Tiểu luận Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay

Nước ta đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với các đặc điểm sau:

Một là kinh tế thị trường bao gồm nhiều loại hình đan xen nhau: nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào nền kinh tế thị trường. Mỗi kiểu hàng hóa, tham gia vào nền kinh tế thị trường có những nét đặc thù về bản chất kinh tế và xã hội và trình độ phát triển, nhưng nó đều là các bộ phận khác nhau của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Bởi vậy chúng ta vừa hợp tác, vừa cạnh tranh nhau, bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ. Nhân tố kinh tế và quan hệ kinh tế trong mỗi kiểu sản xuất hàng hóa của mỗi thành phần kinh tế đều xuất hiện cái mới. Trong đó, sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo, định hướng với các kiểu sản xuất hàng hoá khác. Nhận thức được tính chất nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan từ đó có thái độ đúng đắn trong khuyến khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục cụ cho việc đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tự nguyện hoặc làm “ Vệ sinh” cho các doanh nghiệp của nền kinh tế. Thành phần kinh tế thứ năm và cũng là thành phần kinh tế cuối cùng. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân: là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản trong nước và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh dịch vụ. Kinh tế tư bản tư nhân tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… Từ năm 1991 sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân ở nước ta, kinh tế tư bản tư nhân phát triển mạnh và đóng gopá nhất định vào sự phát triển kinh tế xã hội. Cần khẳng định nhất quán chủ trương phát triển kinh tế tư bản tư nhân bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư và sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp lí, tạo điều kiện thuận lợi và củng cố lòng tin cho các nhà đầu tư phát triển. Tuy nhiên cần lưu ý rằng mỗi thành phần kinh tế đồng thời vừa tồn tại độc lập tương đối vừa tác động qua lại lẫn nhau, vừa hợp tác cạnh tranh với nhau vừa thống nhất vừa mâu thuẫn trong một chỉnh thể kinh tế xã hội. Không nên hiểu mỗi thành phần kinh tế như những bộ phận tách rời, những lực lượng tự trị và theo đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là sự hợp nhất cơ học của các thành phần đó. Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, một vấn đề có tính nguyên tắc cần phải nắm vững, đó là kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế. Nếu thành phần kinh tế Nhà nước đủ mạnh và đóng được vai trò chủ đạo thì sẽ lôi kéo được các thành phần kinh tế khác theo định hướng XHCN. Nừu ngược lại, sẽ không loại trừ khả năng thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa sẽ lớn mạnh hơn và kéo theo nền kinh tế quốc dân theo định hướng tư bản chủ nghĩa. Cần phải luôn nhớ rằng thành phần TBCN đã đang và sẽ có sự hậu thuẫn quốc tế rất mạnh. Nhất là trong tình hình hiện nay, các thế lực chống phá XHCN đang tìm cách cho kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa ở nước ta thắng thế. Ta phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần để sản xuất liên tục, không bị gián đoạn, tạo sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường. 3/ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân. Việt Nam đi lên từ một nước phong kiến thuộc địa lạc hậu, tiếp theo đó là chiến tranh kéo dài. Khi kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước Việt Nam có thời gian nhìn lại mình thì đã tụt hậu về kinh tế quá xa so với thế giới. Sự hỗ trợ to lớn của các nước XHCN là hậu thuẫn mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến. Nhưng ở thời kì hoà bình xây dựng, hỗ trợ đó hầu như không có hiệu quả, thể hiện ở tình trạng lạc hậu về kỹ thuật so với các nước tư bản phát triển, ở cơ cấu kinh tế bất hợp lý, và kinh nghiệm quản lý theo nền kinh tế kế hoạch tập trung…Cùng với sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Đông Âu, Việt Nam đứng bên bờ của cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Thu nhập bình quân đầu người được đánh giá vào nhóm các nước nghèo nhất thế giới So sánh một số chỉ tiêu kinh tế xã hội giữa Việt Nam và các nước ASEAN năm 1993 Chỉ tiêu Việt Nam Indônêxia Malaixia Philipin Singapo Thái Lan GDP bình quân đầu người-USD Phương pháp Atlas 170 730 3160 830 19310 2040 GDP bình quân đầu người USD Phương pháp PPP 1040 3140 8630 2660 20470 6390 Chỉ số HDI 0,514 0,568 0,794 0,621 0,836 0,798 Vị trí HDI trong 176 nước 116 105 57 99 43 54 HDI: chỉ số phát triển con người Trước đây,việc thực hiên chính sách và cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp khiến cho sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh, đới sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, đồng bào dân tộc, còn quá khó khăn vất vả.Chất lượng giáo dục đào tạo, y tế ở nhiều nơi rất thấp kém. Người nghèo không đủ tiền chữa bệnh và cho con em đi học. Trong khi đó nguồn tài chính từ ngân sách và các nguồn lực khác có thể huy động cho yêu cầu phúc lợi xã hội vừa hạn chế vừa chưa được sử dụng có hiệu quả. Tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường sinh thái, huỷ hoại tài nguyên thiên nhiên ngày càng tăng. Văn hoá phẩm độc hại lan tràn, tệ nạn xã hội phát triển, trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống xã hội, để ổn định kinh tế trong nước và hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nền kinh tế mở, một nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Sự thành công của một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y tế giáo dục đều phát triển, khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp, đạo đức truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc được giữ vững, môi trường được bảo vệ. III. Những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra hàng hoá để bán, để trao đổi trên thị trường. Nội dung của phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở Việt Nam là: Phát triển nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Đại hội Đảng VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại tương ứng với tính chất và trình độ sản xuất. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó việc “ Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với việc tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế xã hội. Để hạn chế và khắc phục hậu quả của mặt trái của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế xã hội bằng luật pháp, kế hoạch, chính sách, thông tin, truyền thống, giáo dục và một số công cụ khác. Nhận thức tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế là một tất yếu khách quan, từ đó có thái độ thật đúng đắn trong việc khuyến khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp đi lên của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cũng có nghĩa là có các quy luật kinh tế khác nhau hoạt động. Sự vận động và phát triển của các thành phần kinh tế trong giai đoạn này chịu sự chi phối trực tiếp của các quy luật thị trường. Thông qua hoạt động của các quy luật thị trường mà nó đào thải những mặt, yếu tố bất hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất. 1. Phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá đã làm phá vỡ các mối quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín, kém phát triển, bảo thủ trì trệ. Đặc biệt đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động gắn bó với thị trường thế giới. Việc mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài là tất yếu vì sản xuất và trao đổi hàng hoá tất yếu vượt qua phạm vi quốc gia, mang tính chất quốc tế, đồng thời đó cũng là tất yếu sự phát triển nhu cầu. Biệt lập trong sự phát triển kinh tế một tất yếu trong sự phát triển, khi trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của thế giới cho phép đáp ứng nhu cầu về cả sản xuất lẫn tiêu dùng. Thông qua mở rộng quan hệ quan hệ hợp tác với nước ngoài để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong. Điều đó tạo thuận lợi cho quá trình phát triển rút ngắn ở nước ta. Mở rộng quan hệ kinh tế với các nước bằng nhiều cách như: Tăng cường hoạt động ngoại thương, hợp tác, liên doanh, liên kết để thu hút vốn đầu tư cho nước ta, gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực. Tranh thủ nắm bắt những mặt hàng mũi nhọn có trong tương lai, gắn với công nghệ mới, tiến tới có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới… nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào nhịp điệu của nền kinh tế thế giới Việc “mở cửa” về kinh tế phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng tôn trọng lẫn nhau, bảo đảm chủ quyền và cùng có lợi. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua bản chất và vai trò quản lý của nhà nước. Mặc dù có rất nhiều ưu điểm nhưng nền kinh tế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế và đời sống kinh tế xã hội đặt ra. Vì vậy sự tác động của nhà nước- một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu cho sự phát triển kinh tế xã hội. Thiên sử “can thiệp” của nhà nước vào kinh tế, để cho thị trường tự do hoạt động, thì việc điều tiết kinh tế kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả. Nhà nước sử dụng luật pháp và các công cụ kinh tế vĩ mô khác để quản lý kinh tế hàng hoá, làm cho nền kinh tế “ lành mạnh” hơn, giảm bớt các thăng trầm, đột biến xấu trên con đường của nó, khắc phục được tình trạng phân hoa bất bình đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi trưởng của đất nước. Sự vận dụng của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước ở nươc ta là sự vận động được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường-“ bàn tay vô hình”, và sự quản lý của nhà nước- “ bàn tay hữu hình”. Thực trạng kinh tế hàng hóa nước ta hiện nay. Nước ta đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với các đặc điểm sau: Một là kinh tế thị trường bao gồm nhiều loại hình đan xen nhau: nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào nền kinh tế thị trường. Mỗi kiểu hàng hóa, tham gia vào nền kinh tế thị trường có những nét đặc thù về bản chất kinh tế và xã hội và trình độ phát triển, nhưng nó đều là các bộ phận khác nhau của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Bởi vậy chúng ta vừa hợp tác, vừa cạnh tranh nhau, bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ. Nhân tố kinh tế và quan hệ kinh tế trong mỗi kiểu sản xuất hàng hóa của mỗi thành phần kinh tế đều xuất hiện cái mới. Trong đó, sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo, định hướng với các kiểu sản xuất hàng hoá khác. Nhận thức được tính chất nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan từ đó có thái độ đúng đắn trong khuyến khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục cụ cho việc đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hai là nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, kinh tế thị trường ở nước ta vẫn còn ở trình độ kém phat triển. Biểu hiện ở số lượng và chủng loại hàng hoá nghèo nàn, khối lượng hàng hoá lưu thông thị trương và kim nghạch xuất khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cao, chât lượng thấp, quy mô và dung lượng thị trường hẹp, sưc cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hoá trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài còn yếu, đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi còn ít, thu nhập của người lao động còn thấp… Trình độ phát triển thấp của hàng hoá bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất, từ tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế, từ trình độ phân công lao động xã hội kém phát triển, từ sự kém phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng, lao động thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn, từ sự kìm hãm của nền kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp một thời gian quá lâu dài, từ sự nhận thức giản đơn về CNXH. Ba là nền kinh tế phát triển theo hướng hoà nhập vào thị trường thế giới và khu vực. Cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ càng phát triển càng làm cho lực lượng sản xuất phát triển trình độ xã hội hoá cao dẫn đến quá trình khu vực hoá quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển kinh tế thị trường không phải chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước mà còn phải tính đến quan hệ quốc tế, đến xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế. Nền kinh tế thị trường của mỗi quốc gia muốn phát triển không thể không gắn với thị trường thế giới. Bất cứ một quốc gia nào dù là nước phát triển nhất cũng không thể sản xuất tất cả các loại hàng hoá. Vì vậy mỗi nước phải tuỳ theo lợi thế của mình lựa chọn mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Sản xuất hàng hoá của nươc ta sẽ phát triển nếu biết cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới để khai thác các tiềm năng của nền kinh tế. Muốn vậy, con đường đúng đắn là phát triển nền kinh tế mở hướng mạnh vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả. Bốn là nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò của Nhà nước. Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá thông qua cơ chế thị trường không thể giải quyết được những vấn đề như: Lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng, phân hoá bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như các hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiên tượng trên ở những mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại làm cản trở sự phát triển bình thường của một xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với nền kinh tế mở là tất yếu nhưng trong quá trình đó bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, thì cũng có nguy cơ du nhập những yếu tố văn hoá xa lạ với truyền thống, đặc điểm của dân tộc. Muốn giữ được nền kinh tế thị trường mang bản sắc văn hoá Việt Nam, thực hiên có hiệu quả sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không chấp nhận lối sống thực dụng với sự chi phối tất cả của đồng tiền không chấp nhận thương mại hoá mọi hoạt động của đời sống xã hội kết hợp sự chọn lọc tinh hoa của văn minh nhân loại với giữ gìn những yếu tố tinh tuý của văn hoá dân tộc, xây dựng những yếu tố văn hoá XHCN. ở nước ta,khu vực sản xuất nông nghiệp chiếm tới từ 70% sức lao động và 80% dân số- nơi khai sinh của sự nghiệp đổi mới bằng “ khoán 10” “ chỉ thị 100”, từ chỗ thiếu đói đã vươn lên đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo. Khu vưc kinh tế tư nhân là khu vực phát triển mạnh thứ hai, cho đến nay chúng ta có khoảng 22000 doanh nghiệp tư nhân gấp 2 lần số doanh nghiệp nhà nước khi bắt đầu đi vào công cuộc đổi mới và gấp 3 lần số doanh nghiệp nhà nước có đến hiện nay. Trong đó có những doanh nghiệp sử dụng 10000 công nhân. Khu vực ngoài quốc doanh ( bao gồm không nhiều bộ phận của kinh tế hợp tác ) chiếm trên dưới 2/3 tổng sản phẩm trong nước. Bình quân tăng trưởng 5 năm ( 1990-1995) là 8,2% một năm. ( Năm 1995 tăng trưởng bình quân hoàn toàn thế giớ 3,5% trong đó cao nhất là vùng Đông á- Thái Bình Dương: 8,1%, Mĩ 3%; Nga 1,6%…Các nước ASEAN vẫn tiếp tục giữ mức độ tăng trưởng khá: Singapo 8,9%; Philipin 5%; Thái Lan 8,9%… Trước đây, chính sách hợp tác hoá ở Liên Xô cũ khi thực hiện có phạm sai lầm là nóng vội, ở nước ta do hoàn cảnh lịch sử nhất định, phong trào hợp tác hoá cũng đã có tác dụng ở miền Bắc trong những năm chiến tranh chống Mĩ cứu nước nhưng tiếc rằng chúng ta không duy trì được, cho đến năm 1990 các nhà soạn thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 không còn biết tỉ trọng bộ phận kinh tế hợp tác là bao nhiêu. Nhận thấy rõ những khiếm khuyết của nền kinh tế kế hoạch tập trtung quan liêu bao cấp, tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, qua thực hiện 5 năm đổi mới Đảng ta khẳng định “ Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Sự tác động của Nhà nước vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội. Thiếu sự “ can thiệp” của Nhà nuớc vào thị trường tự do hoạt động, thì sự điều hành kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả cũng như ta muốn vỗ tay mà chỉ có một “bàn tay”. Nhà nước sử dụng luật pháp vào các công cụ vĩ mô khác để quản lí kinh tế làm cho nền kinh tế lành mạnh hơn. Giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của nó khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi trường của đất nước. Như vậy sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là sự vân hành được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường- bàn tay vô hình và sự quản lý của Nhà nước- bàn tay hữu hình. Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá Việt Nam: Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Đối với kinh tế nhà nước: Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, một vấn đề quan trọng cần nắm được đó là kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo. Khi mà nền kinh tế nhà nước đủ mạnh và giữ được vai trò chủ đạo thì sẽ lôi kéo được các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu không, thì loại trừ khả năng thành phần kinh tế tư bản tư nhân sẽ lớn mạnh hơn và kéo nền kinh tế quốc dân theo định hướng tư bản chủ nghĩa, thêm nữa thành phần kinh tế tư bản tư nhân đã, đang và sẽ được sự hậu thuẫn rất lớn của quốc tế. Nhất là trong bối cảnh đất nước ta hiện nay mọi thế lực chống đối phản động đang tìm mọi cách cho thành phần kinh tế tư bản tư nhân thắng thế ở nước ta. Do vậy, để kinh tế nhà nước thắng thế chúng ta cần thực hiện một số vấn đề: Thành phần kinh tế nhà nước phải được xác định đúng về mô hình tổ chức và định hướng phát triển, chọn đúng cán bộ tốt, có cơ chế chính sách phù hợp để thành phần kinh tế này không ngừng được củng cố và phát triển nhằm phát huy vai trò chủ đạo, để thực hiện và phát huy nghĩa vụ mở đường, dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Nó phải đảm bảo phát triển hàng hoá công cộng còn những lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lợi thì nên để cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Một bộ phận quan trọng của nền kinh tế nhà nước là doanh nghiệp nhà nước phải phát triển trên nguyên tắc năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao và phải bình đẳng với các doanh ngiệp thuộc thành phần kinh tế khác ) vì chỉ trên cơ sở xác định được hiệu quả kinh tế rõ ràng, cụ thể mới có tiêu chuẩn tìm chọn nhân tài, có đạo đức tốt, khả năng quản lý giỏi để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế ) phải làm sao cho doanh nghiệp Nhà nước trở thành một công cụ để Nhà nước có thể khắc phục được các khiếm khuyết của thị trường và có thể can thiệp vào nền kinh tế bất cứ lúc nào cần thiết. Hiện nay, trong cơ cấu thành phần kinh tế khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa được quan tâm nhiều đến việc đổi mới công nghệ, giải quyết vốn lưu động để phát huy năng lực sản xuất, hiện nay vẫn còn nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, còn quá nhiều doanh nghiệp nhỏ làm ăn thua lỗ kéo dài. Tuy nhiên để khắc phục tình trạng trên chúng ta cần phải sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước thưo định hướng nắm ngành, khâu, mặt hàng then chốt, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh, tự chủ về mọi mặt. Việc xắp xếp lại có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Để kinh tế nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn, phát huy được vai trò chủ đạo của mình chúng ta cần đổi mới theo hướng sau: - Thứ nhất, hoàn thành việc phân định các doanh nghiệp hoạt động công ích và các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả cũng như các doanh nghiệp kinh doanh có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có đủ số vốn lưu động cần thiết, được vay vốn ưu đãi để đổi mới thiết bị công nghệ kiện toàn tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý. Còn đối với các doanh nghiệp kinh doanh chuyển sang hoạt động kinh doanh theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần thật sự tự chủ thì phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình. - Thứ hai, xác định loại doanh nghiệp được nhà nước đầu tư 100% vốn loại doanh nghiệp mà nhà nước nắm số cổ phần khống chế và những doanh nghiệp mà nhà nước chỉ cần giữ số cổ phần ở mức thấp và đa dạng hoá sở hữu thông qua các biện pháp: cổ phần hoá, cho thuê kinh doanh chuyển nhượng quyền sở hữu và sử dụng… trên cơ sở khắc phục mọi trở ngại khách quan và chủ quan để đẩy nhanh tiến độ phát triển. Hướng dẫn, đôn đốc quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp theo những danh mục đã xác định đảm bảo tiến độ triển khai và kịp thời rút kinh ngiệm để tiến hành một cách vững chắc, không để xảy ra những sai lầm đáng tiếc. Đối với biện pháp tổng công ty hoá các doanh nghiệp cần được xem xét lại theo hướng thu hẹp các tổng công ty đến mức chỉ áp dụng trong những lĩnh vực phải đối diện trực tiếp với cạch tranh nước ngoài, song song với việc xây dựng các công ty đa ngành, đa sở hữu và tạo cơ chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và thành viên của tổng công ty. b/ Đối với các thành phần kinh tế khác có một câu hỏi lớn đặt ra: Mặc dù Nhà nước khuyến khích phát triển nhưng tốc độ tăng chậm chạp và không tương xứng với tiềm năng hiện có . Muốn phát triển sản xuất thì nguyên lý muôn thủa là phải tăng suất đầu tư, trước hết là đầu tư về tài chính. Nguồn tài chính này trong dân khá lớn nhưng chưa được sử dụng để phát triển sản xuất. (Ước tính có khoảng trên 10000 tỷ đồng, bao gồm 5000 tỷ nằm ở dự trữ vàng và đôla; 3000 tỷ xây xựng nhà cửa; 1000 tỷ mua sắm đồ dùng cao cấp như xe máy, tivi màu, video, catset, máy điều hoà nhiệt độ.. đó là chưa kể trên 3000 tỷ tiền gửi tiết kiệm của dân cư). Để các nguồn vốn này có thể góp phần tăng thêm suất đầu tư cho sản xuất kinh doanh cần phải giải quyết hàng loạt các biện pháp: + Có thể phải bắt đầu ngay từ tên gọi. Không nên xuất phát từ kinh tế quốc doanh để đặt tên cho cho các thành phần kinh tế khác, gọi họ là “ ngoài quốc doanh”. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, cho dù kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo thì vẫn phải đảm bảo tính bình đẳng của các thành phần kinh tế và thực chất mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất không có bộ phận này là “trong” còn bộ phận khác là “ ngoài”. Thay đổi cách gọi cũng là giải pháp xoá đi tâm lý tự ti, bi quan của các thành phần kinh tế khác mà một thời họ bị chèn ép, lãng quên. + Việc cải tạo các thành phần kinh tế phải được tiến hành theo nguyen tắc tự nguyện và trên cơ sở tính chất xã hội hoá thực tế. Giải pháp đạt hiệu quả cao chính là không cô lập các thành phần kinh tế với nhau mà phải sử dụng các hình thức hợp doanh, đan xen các quan hệ sử dụng khác nhau vào cùng một lĩnh vực, thậm chí trong cùng một công ty, xí nghiệp. Các xí nghiệp hợp doanh giữa Nhà nước và tư nhân, giữa hợp tác xã và tư nhân, giữa Nhà nước và hợp tác xã, tư nhân…cần phải trở thành một trong những hình thức cơ bản tổ chức các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần.Trong sản xuất nông nghiệp, do tính đặc thù của nó nên ngoài việc phải giải quyết tốt quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân, còn phải chuyển kinh tế hợp tác hiện nay thành kinh tế nông trại. Kinh tế hộ nhận khoán là cơ sở hình thành kinh tế nông trại và các tổ chức nông trại. Đây cũng đang là xu hướng chung của nông nghiệp thế giới.Trong điều kiện nông nghiệp nước ta hiện nay không cần tổ chức các nông trại lớn và cũng chưa vội hợp tác nhiều nông trại với nhau. Có thể mỗi nhóm chỉ nên 5-20 hộ tự nguyện góp ruộng đất, lao đọng và tiền vốn để sản xuất kinh doanh hoặc tổ chức những nhóm 20-30 hộ như ở Đài Loan hợp tác với nhau làm chung một hoặc nhiều khâu trong quá trình sản xuất như làm đất, gieo cấy, làm cỏ, bón phân, tưới tiêu, phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch, phơi sấy, vận chuyển. Ngoài ra còn có các hình thức hợp tác khác như: các nông trại chung nhau mua “ đầu vào” hoặc chung nhau bán “đầu ra”, hoặc cũng có thể hợp tác dưới hình thức uỷ thác kinh doanh. Tổ chức nông trại là sự hợp tác giữa các nông trại, chính là hình thức hợp tác xã nông nghiệp theo mô hình mới cần đạt được. + Để nhân dân yên tâm bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh và hoạt động đúng hướng. Nhà nước phải đưa ra được một hệ thống các văn bản pháp quy như luật kinh doanh, luật thừa kế, luật chuyển nhựng, luật mua bán lao động…đòng thơi hoàn thiện chế độ đăng kí kinh doanh, kế toán, thống kê, thuế, hợp đồng kinh tế. Các luật và chế độ này không chỉ nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước mà phải giải quyết thoả đáng 3 lợi ích: Nhà nước- tập thể- cá nhân, khuyến khích làm giàu trên cơ sở bỏ vốn kinh doanh đúng pháp luật. Việc định ra các luật thuế và chế độ phải giữ ổn định trong thời gian tương đối dài, nếu có thay đổi chỉ nên theo hướng có lợi cho người bỏ vốn chứ không phải là thắt dần và tước bỏ bớt lợi ích của họ. Luật và chế độ ban hành cần phải đạt được yêu cầu hết sức quan trọng là xoá bỏ được ấn tượng đã ăn sâu vào trong tư tưởng của những người sản xuất kinh doanh tư nhân, cá thể về cách thức Nhà nước tước đoạt hoặc cải tạo gò ép trước đây

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50342.DOC
Tài liệu liên quan