Tiểu luận Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN I : LÝ LUẬN CHUNG 3

I. Lý luận chung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở việt Nam 3

1. Khái niệm về xã hội chủ nghĩa 3

2. Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN 3

II. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta 4

1. Xuất phát từ đặc điểm của thời kỳ quá độ 4

2. Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam 7

III. Cơ cấu sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ: 11

1. Đặc trưng, vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ

ở nước ta 11

2. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế 13

PHẦN II : PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA 16

I. Phương hướng chung 16

II. Phương hướng và giải pháp cụ thể đối với từng thành phần kinh tế 16

KẾT LUẬN 21

 

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2080 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Vận dụng tư tưởng của Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng ta khẳng định, ở nước ta hiện có các thành phần kinh tế sau: kinh tế Nhà nước kinh tế hợp tác kinh tế tư bản Nhà nước kinh tế cá thể tiểu chủ kinh tế tư bản tư nhân Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế nói trên ở nước ta là tất yếu. Tính tất yếu đó được quy định bởi các điểm sau đây: Khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền và bước vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội thì một đòi hỏi khách quan là phải từng bước xây dựng cở sở kinh tế - xã hội của chế độ mới - chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, với hình thức sở hữu Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sở hữu tập thể. Kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác hình thành trên cơ sở chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng, các ngành và trong nội bộ từng vùng, do tính chất quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nước ta tất yếu còn kinh tế tư bản tư nhân , kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người làm thương nghiệp, dịch vụ và kinh tế tự nhiên. Để phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa , các thành phần kinh tế phải được cải tiến. Không htể “xoá bỏ” hay ‘chuyển đổi”các thành phần kinh tế một cách chủ quan duy ý chí, mà phải căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tính chất của từng ngành nghề mà từng bước hình thành quan hệ sản xuất mới từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Ph.Ăngghen viết : “bất cứ một sự cải tiến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với quan hệ sản xuất cũ nữa. Việc cải tiến các thành phần kinh tế tư nhân phải xuất phát từ yêu cầu và trình độ xã hội hoá sản xuất, tuỳ thuộc vào khả năng tổ chức và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bởi vì khi chính quyền nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thì việc xoá bỏ hình thức sở hữu này và thay thế bằng hình thức sở hữu khác không phải là khó, mà khó khăn phức tạp là ở chỗ, phải làm cho tư liệu sản xuất chủ yếu sau khi đã về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động sẽ được sử dụng tốt hơn, có hiệu quả hơn, làm cho quá trình sản xuất xã hội vẫn diễn ra bình thường và gắn liền với việc xây dựng, phát triển lực lượng sản xuất , bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển có hiệu quả. Xuất phát từ những yêu cầu khách quan nói rên, kinh tế tư bản chủ nghĩa được cải biến thành bộ phận kinh tế Nhà nước ; kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước ; còn kinh tế của những người sản xuất hàng hoá nhỏ tiếp tục tồn tại dưới hình thức kinh tế cá thể hoặc chuyển thành kinh tế hợp tác. Trước đây về mặt lý luận đã khẳng định rằng, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là tất yếu khách quan, là đặc trưng kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song trên thực tế, chúng ta lại chủ trương sớm xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần bằng “làn sóng” quốc doanh hoá, tập thể hoá , tạo dựng nên bức tường ngăn cách giữa kinh tế xã hội chủ nghĩa và thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể. Điều này trái với quy luật khách quan, trái với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin ; nó đã dẫn đến hậu quả tiêu cực : các tiềm năng kinh tế của đất nước không được khai thác, lực lượng sản xuất xá hội bị lãng phí một cách nghiêm trọng, sự phát triển kinh tế hàng hoá bị kìm hãm, do đó đời sống của nhân dân lao động gặp nhiều khó khăn. Đổi mới kinh tế không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan nhiều thành phần kinh tế, mà còn phải thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tóm lại : Tính chất nhiều thành phần kinh tế là đặc trưng, là đặc điểm bản chất mang tính quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề không phải chỉ là sự thừa nhận đó mà mấu chốt là phải thực hiện chính sách nhiều thành phần kinh tế trong đời sống kinh tế hiện thực, coi đó là nhiệm vụ có tính chất chiến lược lâu dài. 2. Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sau khi hoàn thành cuộc đấu tranh chống xâm lược, đất nước đã thống nhất. Vào thời điểm đó nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhưng hết sức nhỏ bé và còn tồn tại nhiều yếu điểm, hạn chế cần phải khắc phục. cụ thể : Một số thành tựu đạt được : Khi bước vào thời kỳ quá độ, nước ta cơ bản đã xây dựng được một nền kinh tế quốc doanh có năng lực đáng kể và giữ vai trò nòng cốt, chủ chốt trong nền kinh tế. Trước thời kỳ quá độ và cả trong thời gian đầu của thời kỳ quá độ nước ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế thuần khiết XHCN, nghĩa là chỉ tập chung phát triển những thành phần kinh tế XHCN, ra sức quốc hữu hóa các doanh nghiệp tư nhân và các thành phần kinh tế phi XHCN. Do vậy, Đảng và nhà nước tập chung phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và đã đạt được những thành công nhất định. Đến năm 1975, nước ta có hệ thống nông trường quốc doanh với số lượng lớn, thu hút hàng trăm nghìn công nhân và hơn 3000 máy kéo. Các ngành trong kinh tế quốc doanh như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải … đều được chú trọng phát triển. Nhiều nghành công nghiệp như công nghiệp điện đã có những đóng góp đáng kể tạo ra điện năng phục vụ cuộc sống và sản xuất. Nhờ đó cuộc sống của người dân từng bước được nâng cao. Nhờ vào phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế xã hội, chúng ta cũng đã xây dựng được một cở sở vật chất kỹ thuật chuẩn bị cho thời kỳ sau. ở miền Bắc, đến năm 1975 giá trị tài sản cố định của các nghành sản xuất vật chất đã gấp 5, 1 lần giá trị tài sản cố định của các nghành sản xuất vật chất năm 1960. Trong đó, công nghiệp gấp 4, 8 lần, xây dựng gấp 16 lần, nông lâm nghiệp gấp 7, 2 lần. Nhờ đó nền kinh tế đã có những bước tăng trưởng nhất định. Tổng sản phẩm xã hội năm 1975 gấp trên 2, 3 lần năm 1960, thu nhập quốc dân gấp 1, 9 lần, bình quân mỗi năm tăng 4, 3%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp gấp 3, 4 lần, bình quân mỗi năm tăng 8, 4%. Các ngành khác cũng đạt tốc độ tăng trưởng khá. Đó là những thành tựu hết sức quan trọng đối với nước ta. Nó làm cho nhân dân ta thên tin tưởng vào chế độ mới. Những mặt hạn chế : Tuy chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng chúng ta vẫn còn gặp phải rất nhiều những mặt còn hạn chế, những nhược điểm trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ. Trước hết, ở nước ta trong thời kỳ quá độ nền kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, kinh tế mang nặng tính tự cấp tự túc, . Đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế mang nặng tính sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu là một trong những hạn chế của nước ta trong suốt thời kỳ này. Hầu hết các sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế quốc dân tính bình quân đầu người trong năm 1975 còn ở mức thấp, lương thực bình quân quy thóc đạt khoảng 200kg/người. Cơ cấu kinh tế nước ta còn mất cân đối. Nước ta nói chung vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu với một tỷ lệ lớn lao động nằm trong nông nghiệp, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. các ngành kinh tế vẫn tăng trưởng và phát triển chưa xứng với tiềm năng. sản xuất trong nước không đáp ứng được đủ nhu cầu tiêu dùng, thu không đủ chi. Do phần vay nợ và dựa vào viện trợ nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Nước ta chưa có thị trường theo đúng nghĩa, năng xuất lao động còn thấp, lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Do vậy, năng suất lao động trong các ngành còn thấp, sản lượng sản xuất ra chưa nhiều và chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Vì thế, thu nhập của người lao động còn thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Ngân sách nhà nước không lớn do đó không đủ khả năng để đầu tư phát triên các ngành kinh tế đúng mức và tương xứng với tiềm năng. Do những thiếu sót trong những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế tập chung trong thời kỳ này, chúng ta mới chỉ chú trọng phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể còn các thành phần kinh tế khác chưa được coi trọng vì thế kinh tế nước ta phát triển không cân đối. Chúng ta chưa thấy được vai trò của, vị trí và đóng góp của các thành phần kinh tế này là rất quan trọng trong giai đoạn đầu để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, vì thế chúng chưa được phát triển tương xứng với vị trí và tiềm năng vốn có của mình. Thêm vào đó trình độ của người lao động còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế. Trình độ các cán bộ quản lý cũng chưa đáp ứng được đòi hỏi. Nhận thức về nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ, chưa đúng đắn do vậy kinh tế thị trường chưa phát triển. Việc giao lưu buôn bán, mở rộng hợp tác với các nước khác trong vùng chưa được coi trọng đúng mức và vì thế chúng ta chưa khai thác hết tiềm năng để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, việc áp dụng mô hình kinh tế chỉ huy tập chung quan liêu bao cấp cũng đã gây tình trạng trì trệ cho nền kinh tế nước ta trong một thời gian dài trước khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Bộ máy tổ chức hành chính của nước ta còn hết sức cồng kềnh, quan liêu, bao cấp, hoạt động không hiệu quả. Các cơ chế chính sách đã không khuyến khích được mọi người tích cực lao động Nhiều chính sách kinh tế đưa ra tỏ ra không hợp lý và kém hiệu quả. Chẳng hạn như chính sách chuyển hàng loạt HTX nông nghiệp bậc thấp lên bậc cao, từ quy mô thôn lên quy mô xã mà chưa được chuẩn bị kỹ về mặt kỹ thuật, tư tưởng và tổ chức cán bộ, buông lỏng quản lý nên hoạt động kém hiệu quả. Đường lối công nghiệp hoá theo hướng ưu tiên phát triên công nghiệp nặng, đặt nông nghiệp và công nghiệp nhẹ xuống hàng thứ yếu là đường lối mang nặng tính giáo điều. Kinh tế quốc doanh phát triển tràn lan, ham quy mô lớn, không được chuẩn bị kỹ về cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu ngành, về lựa chọn phương án kinh tế kỹ thuật nên sản xuất kinh doanh kém phát triển, kém hiệu quả. Nhìn chung, các cơ sơ kinh tế quốc doanh thời kỳ này chỉ huy động được 50% công suất. Quan hệ kinh tế của đất nước ta thời kỳ này còn nhiều bất cập cần phải giải quyết Một sai lầm rất lớn là ta dập khuôn máy móc theo mô hình của Liên Xô mà không xét đến điều kiện thực tế của nước ta. Do những hạn chế trên mà trong thời gian dài, trong nhận thức của chúng ta thành phần kinh tế ngoài quốc doanh luôn bị coi là phi XHCN bị ép buộc phải cải tạo vì chúng ta chỉ nhìn thấy mặt hạn chế của nó. Kinh tế quốc doanh phát triển tràn lan, bất chấp điều kiện kỹ thuật và trình độ quản lý còn hạn chế kết quả là kinh tế ngoài quốc doanh bị kìm hãm còn kinh tế quốc doanh kém hiệu quả, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có phát triển vì dựa trên cơ sở bao cấp, bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ nước ngoài. lực lượng sản xuất xã hội không được giải phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng tụt hậu. Do những hạn chế như trên nên ta phải tiến hành đổi mới, cụ thể là phải sử dụng các thành phần kinh tế III. Cơ cấu sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ: Đặc trưng, vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta: Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong nền kinh tế mỗi nước, số lượng các các thành phần kinh tế và tỷ trọng mỗi thành phần kinh tế có thể khác nhau tuỳ theo đặc điểm lịch sử cụ thể của từng nước. Song, theo Lênin, phổ biến ở các nước có ba thành phần kinh tế : xã hội chủ nghĩa, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ và kinh tế tư bản tư nhân. Trong điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến đi lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, kết cấu kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ càng phức tạp: nó vừa có những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa , vừa có những quan hệ xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định nên kinh tế ở nước ta hiện nay có các thành phần kinh sau đây: a. Kinh tế nhà nước : Là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước các xí nghiệp quốc gia và tài sản thuộc quyền sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước ... Kinh tế nhà nước rộng và mạnh hơn doanh nghiệp nhà nước phân biệt được hai phạm trù này nhận thức đầy đủ vai trò kinh tế nhà nước là một bước phát triển về nhận thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới. Kinh tế Nhà nước dựa trên hình thức sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất . Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giả quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước thược hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. b. Kinh tế tập thể: Là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống. Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng từ thấp đến cao từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã theo tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ thực hiện đúng luật hợp tác xã. Kinh tế tập thể được phát triển, rộng rãi và đa dạng trong các ngành nghề ở nông thôn và thành thị, nó giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. c. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước: Đó là đơn vị kinh tế hình thành do sự liên doanh giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư bản tư nhân trong nước hoặc với tư bản tư nhân nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước ra đời còn do nhà nước xã hội chủ nghĩa góp vốn cổ phần hoặc do tư nhân ở trong và ngoài nước thuê tài sản. Kinh tế tư bản nhà nước là cầu nối giữa sản xuất nhỏ với sản xuất lớn, hoặc “nhịp cầu trung gian” đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã khẳng định kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý của các nhà tư bản, vì lợi ích của bản thân họ cũng như công việc xây dựng và phát triển đất nước. d. Kinh tế cá thể, tiểu chủ : Bao gồm những đơn vị kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân qui mô nhỏ về tư liệu sản xuất và hoạt động dựa vào sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Trong một số ngành nghề ở nông thôn và thành thị kinh tế cá thể và tiểu chủ có vị trí quan trọng nó có khả năng tận dụng tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Nhưng đến một trình độ nhất định, việc mở rộng sản xuất kinh doanh của kinh tế cá thể tiểu chủ sẽ bị hạn chế vì thiếu vốn, trình độ công nghệ thấp và khó tìm thị trường tiêu thụ, bởi vậy cần được sự hỗ trợ của nhà nước để khắc phục những hạn chế nói trên. Các đơn vị kinh tế cá thể tiểu chủ có thể tồn tại độc lập, hoặc tham gia các loại hình kinh tế tập thể, hay liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nhà nước dưới nhiều hình thức. e. Kinh tế tư bản tư nhân: Là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản góp lại để sản xuất kinh doanh và thuê mướn nhân công. Kinh tế tư bản tư nhân có nhiều hình thức là xí nghiệp tư doanh hay công ty trách nhiệm hữu hạn. Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong điều kiện quá độ lên CNXH ở nước ta, thành phần kinh tế này còn có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Các thành phần kinh tế có mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau, hoạt động đan xen nhau vào trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Vai trò, tỷ lệ của mỗi thành phần kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hiệu quả sản xuất - kinh doanh và sự đóng góp của chúng vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế: Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm nhiều thành phần khác nhau, trong đó: Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tuy có sự độc lập tương đối và có bản chất riêng, nhưng trong hoạt động sản xuất - kinh doanh không có sự ngăn cách, có thể hỗn hợp, đan kết với nhau (cùng một chủ sở hữu có thể tham gia nhiều quan hệ sở hữu, cùng một đối tượng sở hữu có nhiều quan hệ sở hữu ), hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Trong nền kinh tế quốc dân thống nhất do Nhà nước hướng dẫn, điều tiết, kiểm soát, cùng với việc kinh tế Nhà nước nắm giữ vai trò chủ đạo, các chủ thể sản xuất - kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bỏ sung cho nhau, vừa cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật. Tuy vậy các thành phần kinh tế ấy đều nằm trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, có mối liên tương tác và mâu thuẫn với nhau. Tính thống nhất biểu hiện ở chỗ : mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế xã hội, phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, các thành phần kinh tế nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, liên hệ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Đó là sụ thống nhất “không hữu cơ” ; sự thống nhất đó không phải tự nhiên mà có mà phải qua hợp tác và đấu tranh để hợp tác tốt hơn. Các thành phần kinh tế mang bản chất kinh tế và quan hệ kinh tế khác nhau. Vì vậy giữa chúng có sự mâu thuẫn với nhau : mâu thuẫn giữa tư hữu và công hữu, giữa lao động và bóc lột , giữa tính kế hoạch và tính tự phát , mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế ,về xu hướng chính trị, về hệ tư tưởng. ở một nước sản xuất nhỏ chiếm ưu thế, thì trong nội bộ kết cấu kinh tế quá độ “là giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản Nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội “. Không thể giải quyết mâu thuẫn nói trên bằng cách xoá bỏ kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể, mà phải bằng cách sử dụng hướng dẫn và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, hướng các thành phần kinh tế tư nhân đi vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước và hiệp tác lao động, liên kết, liên doanh để từng bước hướng theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ, mỗi thành phần kinh tế đều không nguyên dạng (ít nhiều đã mang tính chất mới) : kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác còn nhiều mặt yếu kém và tiêu cực, chưa thể hiện đầy đủ tính chất xã hội chủ nghĩa. Dù các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập và ít nhiều mang tính chất mới, cũng không vì thế mà kết luận rằng, các thành phần kinh tế đều mang tính chất xã hội chủ nghĩa : do đó, không cần phân biệt kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác và kinh tế tư nhân, cá thể. Trong thời kỳ quá độ, những người sản xuất các thể, các nhà tư bản tư nhân chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự tác động của kinh tế xã hội chủ nghĩa, không còn giữ nguyên bản chất riêng của minh, tuy nhiên nếu nền kinh tế Nhà nước không được củng cố và phát triển, nếu sự quản lý của Nhà nước lỏng lẻo , nó sẽ tự phát đi theo con đường riêng của mình, chứ không phải là “tất yếu định hướng theo con đường hợp tác xã hội chủ nghĩa”. Các thành phần kinh tế thống nhất và mâu thuẫn với nhau, hợp thành cơ câu các thành phần kinh tế. Cơ cấu này không phải là một tập hợp tuỳ tiện, giản đơn những thành phần kinh tế khác nhau, mà phải bảo đảm hai tiêu chuẩn: Tính định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy kinh tế Nhà nước phải không ngừng củng cố và phát triển có hiệu quả để từng bước nắm giữ vai trò chủ đạo, định hướng sự vận động của nền kinh tế, tiến tới xác lập phát triển sản xuất mới. Kết cấu hợp lý, nghĩa là phải tạo điều kiện khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng kinh tế, các nguồn lực của xá hội, giả phóng và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển ; tạo nguồn lực để đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động năng động, đáp ứng nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng trong nước, hoà nhập vào thị trường thế giới với hiệu quả kinh tế xá hội cao. Chỉ có như vậy mới bảo đảm sự phát triển kinh tế ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa,mới giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng kinh tế, động viên và tạo điều kiện cho mọi thành phân kinh tế, mọi người , mọi gia đình… làm giàu cho mình và cho đất nước. Phần II Phương hướng nhằm phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở nước ta I. Phương hướng chung : + Có cơ chế và chính sách đúng đắn + Phải xây dựng các hành lang pháp lý tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật. + Phải tăng cường và phát triển thành phần kinh tế nhà nước để nó thực sự giữ vai trò chủ đạo định hướng nền kinh tế đi nên XHCN. + Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam Đối với thành phần kinh tế nhà nước cần tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của mình đối với nền kinh tế, thành phần kinh tế tập thể cũng được tạo điều kiện cho phát triển để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình các thành phần kinh tế khác : mỗi thành phần kinh tế có vai trò nhiệm vụ và thế mạnh riêng của mình do đó cần phải phát huy tối đa năng lực hiện có tận dụng triệt để ưu thế của mình để phát triển đi lên. Phương hướng và giải pháp cụ thể đối với từng thành phần kinh tế : Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế và từ các quan điểm cơ bản nêu trên, có thể tìm các bước được cụ để nhằm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta bằng một số giải pháp chủ yếu sau: Một là đối với nền kinh tế quốc dân phải củng cố và phát triển để có thể củng giữ được vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh (KTQD). Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, những bước đi và biện pháp phải đối mới. Đổi mới trước tiên và cấp bách là sửa chữa bước đi sai lầm trước đây bằng giải pháp xác định lại phạm vi kinh tế quốc doanh. Trước đây chúng ta đã phát triển kinh tế quốc doanh tràn lan, tạo nên quá trình xã hội hoá (XHH) hình thức, do vậy đến nay phải lựa chọn lại theo hướng giảm bớt số cơ sở KTQD hiện có. Đấy là vấn đề dễ đạt được sự nhất trí nhưng giữ lại cái gì, giảm bớt ở chỗ nào và bằng biện pháp nào không phải là việc đơn giản, vì nó không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị và xã hội. Giải quyết vấn đề kinh tế quốc doanh đang là một trong những nội dung lớn của đường lối đổi mới kinh tế của nhiều nước, do vậy đã có hàng loạt biện pháp được áp dụng. ở ấn Độ đã tiến hành hiện đại hoá và đa dạng hoá sản xuất, sử dụng và bảo dưỡng máy móc thiết bị đúng tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm nâng cao công việc sử dụng công suất các cơ sở quốc doanh, cho phép các xí nghiệp quốc doanh tự chủ về vốn đầu tư, xây dựng mục đích và kinh doanh sản xuất, sửa đổi giá cho phù hợp, bãi bỏ hình thức trợ cấp giá, nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo xí nghiệp và học vấn của công nhân. ở Inđônêxia đã áp dụng các biện pháp đánh giá và phân loại hệ thống xí nghiệp quốc doanh, đổi mới cơ chế bằng cách thực hiện cơ chế hoạch toán chặt chẽ, cắt giảm các khoản trợ cấp không cần thiết, cải tổ bộ máy kết hợp với phong trào quần chúng chống tham nhũng chuyển một bộ phận KTQD sang tư nhân. Ngoài ra Inđônêxia còn áp dụng biện pháp chế hoá các đạo luật hoá văn bản về KTQD. Như vậy, việc sử lý KTQD các nước đã áp dụng nhiều biện pháp, sở dĩ như vậy vì không có biện pháp nào hoàn chỉnh cả, mỗi biện pháp vừa có mặt tích cực vừa có mặt hạn chế. Chỉ có trên cơ sở sử dụng nhiều biện pháp mới tạo ra được sức mạnh tổng hợp, chúng ta phải kết hợp nó để hạn chế thấp nhất những tiêu cực, tăng các mặt tích cực để KTQD đạt hiệu quả mong muốn. Hai là đối với các thành phần kinh tế khác đang có một câu hỏi lớn đặt ra là: Mặc dù nhà nước khuyến khích phát triển nhưng tốc độ tăng chậm chạp và không tương xứng với tiềm năng hiện có. Muốn phát triển sản xuất thì nguyên lý muôn thủa là phải tăng xuất đầu tư, trước hết là đầu tư về tài chính. Nguồn tài chính này trong dân khá lớn nhưng chưa được sử dụng để phát triển sản xuất, để các nguồn này có thể góp phần tăng thêm suất đầu tư cho sản xuất kinh doanh cần phải có hàng loạt các biện pháp. Có thể bắt đầu ngay từ tên gọi. Không nên xuất phát từ KTQD để đặt tên cho các thành phần kinh tế (TPKT) khác, gọi là “ngoài quốc doanh”. Trong nền kinh tế nhiều thành phần cho dù kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo thì vẫn phải đảm bảo tính bình đẳng của các thành phần kinh tế và thực chất mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất, không có bộ phận này là “trong” còn các bộ phận khác là “ngoài”. Thay đổi cách gọi cũng là giải pháp xoá đi tâm lý tự ti, bi quan của các thành phần kinh tế khác mà một thời họ đã bị chèn ép, lãng quên. Việc cải tạo các thành phần kinh tế phải được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện và trên cơ sở hoàn cảnh XHH thực tế. Giải pháp đạt hiệu quả cao chính là không cô lập các thành phần kinh tế với nhau mà phải sử dụng các hình thức hợp doanh, đan xen các hệ sử dụng khác nhau vào trong cùng một lĩnh vực, thậm chí trong cùng một công ti, xí nghiệp. Các xí nghiệp hợp doanh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60608.doc
Tài liệu liên quan