôn sùng hàng ngoại – tâm lý sính ngoại. Đại bộ phận người dân cho rằng hàng ngoại nhập là tốt và duy nhất chỉ nghĩ hàng Trung Quốc là không đảm bảo chất lượng nên tâm lý tiêu dùng hàng ngoại là phổ biến trong các tầng lớp dân cư. Vì thế các doanh nghiệp nhập khẩu nhiều hơn dẫn tới cầu USD tăng làm cho tỉ giá VND/USD tăng làm cho người dân mua đô la để tích trữ đầu cơ, kỳ vọng tỉ giá hối đoái trong tương lai sẽ tăng. Mặt khác các doanh nghiệp niêm yết bằng cả nội tệ và ngoại tệ để tránh rủi ro về tỉ giá.
Mỗi người sẽ ở những giai tầng khác nhau trong xã hội, tham gia hoạt động cùng những nhóm khác nhau do đó chịu ảnh hưởng bởi những nhóm tham khảo đó và phải thể hiện cho người khác thấy mình đang thuộc giai tầng, đẳng cấp nào trong xã hội. Rất nhiều người cho rằng tiêu “Đô la” mới thể hiện được bản thân là những người giàu có, những người thành đạt và trở thành tiêu chí cho những người khác phấn đấu noi theo nếu như anh cũng muốn ở đẳng cấp, giai tầng đó không thì anh sẽ bị tẩy chay khỏi nhóm hoặc không được tham gia vào nhóm.
Một bộ phận những người dân khác lại có thú siêu tầm những đồng ngoại tệ quý hiếm hoặc theo họ mang một ý nghĩa biểu tượng nhất định nào đó như đồng 1 USD là “number one – số một”, hay đồng 2 USD mang lại may nắm và hạnh phúc cho người sở hữu nó vô hình dung những hoạt động này cũng có tác động ít nhiều tới việc trao đổi, tích trữ đồng Đô la.
- Xét dưới góc độ quản lý vĩ mô về chính sách tiền tệ của nhà nước thì tình trạng “Đô la hóa” hiện nay là do một số nguyên nhân sau:
Tăng trưởng kinh tế còn chưa bền vững, chưa thực sự dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả. Việt Nam là nước đang phát triển nhưng thực chất là những nước kém phát triển và vẫn thuộc danh sách những nước nghèo.
Hệ thống ngân hàng tài chính còn chưa phát triển, chưa đạt trình độ tối thiểu của khu vực, các thị trường tài chính hoạt động chưa đồng bộ và thiếu hiệu quả.
Về chính sách:
Quản lý ngoại hối còn có những quy định không tương xứng với trình độ phát triển của nền kinh tế. Cơ chế tỉ giá chưa có tính thị trường cao.
Chu chuyển ngoại tệ còn có nhiều ách tắc, nhất là trong việc sử dụng ngoại tệ trong chính sách công làm cho khả năng đáp ứng ngoại tệ của thị trường chính thức bị hạn chế và không phản ánh đúng thực chất.
Chính sách tài chính – tiền tệ chưa hướng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát để tạo niềm tin lâu dài vào VND
Còn có những mâu thuẫn nhất định về chính sách để thực hiện mục tiêu giảm tình trạng đô la hóa, chế tài chưa đủ mạnh, lúng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26034.doc