Ngành nông nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh và thiên tai, tuy giá trị sản xuất đạt cao, nhưng giá trị gia tăng tăng trưởng thấp so với kế hoạch.( Kế hoạch đặt ra là 4%, nhưng chỉ ước đạt 3,3%) Trong ngành công nghiệp, tuy tỷ trọng giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất đã tăng lên, song mức chênh lệch giữa tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất và giá trị gia tăng vẫn còn lớn. (Hàng năm giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 15,5-16%, nhưng giá trị gia tăng của ngành tăng khoảng 10- 10,5%.) Ngành công nghiệp chế biến, chế tác là ngành có đóng góp vào tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp khoảng từ 55 - 65% lại phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu nên thiếu tính ổn định. Chi phí sản xuất trong ngành công nghiệp tuy đã giảm, song vẫn còn cao so với các nước trên thế giới. (Năm 2003 giá trị sản xuất công nghiệp (giá năm 1994) tăng 16%, nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 10,28%, dự kiến năm 2004 giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 15,6% nhưng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp đã tăng khoảng 10,7%. Tuy nhiên, chênh lệch giữa tốc độ tăng về giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm còn cao so với các nước trong khu vực.) .
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1861 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hế giới đang phát triển trong xu thế “mở”.
Với điểm xuất phát thấp như nước ta thì tranh thủ nguồn lực bên ngoài là vấn đề quan trọng. Vì vậy, phải có chính sách rộng mở và khôn khéo, cách làm có hiệu quả để mở rộng hợp tác với bên ngoài, nhằm khai thác tốt nhất lợi thế trong nước và cũng là phù hợp với xu thế chung của thời đại. Thông qua quan hệ kinh tế quốc tế, chúng ta có thể giải quyết được về nguồn vốn, về khoa học – kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, hiện đại; về thị trường tiêu thụ hàng hoá; về kinh nghiệm tổ chức quản lý. ..
Nhưng cũng cần thấy được tính chất hai mặt của chính sách kinh tế mở (mặt tích cực và mặt tiêu cực). Cho nên, khi hoạch định chiến lược và chính sách phát triển kinh tế đối ngoại, chúng ta cần quán triệt điều đó.
d. Nền kinh tế nước ta trong quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp với đặc trưng vốn có của nó đã gây ra những tác động tiêu cực và để lại những hậu quả nặng nề đối với các vấn đề kinh tế – xã hội.
Vì vậy, chúng ta chủ trương xoá bỏ cơ chế lỗi thời đó, đồng thời phải từng bước xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Hiện nay, về cơ bản cơ chế cũ đã được xoá bỏ, nhưng chưa thật triệt để; cơ chế mới đã được hình thành và đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế, nhưng chưa thật hoàn thiện và vững chắc. Điều đó nói lên tính chất khó khăn, phức tạp của giai đoạn quá độ từ cơ chế cũ sang cơ chế mới.
2. Đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN) có những đặc trưng sau:
- Mục đích phát triển nền KTTT định hướng XHCN là nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH nâng cao năng suất lao động xã hội, từng bước xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
- Nền KTTT định hướng XHCN tồn tại nhiều hình thức sở hữu do đó nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế Tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế.
- Nền KTTT định hướng XHCN thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu, đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua quỹ phúc lợi
- Nền KTTT định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN.
PHầN II:
thực trạng nền kinh tế thị trường ở Nước ta hiện nay.
I. Những thành tựu chủ yếu:
Tốc độ tăng của một số ngành và một số lĩnh vực kinh tế 2001-2004
Chỉ tiờu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Số bỏo cỏo Quốc hội thỏng 10/2004
Số ước cuối năm
(12/2004)
- Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) (%)
6,9
7,1
7,3
7,6
7,7
- Tốc độ tăng giỏ trị sản xuất cụng nghiệp (%)
14,6
14,8
16,0
15,6
16,0
- Tốc độ tăng giỏ trị sản xuất nụng nghiệp (%)
4,7
6,5
4,9
4,9
5,4
- Tốc độ tăng giỏ trị cỏc ngành dịch vụ (%)
6,10
6,54
7,2
8,0
8,2
Nguồn: Tổng cục thống kê
Kết quả thực hiện 15 chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2004 như sau:
(1) Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 7,7% (kế hoạch là 7,5 - 8%), trong đó khu vực nông, lâm ngư nghiệp tăng 3,3%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, khu vực dịch vụ tăng 7,3%.
(2) Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,9% so với năm 2003 (kế hoạch là 4,6%);
(3) Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,6% (kế hoạch là 15%);
(4) Giá trị các ngành dịch vụ tăng khoảng 8% (kế hoạch là 8%);
(5) Kim ngạch xuất khẩu đạt 25 tỷ USD, tăng gần 24% (kế hoạch là 12%);
(6) Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 166,9 nghìn tỷ đồng, vượt 11,8% dự toán năm, bằng 23,5% GDP1 và tăng 17,4% so với thực hiện năm 2003;
(7) Tổng chi Ngân sách nhà nước cả năm 2004 ước đạt 206,05 nghìn tỷ đồng, vượt
9,8% so với dự toán năm;
(8) Bội chi ngân sách nhà nước là 5% GDP, bằng dự toán đề ra; (9) Vốn đầu tư toàn xã hội đạt 35,4% GDP (kế hoạch đề ra là 36%);
(10) Giá hàng tiêu dùng tăng 9,5% (kế hoạch đề ra là dưới 5%);
(11) Tạo việc làm và bổ sung việc làm mới cho 1,55 triệu người, đạt kế hoạch;
(12) Số học sinh học nghề tuyển mới tăng 7%, đạt kế hoạch;
(13) Tỷ lệ hộ đói nghèo còn 8,3%, so với kế hoạch là dưới 10%;
(14) Tỷ lệ sinh giảm 0,037%, (kế hoạch là 0,04%);
(15) Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 26%, đạt kế hoạch.
Trên cơ sở tình hình phát triển kinh tế - xã hội 3 năm 2001 - 2003 và kết quả thực hiện kế hoạch năm 2004 như trên, có thể đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ 4 năm 2001 - 2004 so với kế hoạch 5 năm như sau:
1- Kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao và cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nền kinh tế trong 4 năm qua duy trì được tốc độ tăng trưởng khá và ổn định; nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 4 năm 2001 - 2004 khoảng 7,2% (năm 2001 tăng 6,9%, năm 2002 tăng 7,1%, năm 2003 tăng 7,3%, năm 2004 tăng 7,7%); tuy thấp hơn 0,3% so với mức kế hoạch bình quân chung 5 năm 2001 - 2005; nhưng trong điều kiện khó khăn cả ở trong và ngoài nước thì mức tăng trưởng đạt được trong 4 năm qua là một cố gắng rất lớn; đây là mức tăng trưởng khá cao so với các nước trong khu vực.
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân trong 4 năm (2001 - 2004) là 5,2% (kế hoạch là 4,8%). Tuy nhiên, giá trị tăng thêm (GDP nông nghiệp) dự kiến chỉ đạt khoảng 3,4%, thấp hơn mục tiêu đề ra (mục tiêu 5 năm là 4%/năm).
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân trong 4 năm (2001 - 2004) tăng 15,3%, (kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 là 13,1%). Tuy nhiên, do chi phí sản xuất còn cao nên giá trị tăng thêm của công nghiệp bình quân 4 năm chỉ đạt 10%, thấp hơn kế hoạch (kế hoạch 5 năm là 10,4%).
Giá trị các ngành dịch vụ tăng bình quân 4 năm khoảng 7,2%, thấp hơn so với mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 đề ra là 7,5%. Giá trị tăng thêm bình quân 4 năm đạt 6,6% (mục tiêu kế hoạch 5 năm là 6,8%).
Tính chung 4 năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân 4 năm là khoảng 14,6% (năm 2001 tăng 4,1%, năm 2002 tăng 11,2%; năm 2003 tăng 20,8%; năm 2004 tăng 24%) (kế hoạch 5 năm là 104 - 110 tỷ USD, tăng 14 - 16%). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2004 đạt trên 305 USD/người, tuy còn ở mức thấp nhưng đã thuộc loại các nước có nền ngoại thương phát triển.
Trong 4 năm 2001-2004, kinh tế nước ta không những tăng trưởng tương đối cao mà cơ cấu kinh tế còn tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, từng bước gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Tỷ trọng của ngành nông, lâm, ngư nghiệp đã giảm từ 21,8% năm 2003 xuống còn 20,4% năm 2004. Trong khi đó, tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng trưởng, dự kiến đạt 41,1% GDP so với 40% năm 2003. Đặc biệt, tỷ trọng của ngành dịch vụ sau 3 năm liên tục giảm thì năm 2004 đã có xu hướng phục hồi, dự kiến đạt 38,5% so với 38,2% năm 2003. Trong nội bộ ngành nông, lâm, ngư nghiệp cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng kể. Tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm từ 76,6% năm 2003 xuống còn 75,5% năm 2004. Trong khi đó tỷ trọng của ngành thủy sản vẫn có xu thế tăng lên, từ 18,4% năm 2003 lên 19,5% năm 2004.
Cơ cấu ngành công nghiệp có nhiều tiến bộ, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến, chế tác vẫn duy trì xu hướng tăng lên, giá trị tăng thêm của ngành từ 61% năm 2003 tăng lên 61,5% vào năm 2004; trong khi đó, tỷ trọng của ngành công nghiệp khai thác giảm từ 27,7% năm 2003 xuống còn 26,5% năm 2004. Điều này chứng tỏ ngành công nghiệp đang đi vào hoạt động có chất lượng và hiệu quả hơn. Cơ cấu các ngành dịch vụ bắt đầu có sự thay đổi theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.... Các hoạt động thương mại diễn ra sôi động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất kinh doanh. Tỷ trọng của ngành thương nghiệp tăng từ 36% năm 2003 lên 36,5% năm 2004. Các sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến được nâng dần qua các năm (Năm 2000, hàng qua chế biến chiếm 44,2% tổng giá trị xuất khẩu, năm 2001: 46,7%; năm 2002: 50,4%; năm 2003: 55%; năm 2004: 57%).
2- Vốn đầu tư phát triển và cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đã tăng lên đáng kể.
Đầu tư phát triển là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giải quyết nhiều vấn đề xã hội vì hoạt động này trực tiếp làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực; đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí; bảo vệ môi trường sinh thái và đưa các chương trình phát triển kinh tế-xã hội khác vào cuộc sống.
Do nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư phát triển như vậy nên trong những năm vừa qua chúng ta đã có nhiều chính sách và giải pháp khơi dậy nguồn nội lực và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để huy động vốn cho đầu tư phát triển. Như vậy, tổng số vốn đầu tư phát triển đưa vào nền kinh tế 4 năm 2001 - 2004 (tính theo giá 2000) khoảng 731 nghìn tỷ đồng, đạt khoảng 88% kế hoạch 5 năm đề ra. Trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 21,9%; vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước chiếm 14,7%; vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chiếm 17,7%; vốn đầu tư của tư nhân và dân cư chiếm 25,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 17,3%. Trong 4 năm 2001 - 2004 cam kết ODA dự kiến đạt khoảng 10,5 tỷ USD; giải ngân ODA ước đạt khoảng 6,2 tỷ USD.
Nguồn lực huy động cho đầu tư phát triển đa dạng hơn, phát huy nội lực tốt hơn, nguồn vốn trong nước đạt khá, nhất là nguồn vốn đầu tư của dân. Vốn đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân đạt 67 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện ước đạt trên 2,8 tỷ USD (tương đương 43,4 nghìn tỷ đồng), tăng 6% so với năm 2003, trong đó riêng vốn đầu tư của nước ngoài đạt 2,6 tỷ USD (tương đương 40,3 nghìn tỷ đồng), tăng 10,4%.( Năm 2004, vốn đầu tư nước ngoài cấp mới đạt trên 3,35 tỷ USD, tăng trên 9% so với năm 2003). Ngoài ra, huy động vốn từ nguồn phát hành trái phiếu, công trái và các nguồn khác, thực hiện khoảng 5 - 7 nghìn tỷ đồng.
3- Đời sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện và xóa đói giảm nghèo đạt kết quả quan trọng.
Thu ngân sách nhà nước 4 năm qua đạt khá, tỷ lệ huy động vào ngân sách trung bình là 22,7% GDP. Tình hình giá cả có biến động và diễn biến phức tạp. Chỉ số giá tiêu dùng tăng bình quân 4 năm khoảng 4,5%/năm (kế hoạch là dưới 5%).
Tạo việc làm mới trong 4 năm cho 5,9 triệu lao động (kế hoạch 5 năm là 7,5 triệu lao động); tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2004 giảm xuống còn 8,3% (kế hoạch đến năm 2005 là 10%).
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi đến cuối năm 2004 là 26% (kế hoạch đến năm 2005 là 22 - 25%). Tỷ lệ hộ được dùng nước sạch ở nông thôn đến cuối năm 2004 là 58% (kế hoạch đến cuối 2005 là 62%).
Do kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối khá, giá cả ổn định và việc điều chỉnh mức lương tối thiểu từ 180 nghìn đồng cuối năm 2000 lên 210 nghìn đồng đầu năm 2001 và 290 nghìn đồng đầu năm 2003 cùng với việc triển khai nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo nên đời sống các tầng lớp dân cư ở cả thành thị và nông thôn nhìn chung tiếp tục được cải thiện.
II. Những hạn chế và yếu kém:
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, tình hình kinh tế - xã hội nước ta thời gian vừa qua vẫn còn nổi lên nhiều khó khăn, thách thức đó là:
1-Tăng trưởng kinh tế (GDP) mới đạt ở mức thấp của mục tiêu đề ra, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng chưa có chuyển biến rõ nét; cơ cấu kinh tế chưa có bước chuyển dịch mạnh theo hướng hiện đại hoá.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt được mức thấp của kế hoạch đề ra, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, dịch vụ, tốc độ tăng trưởng thấp xa so với mục tiêu của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (trên 8%). Trong khi đó trong cùng thời kỳ này, một số nước trong khu vực đã vươn lên có tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều hoặc tốc độ tăng trưởng cao hơn năm trước.(Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB), trong cùng thời kỳ, Trung Quốc tăng 8,8%; Malaixia tăng 6,8%, cao hơn 1,6% so với năm 2003; Singapore tăng 8,1%.)
Năng suất lao động thấp. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu là yếu tố vốn và lao động, yếu tố về tiến bộ khoa học công nghệ và quản lý tuy đã có xu hướng tăng lên nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ.
Ngành nông nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh và thiên tai, tuy giá trị sản xuất đạt cao, nhưng giá trị gia tăng tăng trưởng thấp so với kế hoạch.( Kế hoạch đặt ra là 4%, nhưng chỉ ước đạt 3,3%) Trong ngành công nghiệp, tuy tỷ trọng giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất đã tăng lên, song mức chênh lệch giữa tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất và giá trị gia tăng vẫn còn lớn. (Hàng năm giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 15,5-16%, nhưng giá trị gia tăng của ngành tăng khoảng 10- 10,5%.) Ngành công nghiệp chế biến, chế tác là ngành có đóng góp vào tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp khoảng từ 55 - 65% lại phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu nên thiếu tính ổn định. Chi phí sản xuất trong ngành công nghiệp tuy đã giảm, song vẫn còn cao so với các nước trên thế giới. (Năm 2003 giá trị sản xuất công nghiệp (giá năm 1994) tăng 16%, nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 10,28%, dự kiến năm 2004 giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 15,6% nhưng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp đã tăng khoảng 10,7%. Tuy nhiên, chênh lệch giữa tốc độ tăng về giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm còn cao so với các nước trong khu vực.) .
Sức cạnh tranh của một số sản phẩm tuy có được cải thiện song vẫn còn yếu so với các nước trong khu vực. Lĩnh vực dịch vụ là lĩnh vực đóng góp lớn vào tăng trưởng nhưng năm 2004 tốc độ tăng trưởng vẫn thấp (dự kiến tăng 7,3%). Khu vực kinh tế nhà nước còn nhiều yếu kém, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhiều tiêu cực trong các Tổng công ty nhà nước được phát hiện. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước thấp, nhiều doanh nghiệp kinh doanh không có lãi, nợ xấu của các doanh nghiệp còn lớn; khả năng thanh toán nợ còn hạn chế, nguồn vốn tự có thấp. (Theo đánh giá, tỷ suất lợi nhuận trên vốn của các doanh nghiệp nhà nước năm 2003 chỉ đạt khoảng 10,7%; khoảng 23% doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ với tổng số lỗ lũy kế đến hàng nghìn tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp đi vay gấp 5 lần số vốn nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp, có doanh nghiệp kinh doanh tới 99% bằng vốn vay, dẫn tới rủi ro cao; khả năng thanh toán nợ thấp.) quá trình sắp xếp, cổ phần hóa chậm. Khu vực kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được các tiềm năng; vốn huy động cho sản xuất kinh doanh còn thấp; trình độ công nghệ nói chung còn lạc hậu; công tác quản lý doanh nghiệp hợp tác xã còn yếu.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa có bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mang yếu tố tự phát. Ngành dịch vụ chưa khai thác hết tiềm năng nên tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng. Trong công nghiệp, tỷ trọng các sản phẩm chất lượng cao còn thấp. Trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ trọng các sản phẩm, các cây trồng, vật nuôi có năng suất cao còn hạn chế. Môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh còn vướng mắc chưa thật sự bình đẳng (đặc biệt là về đất đai), thiếu minh bạch làm hạn chế khả năng cạnh tranh và vươn lên của các doanh nghiệp.
2- Triển khai thực hiện vốn đầu tư phát triển còn chậm; tỷ lệ giải ngân đạt thấp.
Thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2004 của các Bộ, Tổng công ty, các tỉnh, thành phố còn thấp. Các phương án bố trí kế hoạch của một số địa phương thiếu tập trung, vẫn còn tình trạng nhiều công trình, dự án kéo dài quá thời gian quy định, một số dự án chưa đầy đủ thủ tục đầu tư. Tiến độ giải ngân nhiều dự án đầu tư còn chậm, nhất là trái phiếu Chính phủ, công trái giáo dục và các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA. Mức giải ngân vốn ODA chưa đạt kế hoạch; thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng chưa cao, chưa có những khởi sắc.
3. Nguồn nhân lực tương đối lớn nhưng chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Nước ta được xếp vào hàng các quốc gia có trình độ học vấn cao nhưng do xuất phát điểm là nước nông nghiệp lạc hậu, tiếp theo đó là những năm dài nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, quan liêu bao cấp nên đã để lại hậu quả nặng nề về đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cũng như đội ngũ những người lao động.
Nước ta hiện nay có trên 50 triệu người từ 15 tuổi trở lên, nhưng tỉ lệ qua đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn kĩ thuật rất thấp. Theo kết quả điều tra dân số 1-4-1999 thì tới thời điểm điều tra chỉ có 7,6% dân số từ 13 tuổi trở lên có bằng cấp về một trình độ chuyên môn kĩ thuật nào đó, tức là đã qua trường lớp đào tạo, trong đó 2,3% là công nhân kĩ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng cấp; 2,8% có trình độ trung học chuyên nghiệp; 0,7% cao đẳng; 1,7% đại học và 0,1% có trình độ trên đại học. Tỷ lệ qua đào tạo đã thấp, cơ cấu đào tạo lại bất hợp lý. Quan hệ tỷ lệ đào tạo giữa 3 loại trình độ chuyên môn kỹ thuật; (1) đại học và trên đại học; (2) Trung học chuyên nghiệp; (3) Công nhân kỹ thuật theo thông lệ quốc tế là: 1 - 4 - 10 hoặc 1 - 3 - 5, nhưng ở nước ta các tỷ lệ này tới thời điểm tổng điều tra dân số năm 1- 4-1989 là 1 - 1,16 - 0,96 và đến thời điểm tổng điều tra dân số 1-4-1999 còn bất hợp lý hơn với quan hệ tỷ lệ: 1- 1,13 - 0,92.
Cơ cấu đào tạo bất hợp lý nên tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” trong nền kinh tế có xu hướng ngày càng trầm trọng. Sinh viên ra trường không có việc làm, nhưng các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài lại không tìm được công nhân kỹ thuật và thợ lành nghề.
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri thức mà bản thân người lao động không biết nghề hoặc biết nghề không đến nơi đến chốn thì rất khó tìm việc làm vì ngày nay người ta quan tâm chủ yếu đến chất lượng lao động chứ không tập trung vào khai thác số lượng lao động như trước đây.
4. Việc cải cách hành chính chưa đạt được kết quả như mong muốn, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Cải cách hành chính tiến bộ rất chậm so với mong muốn của nhân dân, doanh nghiệp và chính quyền cơ sở và là khâu yếu nhất hiện nay. Tư tưởng cải cách đổi mới ở một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng được nhu cầu. Tác động của cải cách hành chính lên đời sống nhân dân chưa rõ ràng, chủ yếu mới chỉ thể hiện trên văn bản giấy tờ. Chưa xác định được những khâu đột phá trong cải cách hành chính. Việc ban hành một số cơ chế, chính sách chưa kịp thời và đồng bộ, các thủ tục hành chính chậm được cải tiến, công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các chính sách, pháp luật của nhà nước chưa được thực hiện thường xuyên, mối quan hệ giữa một số cơ quan nhà nước với người dân còn nhiều bất cập. Đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều hạn chế, kém đạo đức, còn nhũng nhiễu dân đang là cản trở cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
PHầN III:
Các giải pháp chủ yếu để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chúng ta chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện chủ trương đó, trong điều kiện cụ thể của giai đoạn hiện nay, cần có những giải pháp chủ yếu sau đây:
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Mục tiêu và động lực trực tiếp của kinh tế hàng hoá về mặt kinh tế là phải thu được lợi nhuận tối đa. Vì vậy, trước hết cần xác định được cơ cấu kinh tế phù hợp nhất cho từng đơn vị, từng ngành và giữa các vùng, các ngành cũng như trên phạm vi cả nước.
Cơ cấu kinh tế mới, hợp lí nghĩa là cơ cấu kinh tế đó phải theo hướng tiến lên hiện đại, tạo những điều kiện thuận lợi cho phát triển lực lượng sản xuất, khoa học – kỹ thuật công nghệ; khai thác và phát huy được những lợi thế so sánh của đất nước về tài nguyên, nhân lực, vị trí địa lý kinh tế. .. tăng cường giao lưu hợp tác quốc tế, sản xuất ra nhiều hàng hoá có giá trị xuất khẩu cao, thay thế nhập khẩu một cách có hiệu quả, đưa nền kinh tế đất nước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngoài ra, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần chú ý đến tính ổn định, trên cơ sở đó để xác định đúng đắn và có hiệu quả kinh tế các phương án đầu tư.
Muốn vậy, Nhà nước cần có quy hoạch tổng thể, mang tính chất định hướng; phải xác định được khá chính xác nhu cầu hiện tại và dự đoán nhu cầu tương lai...
2. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường thuận lợi hơn nữa cho các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp phát triển nhanh, có hiệu quả cao
Cần khẳng định chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài và nhất quán, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, có tác dụng to lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất.
- Đối với kinh tế nhà nước, điều quan trọng và cấp bách là tiếp tục sắp xếp và đổi mới hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, hướng tới một cơ cấu sản xuất và đầu tư năng động của nền kinh tế, cho phép tận dụng và phát huy được lợi thế so sánh về tài nguyên, nguồn lực con người . Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước (trong đó có doanh nghiệp nhà nước) trong nền kinh tế quốc dân với tư cách là một công cụ có sức mạnh để nhà nước điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển đúng hướng.
- Đối với kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, có chính sách khuyến khích, ưu đãi, giúp đỡ phát triển với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao theo những nguyên tắc của nó.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Vì vậy, cần tạo điều kiện và giúp đỡ, giải quyết các khó khăn về vốn, khoa học, công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm; hướng dẫn và khuyến khích họ từng bước đi vào các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
- Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì thế, cần khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh mà luật pháp không cấm, yên tâm làm ăn lâu dài và được bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp.
- Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò to lớn trong việc động viên vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lí. .. Vì vậy, cần phát triển phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
- Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Với tinh thần đó, Nhà nước cần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát huy được tiềm năng của mình, đẩy mạnh nền kinh tế hàng hoá một cách có hiệu quả.
3. Đẩy mạnh và tổ chức tốt phân công lao động xã hội.
Thực trạng của sự phân công lao động xã hội ở nước ta hiện nay còn ở trình độ thấp, có nhiều vấn đề bất hợp lý như: tỷ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ quá cao; phân bố lao động chưa hợp lý giữa các vùng, giữa các ngành kinh tế, giữa lao động sản xuất và dịch vụ... Vì vậy, để tiến hành phân công lao động xã hội một cách hợp lý thì Nhà nước phải có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi và tổ chức một cách có quy hoạch trong phạm vi từng ngành, từng vùng và cả nước. Mặt khác, ở từng ngành, từng địa phương, cơ sở và người lao động cần tạo mọi điều kiện tìm việc làm, tiến hành việc phân công lao động tại chỗ là chủ yếu.
Trước mắt, cần tập trung đẩy mạnh sự phân công lao động trong nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương V (khoá IX), nhằm khai thác hợp lý các tiềm năng to lớn trong nông nghiệp (về lao động, vốn, thị trường) tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá phục vụ cho nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
Đẩy mạnh quá trình tham gia vào phân công lao động quốc tế bằng nhiều hình thức thích hợp.
4. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ vào sản xuất
Khoa học và công nghệ tiên tiến là một yếu tố quan trọng đối với phát triển kinh tế hàng hoá. Bởi vì, chính nó làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng hàng hoá lớn với chất lượng cao, giá thành hạ. Do đó, nó thoả mãn nhu cầu đa dạng và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Để thực hiện được giải pháp này, cần phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh, tiếp thu thành tựu khoa học thế giới, lựa chọn và làm chủ công nghệ chuyển giao và Việt Nam, từng bước đưa công nghệ nước ta đạt trình độ trung bình của khu vực; bước đầu ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50557.doc