MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LÝ THUYẾT SẢN XUẤT. 1
1. Sản xuất là gì? . . 1
1.1 Yếu tố đầu vào (y ếu tố sản xuất) và y ếu tố đầu ra (sản phẩm) . 1
1.2 Hàm sản xuất . . 1
2. Năng suất biên và năng suất trung bình . . 2
2.1 Năng suất biên (MP) . . 2
2.2 Quy luật năng suất biên giảm dần . . 3
2.3 Năng suất trung bình (AP) . 3
2.4. Mối quan hệ giữa đường sản lượng, MP, AP . 4
2.5Tác động của tiến bộ công nghệ đến sản lượng . 5
3. Đường đẳng lượng . . 5
3.1 Đường đẳng lượng . 5
3.2 Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) . 6
3.3 Mối quan hệ giữa tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) và năng suất biên (MP). 6
4. Một số hàm sản xuất thông dụng và đường đẳng lượng tương ứng. 7
4.1 Hàm sản xuất tuyến tính. 7
4.2 Hàm sản xuất với tỷ lệ kết hợp cố định . 8
4.3 Hàm sản xuất COBB-DOUGLAS . . 8
5. Hiệu suất theo quy mô . . . 9
6. Đường đẳng phí . 10
7. Nguyên tắc tối đa hoá sản lượng hay tối thiểu hoá chi phí . 11
7.1 Nguyên tắc tối đa hoá sản lượng . 11
7.2 Nguyên tắc tối thiểu hoá chi phí sản xuất . 11
CHƯƠNG 2: PHÁT TRIỂNNGUỒN NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔNVIỆT NAM HIỆN NAY . 12
1. Thực trạng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn hiện nay . 12
1.1. Thực trạng chung . 12
1.2. Công tác dạy nghề. 14
1.3. Thực trạng tuyển sinh ở bậc Đại học ngành nông nghiệp . 15
1.4. Xu hướng rời bỏ ngành . 16
2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn Việt nam
hiện nay . . . 17
2.1. Công tác dạy nghề. 17
2.2. Chính sách đào tạo ở các Trường Đại học . . 18
2.3. Y tế . . . 19
KẾT LUẬN . . . 20
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2206 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn Việt nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếu tố sản xuất nào đó là như nhau. Năng suất biên giảm dần là kết quả của việc hạn
chế sử dụng các đầu vào cố định khác. Quy luật năng suất biên giảm dần tác động
đến hành vi và quyết định của doanh nghiệp trong việc lựa chọn các yếu tố sản xuất
để tăng năng suất, giảm chi phí và tối đa hoá lợi nhuận.
2.3 Năng suất trung bình (AP)
Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất nào đó được tính bằng cách lấy
tổng sản lượng chia cho số lượng yếu tố sản xuất đó.
Công thức tính năng suất trung bình:
L
qAPL và K
qAPK , trong đó: APL và
APK lần lượt là năng suất trung bình của lao động và của vốn.
4
Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất giảm xuống khi năng suất biên
thấp hơn năng suất trung bình và ngược lại năng suất trung tăng lên khi năng suất
biên lớn hơn năng suất trung bình.
2.4. Mối quan hệ giữa đường sản lượng, MP và AP
- Ở những đơn vị lao động đầu tiên, tổng sản lượng tăng rất nhanh nên độ dốc
của đường này tăng dần và như vậy đường năng suất biên dốc lên. Khi số lao động
lớn hơn L1, tổng sản lượng tăng chậm dần, độ dốc của đường tổng sản lượng giảm
nên năng suất biên giảm và đường năng suất biên dốc xuống. Sau đó đường tổng sản
lượng đạt cực đại, điều này cũng có nghĩa là việc tăng thêm số lao động không làm
tăng thêm sản lượng. Lúc này năng suất biên bằng không và đường năng suất biên
cắt trục hoành. Sau đó sản lượng giảm xuống, đường tổng sản lượng có độ dốc âm
nên năng suất biên âm.(Như đồ thị trên).
5
- Trên đường tổng sản lượng q, hãy chọn một điểm bất kỳ và kẻ một đường
thẳng từ gốc tọa độ đến điểm này. Ta có thể dễ dàng thấy năng suất lao động trung
bình của số lao động ứng với điểm này chính là độ dốc của đường thẳng vừa kẻ. Độ
dốc của đường thẳng này tăng dần khi số lao động tăng lên cho đến L2. Tại L2,
đường thẳng kẻ từ gốc tọa độ sẽ tiếp xúc với đường tổng sản lượng. Như vậy, tại L2
năng suất lao động trung bình sẽ bằng với năng suất lao động biên. Với số lao động
thấp hơn mức L2, độ dốc của đường thẳng kẻ từ gôc tọa độ sẽ nhỏ hơn độ dốc của
đường tổng sản lượng q nên AP < MP. Khi đó năng suất trung bình tăng lên nếu gia
tăng thêm số lượng lao động.
Ở các điểm bên phải L2 thì AP > MP. Do đó năng suất trung bình giảm dần khi
gia tăng thêm số lao động. Tại điểm MP cắt AP thì AP là cực đại.
Mối quan hệ giữa MP và AP có một ý nghĩa quan trọng trong quản lý kinh tế và
quản trị doanh nghiệp. Nguyên lí này ngụ ý rằng doanh nghiệp, địa phương cũng như
một quốc gia phải tuyển mộ thêm người trên nguyên tắc là người mới bao giờ cũng
phải có năng lực cao hơn mức trung bình của số người trước đây để làm tăng năng
suất trung bình hay làm tăng chất lượng làm việc.
2.5. Tác động của tiến bộ công nghệ đến sản lượng
Mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu vào và sản lượng được quyết định bởi
công nghệ sản xuất. Hay nói cách khác, công nghệ sản xuất là cách thức sản xuất ra
hàng hoá - dịch vụ. Công nghệ được cải tiến khi có những phát minh khoa học mới
được áp dụng vào sản xuất. Công nghệ tiến bộ sẽ giúp sử dụng tài nguyên hiệu quả
hơn. Điều này có nghĩa là công nghệ mới có thể giúp sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn
với cùng số lượng các yếu tố đầu vào như trước hay thậm chí ít hơn. Với công nghệ
mới, máy móc thiết bị có năng suất cao hơn và công nhân có thể đạt năng suất cao
hơn. Những điều này làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Vì vậy, công nghệ
sản xuất thường được xem như là một yếu tố phản ánh trình độ phát triển của nền
kinh tế về phương diện sản xuất.
3. Đường đẳng lượng
3.1 Đường đẳng lượng
6
Các kết hợp của các yếu tố đầu vào tạo ra cùng một sản lượng sẽ được biểu diễn
trên một đường đẳng lượng.
Đường đẳng lượng cho biết các kết hợp khác nhau về mặt số lượng của vốn (K)
và lao động (L) để sản xuất ra một số lượng sản phẩm nhất định q0 nào đó.
Phương trình của đường đẳng lượng:
0, qLKf hay 50 , LqgK
Các đặc điểm của đường đẳng lượng:
- Tất cả những phối hợp khác nhau giữa vốn và lao động trên một đường đẳng
lượng sẽ cho ra một mức sản lượng như nhau.
- Tất cả những phối hợp về mặt số lượng của vốn và lao động nằm trên đường
đẳng lượng phía trên (phía dưới) mang lại mức sản lượng cao hơn (thấp hơn).
- Đường đẳng lượng dốc xuống về hướng bên phải và lồi về phía gốc toạ độ.
- Những đường đẳng lượng không bao giờ cắt nhau.
Trên một hệ trục ta có thể vẽ ra rất nhiều đường đẳng lượng tuỳ theo sản lượng.
Các nhà sản xuất sẽ linh hoạt sử dụng những kết hợp đầu vào tạo ra cùng một sản
lượng nhưng họ sẽ chọn tập hợp có chi phí thấp nhất khi xét đến yếu tố giá của các
đầu vào.
3.2 Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS)
Khi di chuyển dọc trên một đường đẳng lượng, ta thấy có sự thay thế giữa các
yếu tố sản xuất để tạo ra một sản lượng không đổi. Để đo lường mức độ thay thế giữa
vốn và lao động, ta có khái niệm tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS). Tỷ lệ thay thế
kỹ thuật biên của lao động cho vốn là số đơn vị vốn phải bớt đi để tăng thêm một
đơn vị lao động mà không làm thay đổi tổng sản lượng.
Công thức tính tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên:
00 qqqq
LchoK dL
dK
L
KMRTS
Trong đó: MRTSL cho K là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn. Ký
hiệu q = q0 cho ta thấy là việc tính toán tỷ lệ thay thế biên được thực hiện trên đường
7
đẳng lượng q0. Dấu (-) trong đẳng thức giữ cho tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên luôn có
giá trị dương. Vì vậy, tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên cho biết độ lớn của sự thay thế giữa
vốn và lao động. Căn cứ vào công thức này ta có thể thấy nghịch dấu với độ dốc của
đường đẳng lượng tại một điểm nào đó chính là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao
động cho vốn tại điểm đó. Đó là vì q0 = f(K, L) nên có thể suy ra phương trình đường
đẳng lượng là K = g(q0, L). Do đó: dL
dKMRTS hay chính là nghịch dấu với độ dốc
của đường đẳng lượng.
3.3 Mối quan hệ giữa tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) và năng suất
biên (MP).
Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên có quan hệ chặt chẽ với năng suất biên của lao động
và vốn.
Khi giảm sử dụng yếu tố đầu vào K một số lượng dK, sản lượng giảm đi một
lượng tương ứng là dK x MPK. Để cho sản lượng không đổi, lượng giảm sút này của
sản lượng sẽ phải được bù đắp bằng cách sử dụng thêm yếu tố đầu vào L một lượng
là dL thì sản lượng sẽ tăng thêm một lượng là dL x MPL. Do đó ta có:
-dK x MPK = dL x MPL => MRTSdL
dK
MP
MP
K
L
Như vậy, tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn bằng với tỷ số giữa
năng suất lao động biên (MPL) và năng suất vốn biên (MPK). Rõ ràng là MRTS tăng
lên khi năng suất lao động biên tăng lên (do lượng lao động giảm đi) hay do năng
suất biên của vốn giảm đi (do lượng vốn tăng lên) và ngược lại.
4. Một số hàm sản xuất thông dụng và đường đẳng lượng tương ứng
4.1 Hàm sản xuất tuyến tính
bLaKq 0, ba . Với hàm sản xuất này, khi vốn hay lao động tăng thêm
một đơn vị thì sản lượng sẽ tăng thêm một lượng tương ứng là a hay b đơn vị. Do
vậy, năng suất biên của vốn và lao động lần lượt là các hệ số a và b. Năng suất biên
của vốn và lao động không thay đổi khi số vốn và lao động được sử dụng tăng thêm.
Do đó, đường biểu diễn mối quan hệ giữa sản lượng và số lượng các đầu vào (vốn và
lao động) là các đường thẳng dốc lên với độ dốc là a hay b.
8
Do phương trình của đường đẳng lượng ứng với hàm sản xuất tuyến tính là:
bLaKq 0 nên La
b
a
qK . Như vậy, đường đẳng lượng của hàm số này là
những đường thẳng song song có độ dốc
a
b
.
Trong trường hợp hàm sản xuất này, vốn và lao động có thể hoàn toàn thay thế
cho nhau. Nhà sản xuất có thể chỉ sử dụng vốn hay lao động cho sản xuất tuỳ thuộc
vào giá của chúng.
4.2 Hàm sản xuất với tỷ lệ kết hợp cố định
bLaKq ,min ; 0, ba . Phương trình hàm sản xuất này cho biết sản lượng
bằng với giá trị nhỏ nhất của hai giá trị trong ngoặc.
- Nếu aK < bL thì q = aK. Trong trường hợp này, vốn là yếu ràng buộc đối với
sản lượng. Việc tăng thêm lao động không làm không làm gia tăng sản lượng nên
MPL = 0. Vốn là yếu tố quyết định.
- Nếu aK > bL thì q = aL. Trong trường hợp này, lao động là yếu ràng buộc đối
với sản lượng. Việc tăng thêm vốn không làm không làm gia tăng sản lượng nên
MPK = 0. Lao động là yếu tố quyết định.
- Khi aK = bL thì cả hai yếu tố K và L được sử dụng một cách hợp lý nhất vì
không có hiện tượng dư thừa vốn hay lao động. Khi đó
a
b
L
K
. Đẳng thức này xảy ra
tại các điểm ở góc của đường đẳng lượng.
Với hàm sản xuất này, vốn và lao động phải được sử dụng với một tỷ lệ nhất
định vì chúng không thể thay thế cho nhau. Mỗi một mức sản lượng đòi hỏi một
phương án kết hợp đặc biệt giữa vốn và lao động. Trong trường hợp này, ta không
thể tạo thêm sản lượng nếu như không đưa thêm vào cả vốn và lao động theo một tỷ
lệ cụ thể.
4.3 Hàm sản xuất COBB-DOUGLAS
ba LcKq ; a,b,c >0.
9
Đây là trường hợp trung gian giữa hai trường hợp trên và cũng là hàm sản xuất
phổ biến nhất được sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu vào
và sản lượng của một quá trình sản xuất.
5. Hiệu suất theo quy mô
Các nhà kinh tế đo lường tác động của sự thay đổi của số lượng yếu tố đầu vào
đến sản lượng thông qua khái niệm hiệu suất theo quy mô. Adam Smith lưu ý rằng
khi số lượng các yếu tố đầu vào cùng tăng lên, thì sẽ xuất hiện việc phân công lao
động và chuyên môn hoá. Điều này làm tăng tình hiệu quả của sản xuất. Kết quả sản
lượng sẽ tăng nhiều hơn gấp đôi. Tuy nhiên, tăng gấp đôi số lượng yếu tố đầu vào thì
việc quản lý sẽ trở nên khó khăn hơn nên hiệu quả của sản xuất sẽ giảm đi.
Sự thay đổi của sản lượng khi số lượng các yếu tố đầu vào đồng loạt tăng lên
với cùng một tỷ lệ. Giả sử hàm sản xuất có dạng q = f(K,L) và số lượng hai yếu tố
đầu vào được nhân với một số nguyên dương m>1. Khi đó, ta phân loại hiệu suất
theo quy mô của hàm sản xuất này như sau:
- Nếu sản lượng tăng nhiều hơn m lần, ta nói sản xuất có hiệu suất theo quy mô
tăng.
- Nếu sản lượng tăng đúng bằng m lần, ta nói sản xuất có hiệu suất theo quy mô
cố định.
- Nếu sản lượng tăng nhỏ hơn m lần, ta gọi sản xuất có hiệu suất theo quy mô
giảm.
Trong số các loại hiệu suất theo quy mô thì hiệu suất quy mô cố định đóng vai
trò quan trọng nhất trong các lý thuyết kinh tế. Đó không chỉ vì nó phân định ranh
giới giữa hiệu suất quy mô tăng dần và hiệu suất quy mô giảm dần trên phương diện
toán học mà còn có lý do để tin rằng hàm sản xuất có hiệu suất quy mô cố định.
* Mối quan hệ giữa hiệu suất quy mô và năng suất trung bình:
Xem xét sự thay đổi của năng suất lao động trung bình (APL) khi tăng số lượng
các yếu tố đầu vào của các hàm sản xuất có hiệu suất theo quy mô khác nhau.
10
Ta có công thức tính năng suất trung bình:
L
LKf
L
qAPL
,
. Khi tăng vốn và
lao động lên m lần, thì năng suất lao động trung bình trở thành:
mL
mLmKf
L
qAPL
,/ . Khi đó ta có các trường hợp sau:
- Nếu hàm sản xuất có hiệu suất theo quy mô tăng thì: f(mK, mL) > mf(K, L).
Do đó AP/L > APL, nghĩa là khi tăng số lượng các yếu tố đầu vào lên thì năng suất lao
động trung bình cũng tăng lên, làm giảm chi phí để sản xuất ra một đvsp.
- Nếu hàm sản xuất có hiệu suất theo quy mô cố định thì: f(mK, mL) = mf(K,
L). Do đó AP/L = APL, nghĩa là khi tăng số lượng các yếu tố đầu vào lên thì năng suất
lao động trung bình không đổi và như vậy chi phí để sản xuất ra một đvsp sẽ không
đổi.
- Nếu hàm sản xuất có hiệu suất theo quy mô giảm thì: f(mK, mL) < mf(K, L).
Do đó AP/L < APL, nghĩa là khi tăng số lượng các yếu tố đầu vào lên thì năng suất lao
động trung bình sẽ giảm xuống. Điều này có thể làm tăng chi phí để sản xuất ra một
đvsp.
6. Đường đẳng phí
Giả sử một doanh nghiệp dùng một số tiền nào đó, được gọi là tổng chi phí và
được ký hiệu là TC - để mua hay thuê vốn và lao động cho sản xuất.Nếu đơn giá vốn
là v và đơn giá của lao động là w thì doanh nghiệp sẽ sử dụng bao nhiêu vốn và lao
động? Đường đẳng phí sẽ giúp trả lời câu hỏi này.
Đường đẳng phí cho biết các kết hợp khác nhau của số lượng lao động (L) và
vốn (K) có thể mua được bằng một số tiền (tổng chi phí) nhất định ứng với những
mức giá nhất định.
Phương trình đường đẳng phí có dạng: TC = vK + wL, trong đó TC là tổng chi
phí, v là đơn giá vốn, w là đơn giá lao động, vK là chi phí cho vốn, wL là chi phí cho
lao động. Phương trình này cho biết tổng chi phí cho vốn (vK) và cho lao động (wL)
phải bằng với tổng chi phí (TC).
Sự đánh đổi giữa vốn và lao động được biểu diễn bằng độ dốc của đường đẳng
phí. Nếu gọi S là độ dốc của đường đẳng phí, ta có thể viết:
11
v
w
wTC
vTCS
/
/
S bằng với tỷ số giữa đơn giá của lao động và vốn và không phụ thuộc vào tổng
chi phí. Do đó, khi giá của các yếu tố đầu vào thay đổi thì độ dốc của đường đẳng phí
thay đổi.
7. Nguyên tắc tối đa hoá sản lượng hay tối thiểu hoá chi phí
7.1 Nguyên tắc tối đa hoá sản lượng
Nếu người tiêu dùng muốn tối đa hoá hữu dụng trong điều kiện ràng buộc của
thu nhập khả dụng thì nhà sản xuất cũng muốn tối đa hoá sản lượng trong điều kiện
ràng buộc của chi phí. Doanh nghiệp thường muốn đạt được sản lượng tối đa với chi
phí nhất định.
Để tối đa hoá sản lượng doanh nghiệp sẽ lựa chọn tập hợp vốn và lao động mà
tại đó sử dụng hết số tiền TC sẳn có và tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên bằng với tỷ giá
của lao động và vốn.
7.2 Nguyên tắc tối thiểu hoá chi phí sản xuất
Một cách khác để tối đa hoá lợi nhuận là tìm kiếm cách thức sản xuất ra một
mức sản lượng nhất định với chi phí thấp nhất. Đó là vì giảm một đồng chi phí có
nghĩa là tăng một đồng lợi nhuận, nếu doanh thu không đổi. Do đó, sản xuất với chi
phí thấp sẽ mang lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp.
Để tối thiểu hoá chi phí sản xuất để sản xuất ra một sản lượng nhất định nào đó,
nhà sản xuất sẽ chọn sản xuất tại điểm mà tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (giữa lao động
và vốn) bằng với tỷ lệ đơn giá lao động và đơn giá vốn.
Công thức thể hiện nguyên tắc tối thiểu hoá chi phí:
v
MP
w
MP KL
12
CHƯƠNG 2:
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
VIỆT NAM HIỆN NAY
1. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
1.1. Thực trạng chung
Nội tại vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở nước ta vẫn còn chứa
đựng nhiều mảng yếu. Trong quá trình tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, những mảng yếu đó càng bộc
lộ rõ hơn. Một trong những mảng yếu đó là chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển. Những cơ hội đem lại cho người lao động trong lộ trình thực
hiện các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là việc làm tăng do
sự xuất hiện nhiều nghề mới ở các lĩnh vực mới, khu vực mới; thị trường lao động
phát triển, sự di chuyển lao động giữa các vùng và lãnh thổ, giữa các doanh nghiệp...
tăng cao. Người lao động Việt Nam vừa có thể tham gia sâu vào quá trình phân công
lao động quốc tế vừa có cơ hội để tiếp nhận khoa học và công nghệ tiên tiến. Chúng
ta đang có một lực lượng lao động xã hội rất lớn. Nguồn lao động của Việt Nam
hằng năm được bổ sung nhiều nhưng cơ hội để họ có được việc làm bảo đảm thu
nhập ổn định đời sống lại không dễ dàng. Số lao động đã được đào tạo không chỉ
chiếm tỷ lệ thấp mà còn bất cập do chất lượng đào tạo kém; cơ cấu đào tạo bất hợp
lý, mất cân đối giữa đào tạo nghề và đào tạo ở cấp bậc đại học, cao đẳng. Thêm nữa,
số đã qua đào tạo đối với thanh niên ở khu vực nông thôn lại chiếm tỷ lệ rất thấp so
với khu vực đô thị. Quá trình đô thị hóa nông thôn đã làm gia tăng áp lực về thiếu
việc làm cho khu vực này thêm trầm trọng; đồng nghĩa với việc gia tăng tỷ lệ chất
lượng nguồn nhân lực thấp.
Mâu thuẫn nội tại chất lượng nguồn nhân lực nông thôn nước ta càng phát
sinh thêm do chúng ta chưa tìm ra được lối thoát về đào tạo để nâng cao chất lượng
nhân lực cho khu vực này. Hiện nay, hơn 78% lao động ở nước ta chưa qua đào tạo,
trong số đó 63% là lao động ở địa bàn nông nghiệp, nông thôn. Đây thực sự là một
số liệu đáng để chúng ta phải suy nghĩ và trăn trở.
Đặc điểm dễ nhận thấy ở người lao động của một nền sản xuất nông nghiệp có
trình độ thấp ở Việt Nam như hiện nay là vẫn mang nặng tính chất của người sản
xuất nhỏ lẻ, phân tán, năng lực ứng dụng khoa học - công nghệ và các tiến bộ kỹ
thuật vào thực tiễn rất hạn chế, nên đa số họ là những người thụ động, tư duy cạnh
tranh kém, tính tự do và manh mún cao. Từ đó thu nhập của họ thấp, khả năng
13
chuyển đổi nghề khi bị mất đất hoặc cơ hội tham gia vào môi trường lao động công
nghiệp đòi hỏi các kỹ năng và tính kỷ luật lao động cao là không dễ dàng.
Hiện nay nước ta có 10 triệu hộ nông dân với hơn 30 triệu lao động trong độ
tuổi, nhưng mới có 17% trong số đó được đào tạo chủ yếu thông qua các lớp tập
huấn khuyến nông sơ sài. Trong số 16,5 triệu thanh niên nông thôn đang cần có việc
làm ổn định thì chỉ có 12% tốt nghiệp phổ thông trung học; 3,11% có trình độ
chuyên môn kỹ thuật từ trung cấp trở lên (thấp hơn 4 lần so với thanh niên đô thị).
Với trình độ như vậy họ khó có thể áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông
nghiệp có ứng dụng công nghệ cao, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm hàng hóa nông
sản trong khu vực và cũng khó có thể tìm được việc làm ở các doanh nghiệp đòi hỏi
lao động phải qua đào tạo và đạt trình độ tay nghề cao. Do đó, nhiều nơi sau khi
chuyển ruộng đất cho sản xuất công nghiệp, nếu doanh nghiệp có ưu tiên tuyển lao
động trẻ cho các hộ mất đất thì họ cũng khó có thể đảm nhận công việc kỹ thuật để
đạt được mức thu nhập cao, nên dù có những cơ hội chuyển đổi nghề, người lao động
nông thôn (bao gồm cả thanh niên đến tuổi lao động và người chủ gia đình bị mất
đất) đều khó tiếp nhận những nghề mới. Tình trạng nguồn lao động trình độ thấp,
chưa được đào tạo nghề (cả nghề nông và phi nông) cùng với sự thiếu kiến thức, tác
phong sống và tính kỷ luật, kỹ năng lao động trong lao động công nghiệp kém nên
rất khó đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng cao trước tốc độ của công nghiệp hóa
và hội nhập. Từ đó có thể thấy rằng, thu nhập của người lao động ở khu vực nông
thôn thấp và ngày càng cách xa ở khu vực đô thị. Những điểm vừa nêu trên đây là
một rào cản và thách thức lớn nhất trong giai đoạn hiện nay đối với người lao động
khu vực nông thôn.
Cũng cần phải nói đến một thực trạng có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng
nguồn nhân lực nông thôn là đội ngũ cán bộ cơ sở. Theo số liệu điều tra thống kê
năm 2006, cả nước có 81.300 công chức xã. Về trình độ học vấn: có 0,1% chưa biết
chữ; 2,4% có trình độ tiểu học; 21,5% trung học cơ sở và 75% trung học phổ thông.
Về trình độ chuyên môn: 9% cao đẳng, đại học; 39,4% trung cấp; 9,8% sơ cấp;
48,7% chưa đào tạo. Về trình độ quản lý nhà nước: có tới 55% chưa qua bất kỳ lớp
học quản lý nhà nước nào; 85% không hiểu biết gì về vi tính. ở vùng nào cũng có cán
bộ chưa qua đào tạo. Tại các tỉnh vùng núi Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ tỷ lệ
còn cao hơn. Đó là lý do chủ yếu dẫn đến tình trạng trì trệ, yếu kém, thiếu khả năng
vận động tổ chức, chỉ đạo quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương,
cơ sở. Tình trạng lúng túng trong giải quyết các công việc phát sinh từ thực tế, thậm
chí còn làm sai lệch chính sách, pháp luật không phải là hiện tượng cá biệt. Lực
lượng khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở nông thôn hiện chỉ chiếm 0,5% - 0,6% lao
động trực tiếp ở khu vực này... Bất cập nữa là về chính sách sử dụng và thu hút cán
14
bộ, người lao động có trình độ cao cũng đang bộc lộ sự bảo thủ, lạc hậu, chậm đổi
mới, không thỏa mãn được các yêu cầu cơ bản, tối thiểu hiện nay, ít nhất là về lợi
ích, vì vậy không thu hút được lực lượng lao động có trình độ cao về làm việc ở địa
phương, thậm chí còn khó ”giữ chân” được những cán bộ khoa học - kỹ thuật đang
công tác tại các cơ sở ở nông thôn. Tình trạng này càng làm cho chất lượng nguồn
nhân lực nông thôn trở nên thấp kém hơn.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn thấp, ảnh
hưởng lớn đến tiến trình phát triển chính là do môi trường kinh tế, văn hóa - xã hội
nông thôn chưa thực sự thay đổi lớn theo hướng phát triển bền vững trên lộ trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình đô thị hóa nông thôn diễn ra với tốc độ cao
nhưng mang nặng tính tự phát nên công nghiệp - dịch vụ nông thôn khó phát triển;
môi trường tự nhiên bị phá vỡ, sinh thái bị mất cân bằng; thu nhập của nông dân tuy
được cải thiện nhưng còn thấp; sự chênh lệch giữa các vùng, giữa nông thôn và đô
thị ngày càng cách xa. Tác động của quá trình mất đất và sự thiếu chuẩn bị việc
chuyển đổi nghề cho nông dân đã thúc đẩy tình trạng di dân tự do tìm việc làm ở đô
thị hoặc các khu công nghiệp các tỉnh phía Nam. Nhiều nơi, lực lượng lao động trên
đồng ruộng đa số là phụ nữ, người già và trẻ em. Từ đó, dẫn đến tình trạng sản xuất
nông nghiệp bấp bênh; thu nhập từ lao động nông nghiệp không có lãi nên người lao
động dễ dàng coi nhẹ sản xuất trên đồng ruộng. Như vậy có thể thấy khá rõ các yếu
tố: môi trường xã hội và tự nhiên nông thôn suy giảm; trình độ kiến thức, kỹ năng lao
động của người lao động nông thôn thấp; lực hút cán bộ khoa học - kỹ thuật khu vực
nông nghiệp mỏng manh và trình độ quản lý, tổ chức của đội ngũ cán bộ cơ sở (thôn,
xã) yếu kém làm cho chất lượng nguồn nhân lực khu vực nông thôn - chìa khóa mở
ra sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gặp
nhiều thách thức và trở ngại.
1.2. Công tác dạy nghề
Những năm gần đây công tác dạy nghề đã có nhiều tiến triển, nhiều lao động đã
ý thức được việc học nghề và số người tham gia các khoá đào tạo tăng rõ rệt. Số lao
động qua đào tạo ngày càng tăng đã góp phần giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ
cấu lao động theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động ngành nghề phi
nông nghiệp và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về lao động. Quy mô đào tạo dạy nghề
trong những năm qua tăng nhanh, chỉ tiêu đào tạo bình quân hàng năm tăng 20%.
Quy mô tuyển sinh dạy nghề trong 3 năm - từ năm 2006 đến 2008 là 4,3 triệu người
(năm 2008 là 1,54 triệu người), trong đó lao động nông thôn chiếm 52%. Tuy nhiên,
các ngành nghề nông - lâm - ngư nghiệp chỉ chiếm 5% số học sinh. Số lao động nông
thôn được học nghề ngắn hạn và sơ cấp nghề bằng chính sách hỗ trợ theo Quyết định
15
81/2005/QĐ-TTg giai đoạn 2006-2008 là 990.000 người. Nhiều địa phương đã
khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức đoàn thể dạy nghề cho lao động
nông thôn, nhất là lứa tuổi thanh niên nhằm phát triển các nghề truyền thống. Bình
quân hàng năm, các làng nghề đã đào tạo được thêm việc làm cho khoảng 250.000
lao động. Riêng các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
trong 3 năm từ năm 2006-2008 đã tuyển sinh được 120.322 người, trong đó quy mô
tuyển sinh năm 2008 là 48.000 học sinh, lao động nông thôn chiếm trên 85%.
Không thể phủ nhận được những thành quả của công tác đào tạo nghề cho lao
động nông thôn mang lại. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận một thực tế là thời gian
qua, số lượng và chất lượng dạy nghề cho lao động nông thôn, đặc biệt là dạy nghề
nông nghiệp cho lao động nông thôn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó,
năng lực hệ thống các trường đào tạo và dạy nghề còn nhiều hạn chế. Mạng lưới cơ
sở dạy nghề nói chung tuy đã phát triển nhưng lại tập trung chủ yếu ở vùng đô thị. Ở
khu vực nông thôn và miền núi, vùng sâu vùng xa, số lượng cơ sở dạy nghề rất ít.
Đến nay, cả nước còn 253 huyện chưa có trung tâm dạy nghề; 31% phòng học và
20,7% số nhà xưởng thực hành của các cơ sở dạy nghề là nhà cấp 4, nhà tạm, tập
trung chủ yếu ở các cơ sở đào tạo do địa phương quản lý, các tỉnh khó khăn, huyện
nghèo. Đội ngũ giáo viên dạy nghề cho lao động nông thôn còn thiếu về số lượng, cơ
cấu ngành nghề đào tạo chưa phù hợp, chất lượng còn hạn chế. Hiện nay, có 42 trung
tâm dạy nghề không có giáo viên cơ hữu; 39 trung tâm dạy nghề chỉ có 1 giáo viên
cơ hữu; 100 trung tâm có từ 2-3 giáo viên cơ hữu. Ngoài ra, các cán bộ quản lý dạy
nghề ở một số cơ sở dạy nghề chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, thiếu kinh
nghiệm quản lý.
1.3. Thực trạng tuyển sinh ngành nông nghiệp
Tuy thị trường lao động đang “khát” nhân lực có đào tạo ở khối ngành nông -
lâm - thủy sản, tỷ lệ lao động có việc làm trong lĩnh vực này lên đến 50 – 70%,
nhưng dường như không nhiều sinh viên mặn mà với ngành học này.
Mùa tuyển sinh ĐH, CĐ 2009, các trường có đào tạo ngành nông - lâm - thuỷ
sản lâm vào tình trạng “đói” sinh viên, nhiều ngành 2 - 3 năm liên tiếp không có
người học và dần “chết yểu” dù điểm trúng tuyển không cao, nhiều trường có điểm
chuẩn bằng điểm sàn của Bộ.
Trường “chờ” sinh viên
Hai tuần đã trôi qua, trong khi các trường đã ổn định học tập, thì khoa Nông
học (ĐH Nông lâm Huế) vẫn mỏi mòn chờ tân sinh viên nhập học.
Năm học mới 2009, khoa có 250 chỉ tiêu ở
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn Việt nam hiện nay.pdf