MỤC LỤC
MỤC LỤC . 1
LỜI MỞ ĐẦU . 2
I. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬVÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠBẢN CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC: 3
1. Điều kiện lịch sử:. 3
2. Những đặc điểm cơbản:. 3
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HEGEL - NHỮNG GIÁ TRỊVÀ HẠN CHẾ: .6
1. Phép biện chứng duy tâm khách quan vềý niệm tuyệt đối: . 6
2. Phép biện chứng duy tâm vềtriết học: . 7
3. Phép biện chứng duy tâm trong khoa học logic: . 8
4. Phép biện chứng duy tâm vềnhà nước:. 11
5. Phép biện chứng duy tâm của Hegel: . 13
KẾT LUẬN . 20
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9371 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng duy tâm của Hegel - Những giá trị và hạn chế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
loại, mà lịch sử nhân loại là giai đoạn cao nhất của ý
niệm tuyệt đối. Thật ra, triết học là ngành khoa học nghiên cứu ý niệm tuyệt
đối.
- Hegel là người có công khôi phục lại quan điểm triết học là khoa học của mọi
khoa học. Hegel muốn xây dựng triết học mang tính vạn năng, đóng vai trò nền
tảng cho tất cả các ngành khoa học, nghĩa là toàn bộ khoa học cụ thể phải nằm
trong triết học. Quan điểm này là quan điểm sai lầm và sau này đã gợi mởi cho
Marx và Engels một cách hiểu mới về vai trò của triết học với khoa học cụ thể.
Trong tư tưởng của Hegel có một điểm đáng lưu ý là triết học là khoa học của
tất cả mọi khoa học. Quan niệm này ra đời trong thời buổi trình độ nhận thức
con người chưa cao nên triết học là một lý luận mang tính phổ quát, bao trùm
và thậm chí là duy nhất. Nó có tham vọng giải thích tất cả lĩnh vực khoa học cụ
thể mà trong thời kỳ đó còn mang tính chất tảng mạn và sơ khai. Thời kỳ đó,
khoa học chưa phân ngành, người ta không thể tìm thấy tri thức về khoa học tự
nhiên trong khoa học cụ thể như ngày hôm nay mà chỉ có thể tìm thấy những tư
tưởng khoa học tự nhiên trong hệ thống triết học tự nhiên của các nhà triết học.
Từ đó nảy sinh quan điểm cho rằng triết học là khoa học của tất cả mọi khoa
Giaûng vieân:TS.Buøi Xuaân Thanh Sinh vieân: Traàn Thò Thanh Hoøa
Pheùp bieän chöùng duy taâm cuûa Hegel - Nhöõng giaù trò vaø haïn cheá Trang 8/21
học, còn các nhà triết học là các nhà thông thái, không chỉ am hiểu một lĩnh vực
mà am hiểu mọi lĩnh vực khác nhau của nhận thức.
Quan điểm này bắt đầu từ Hy Lạp cổ đại, được khẳng định qua các thời đại lịch
sử và đến Hegel là toan tính cuối cùng. Đến tận nửa đầu thế kỷ XIX, Hegel vẫn
cho rằng triết học vẫn là môn học mang tính phổ quát và bao trùm. Quan điểm
đó là quan điểm sai lầm, gợi mở cho Marx cách hiểu mới về triết học và liên
minh của triết học khoa học tự nhiên. Đến giữa thế kỷ XIX, Marx và Engels
mới xóa bỏ quan điểm này, chỉ ra rằng triết học là ngành khoa học độc lập, có
đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Chính từ đó, người ta đã biến triết học
thành đặc quyền của một số nhà thông thái, tách lý luận ra khỏi thực tiễn và
biến lý luận thành nhận thức để nhận thức, tư duy để tư duy, tức là nhận thức tự
thân.
- Triết học là tinh hoa của thời đại thể hiện ở dạng tinh thần. Lịch sử triết học đã
khái quát lại toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại. Hệ thống triết học cuối cùng
trong lịch sử là kết quả của các hệ thống triết học trước đó. Trong quan điểm
này phảng phất sự ngạo mạn của Hegel. Theo Hegel, triết học là sự thể hiện
thời đại mình ở dạng tinh thần và là tinh hoa của thời đại. Ông đặc biệt đề cao
vai trò của triết học theo nghĩa rộng. Ông nói các trường phái triết học tưởng là
khác nhau nhưng thật ra là một vì tất cả chúng đều là triết học và mang tính kế
thừa. Từ đó khẳng định hệ thống triết học cuối cùng trong lịch sử là kết quả của
toàn bộ hệ thống triết học trước đó, đồng thời tuyên bố triết học của Hegel là
cuối cùng trong lịch sử. Chính quan điểm này mâu thuẫn với phép biện chứng
của Hegel. Vì nếu là biện chứng thì không thể cuối cùng được, không tìm ra
nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng.
Hegel tuyên bố: “Bộ óc của Hegel là vĩ đại nhất trong lịch sử và nhân loại không
thể nào tìm bộ óc nào vĩ đại hơn Hegel được, đồng thời triết học của ông là cuối
cùng trong lịch sử”. Nhưng Hegel đâu biết rằng sau đó chính triết học của Marx và
Engels đã phủ định triết học của Hegel. Đó cũng là lẽ đương nhiên vì theo tinh thần
biện chứng mà Hegel đã chỉ ra.
3. Phép biện chứng duy tâm trong khoa học logic:
Để xây dựng logic học mới với tính cách là logic biện chứng, Hegel đã nghiên cứu
toàn bộ quá trình phát triển của logic hình thức cổ điển trước đây. Tuy không phủ
nhận ý nghĩa và vai trò của logic hình thức trong lịch sử nhận thức nhưng Hegel đã
chỉ ra những hạn chế của nó. Hegel phê phán logic học cũ ở các khía cạnh:
- Đối tượng nghiên cứu.
- Tính bất động của các phạm trù quy luật của nó.
Giaûng vieân:TS.Buøi Xuaân Thanh Sinh vieân: Traàn Thò Thanh Hoøa
Pheùp bieän chöùng duy taâm cuûa Hegel - Nhöõng giaù trò vaø haïn cheá Trang 9/21
Logic học là bộ môn khoa học nghiên cứu về tư duy. Trong thời kỳ cổ đại đã có
hình thức logic học của Aristote, đến thời cận đại phát triển thành logic toán gắn
liền với tên tuổi của Leibniz. Hegel phê phán logic cũ vì logic học nghiên cứu về tư
duy, còn logic trước đây là logic học hình thức nghiên cứu về tư duy hình thức chủ
quan, nghĩa là tư duy trong trạng thái bất biến, cô lập, không sinh thành, không biến
đổi và không phát triển. Vì vậy logic học trước đây chưa đầy đủ, chưa đáp ứng
được với sự phát triển của triết học và khoa học. Trên cơ sở đó, Hegel đã sáng tạo
ra một hệ thống logic học mới - logic biện chứng nhằm đem lại cho con người một
cách hiểu mới về bản chất của tư duy và trang bị cho các ngành khoa học một
phương pháp nhận thức mới, đó chính là phương pháp biện chứng. Phép biện
chứng của Hegel là một trong những thành tựu quý giá nhất của triết học cổ điển
Đức nói riêng và lịch sử triết học trước Marx nói chung. Tuy nhiên, Hegel đã sáng
tạo logic biện chứng trên lập trường duy tâm, ông đã xuất phát từ cơ sở đồng nhất
giữa tư duy và tồn tại khi coi những quy luật của tự nhiên, của lịch sử cũng là
những quy luật của tư duy.
Phương pháp tư duy là phương thức, cách thức nhìn nhận của đối tượng để hình
thành nên hiểu biết về chúng trong đầu óc con người. Phương pháp tư duy hình
thức là phương pháp tư duy nhận thức của sự vật trong trạng thái bất biến, trạng
thái tĩnh và cô lập. Còn phương pháp tư duy biện chứng là phương pháp tư duy
khảo sát đối tượng trong sinh thành, biến đổi và phát triển. Chính Hegel là người đã
khai sinh ra phương pháp tư duy biện chứng này, trở thành phương pháp khoa học,
làm công cụ khoa học khám phá ra chân lý. Theo Hegel, tư duy ở đây hoàn toàn
không được xem xét như là sản phẩm đặc biệt của bộ óc con người như là nét đặc
thù của con người. Hegel đồng nhất tư duy với hoạt động của ý niệm tuyệt đối với
tư cách là cơ sở của mọi sự vật, hiện tượng của thế giới. Hơn nữa tư duy đồng thời
vừa là khách thể, vừa là chủ thể, nó vừa là những gì đang tư duy, vừa là những gì
được tư duy. Tuy nhiên, Hegel cũng thừa nhận cảm giác, trực giác, biểu tượng,
mong muốn là những hình thức của ý thức con người. Nhưng tất cả chúng đối với
ông chỉ là những thể hiện không đầy đủ, là những nét hoa văn bên ngoài của tư
duy, tư tưởng. Vì vậy, vật chất theo ông cũng thuộc về tư duy, tư tưởng mà thôi.
Hegel cho rằng, đối tượng đúng đắn của tư tưởng chính là bản thân tư tưởng vì tư
tưởng là chân lý của mọi sự vật, cho nên sự phát triển cũng cần phải được tiến hành
theo những quy luật của tư tưởng, theo những quy luật của logic học. Chủ nghĩa
duy tâm tuyệt đối của Hegel vì vậy còn được xác định như là chủ nghĩa duy tâm
logic. Ý niệm tuyệt đối là tư duy về tư duy, đồng thời cũng có nghĩa là tự nhận
thức, là sự mở rộng những xác định logic vốn có đối với nó.
Hegel cho rằng bản thân tư duy của loài người luôn sinh thành, biến đổi, phát triển,
logic lại khảo sát tư duy ở trạng thái bất biến và cô lập. Đây là quan niệm sai lầm
của ông. Từ đó ông cho rằng những phạm trù, quy luật của logic học trước đây
mang tính bất biến, không thay đổi cũng là sai lầm thứ hai. Nếu logic cũ khảo sát tư
Giaûng vieân:TS.Buøi Xuaân Thanh Sinh vieân: Traàn Thò Thanh Hoøa
Pheùp bieän chöùng duy taâm cuûa Hegel - Nhöõng giaù trò vaø haïn cheá Trang 10/21
duy ở trạng thái bất biến và cô lập thì logic biện chứng của Hegel nghiên cứu về tư
duy trong trạng thái sinh thành, biến đổi và phát triển. Do đó, những phạm trù, quy
luật logic của Hegel đưa ra cũng nằm trong sự sinh thành, biến đổi và phát triển.
Hegel đã mang lại cho con người một cách hiểu mới về bản chất của tư duy. Trước
Hegel, người ta chỉ hiểu tư duy ở trạng thái bất biến, cô lập, một tư tưởng hoặc
đúng, hoặc sai, không có khả năng thứ ba. Ví dụ nói: đồng dẫn điện thì tư tưởng
này hoặc đúng hoặc sai, nghĩa là tư duy bất biến, không thay đổi. Nhưng Hegel chỉ
ra rằng ngay cả tư duy của con người cũng nằm trong sự sinh thành, biến đổi và
phát triển.
Những phạm trù là những xác định logic này, hơn nữa chúng còn thể hiện sự phát
triển của ý niệm tuyệt đối. Theo Hegel, những phạm trù không phải là sự phản ánh
thế giới hiện thực khách quan mà là những khái niệm thuần túy. Những nguyên lý,
phạm trù của logic học trước đây là bất biến, cô lập và không thay đổi. Hegel lại
cho rằng những phạm trù của tư duy phải mang tính sống động, nó cũng nằm trong
trạng thái sinh thành, biến đổi và phát triển. Như vậy, phép biện chứng là linh hồn
của logic học, nhờ đó logic học trở thành cơ thể sống sống động, không phải bất
động như logic học trước đây. Điều này chứng tỏ rằng Hegel là người đầu tiên đã
trang bị cho khoa học một phương pháp nhận thức mới, đó chính là phương pháp
biện chứng. Theo Hegel, những phạm trù logic không phải là cái gì khác hơn là
những trừu tượng được tách ra từ bản thân hiện thực, cho nên chúng có nội dung
sinh động, phong phú, từ đó tạo nên nội dung sâu sắc của khoa học logic. Tuy
nhiên, dưới góc độ duy tâm, Hegel đã đánh giá những phạm trù cao hơn thế giới
khách quan khi ông coi chúng là những tấm vải mộc, còn mọi hiện tượng, quá trình
của thế giới chỉ là những hoa văn được trang trí trên những tấm vải này.
Hegel đồng nhất khoa học logic với logic học duy tâm. Logic học này sử dụng
những kết quả phát triển của những khoa học tự nhiên. Theo Hegel, những khoa
học này có nhiệm vụ chuẩn bị tài liệu cho logic học nhằm phát hiện những quy luật,
những khái niệm chung. Logic học duy tâm của Hegel đã coi những khoa học này
dưới những hình thức khác nhau và đặt đấu ấn vào chúng. Nó chỉ ra rằng những
quy luật và những khái niệm của các khoa học tự nhiên là sự thể hiện không đầy đủ
của những phạm trù lý tính thuần tuý. Chính trong khoa học logic cũng như logic
học, Hegel đã trình bày một cách đầy đủ và sâu sắc phép biện chứng trên cơ sở duy
tâm. Theo Marx, phép biện chứng của Hegel (hay như chính Hegel gọi là phương
pháp tuyệt đối) là sự trừu tượng của vận động, trừu tượng của phát triển của thế
giới hiện thực khách quan. Phép biện chứng này được Hegel hình dung như là sự
vận động dưới hình thức cực kỳ trừu tượng, sự vận động của lý tính thuần tuý.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hegel đã tạo ra được một lý luận biện chứng
phát triển với tư cách logic học và là phương pháp. Ông đã kết hợp phép biện
chứng và logic học thành một quan niệm thống nhất về logic biện chứng. Phép biện
chứng là linh hồn của logic học, nhờ đó khoa học logic trở thành một cơ thể sống
Giaûng vieân:TS.Buøi Xuaân Thanh Sinh vieân: Traàn Thò Thanh Hoøa
Pheùp bieän chöùng duy taâm cuûa Hegel - Nhöõng giaù trò vaø haïn cheá Trang 11/21
chứ không phải là những phạm trù khô cứng như logic học trước đây. Công lao của
Hegel so với những bậc tiền bối chính là ở chỗ ông đã đưa ra được một sự phân tích
biện chứng, khái quát tất cả những phạm trù quan trọng nhất của triết học và đã
hình thành nên ba quy luật cơ bản của tư duy trên cơ sở duy tâm. Không nghi ngờ
gì nữa có thể khẳng định rằng: "Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải
ở trong tay Hegel tuyệt nhiên không ngăn cản Hegel trở thành người đầu tiên trình
bày một cách bao quát và có ý thức hình thái vận dụng chung của phép biện chứng
đó”.
Dù logic biện chứng duy tâm của Hegel không phải là một khoa học thật sự nhưng
nó có nhiều giá trị to lớn đối với quá trình xây dựng tư duy biện chứng. Do đó, nó
đã làm thay đổi sâu sắc quan niệm của con người về logic học. Chính Hegel là
người đóng công lao to lớn. Giữa thế kỷ XIX, Marx và Engels cải tạo lại phép biện
chứng duy tâm của Hegel và sáng lập ra biện chứng duy vật.
4. Phép biện chứng duy tâm về nhà nước:
Theo Hegel, nhà nước là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Nó ra đời nhằm duy trì,
bảo tồn các gia đình, xã hội và công dân. Nhà nước ra đời từ những mâu thuẫn
trong xã hội nhằm điều hòa mâu thuẫn các giai cấp, đẳng cấp khác nhau. Bản chất
của nhà nước là tổng thể các quy chế, kỷ cương về chính trị, văn hóa, pháp luật…
Đây chính là quan niệm duy tâm của Hegel về nhà nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến
quan điểm của Marx. Năm 1841, lúc bảo vệ luận án tiến sĩ của mình, Marx đã
chuyển đổi quan điểm này của Hegel. Hegel cho rằng nhà nước Phổ là cuối cùng
trong lịch sử và nhà nước cho mọi giai cấp.
Sai lầm đầu tiên của Hegel là quan niệm sai về bản chất của nhà nước. Trong thời
kỳ công xã nguyên thủy, nền kinh tế là săn bắt và hái lượm. Săn bắt do đàn ông
đảm đương bằng công cụ thô sơ, hái lượm do đàn bà đảm đương bằng sự khéo léo
của đôi tay mình. Lúc này xã hội chưa có của cải dư thừa. Vậy thời công xã nguyên
thủy, của cải xã hội do con người làm ra chỉ vừa đủ. Nhưng đến cuối thời công xã
nguyên thủy, nghề trồng trọt, chăn nuôi mới xuất hiện, xã hội bắt đầu có của cải dư
thừa. Khi đó người đứng đầu thị tộc, bộ lạc có điều kiện chọn lòng son, hoán đổi
của mình, người ta bắt đầu dùng quyền lực, chiếm của dư thừa đó làm của cải riêng
và chế độ tư hữu bắt đầu xuất hiện. Trong thời công xã nguyên thủy, tất cả đều là
của chung, thậm chí chồng chung, vợ chung. Khi chế độ tư hữu xuất hiện, loài
người bắt đầu phân thành giai cấp. Hai giai cấp đối lập đầu tiên trong lịch sử là giai
cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Để bảo vệ lợi ích của mình, các giai cấp tiến hành đấu
tranh với nhau. Cuộc đấu tranh có nguy cơ đưa các giai cấp có thể tiêu diệt lẫn nhau
và tiêu diệt luôn toàn xã hội. Để tránh thảm họa đó không xảy ra, để bảo vệ lợi ích
của mình, giai cấp thống trị là giai cấp chủ nô đã lập nên bộ máy trấn áp bạo lực.
Bộ máy đó chính là nhà nước và giai cấp chủ nô này đã sử dụng bộ máy nhà nước
Giaûng vieân:TS.Buøi Xuaân Thanh Sinh vieân: Traàn Thò Thanh Hoøa
Pheùp bieän chöùng duy taâm cuûa Hegel - Nhöõng giaù trò vaø haïn cheá Trang 12/21
thông qua quân đội, cảnh sát, nhà tù, trại giam, trại tập trung… để duy trì các giai
cấp tầng lớp trong vòng trật tự do mình đặt ra. Như vậy nó thống trị bằng bạo lực.
Tuy nhiên, thống trị bằng bạo lực là chưa đủ và không thể mang tính lâu dài, cần
phải thống trị luôn về mặt tư tưởng.
Vậy nhà nước ra đời từ sản phẩm mâu thuẫn giai cấp không điều hòa được, nhưng
nhà nước ra đời không phải để điều hòa mâu thuẫn giai cấp mà trái lại làm mâu
thuẫn giai cấp càng sâu sắc, không thể điều hòa được vì nhà nước là của các giai
cấp thống trị về kinh tế. Nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản là của giai cấp chủ
nô, phong kiến, tư sản, còn nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước vô sản mang bản
chất của giai cấp vô sản. Hegel cho rằng nhà nước ra đời để duy trì xã hội công dân
và bảo toàn các gia đình, để điều hòa mâu thuẫn các giai cấp là sai lầm của ông.
Theo Hegel, nhà nước là cho tất cả mọi tầng lớp nhưng lịch sử đã chứng minh điều
đó hoàn toàn sai lầm.
Năm 1841, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ của mình, Marx trở thành cộng
tác viên của tờ báo Sông Gianh. Lúc này Marx viết nhiều bài báo, có những bài
được đăng, có những bài không được đăng, càng về sau những bài không được
đăng càng tăng lên. Marx tìm hiểu và chợt nhận ra rằng những bài không được
đăng là những bài bênh vực quyền lợi của người lao động, đụng chạm đến nhà
nước, quyền lợi ích của giai cấp quý tộc. Từ đó Marx nhận ra rằng nhà nước chỉ có
một giai cấp thống trị về kinh tế. Thực tế lịch sử đã chứng minh điều này. Nếu bảo
rằng nhà nước là cho mọi giai cấp tầng lớp, điều đó hoàn toàn sai lầm. Như vậy
Hegel đã xóa nhòa mâu thuẫn giai cấp. Hegel cho rằng: xã hội bất công - đó là tất
yếu - sinh ra từ bản tính của con người, ý nói bản tính con người là tham lam, ích
kỷ. Từ đó, việc giải quyết mâu thuẫn xã hội là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Quan điểm này là hợp lý. Nhưng ông cho rằng nhà nước ra đời từ mâu thuẫn xã hội
để làm điều hòa mâu thuẫn trong xã hội là sai lầm của Hegel.
Hegel đứng trên lập trường bảo thủ cải lương, coi nhà nước Đức là chân lý - lập
trường của chủ nghĩa Sô-vanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị dân tộc khác, coi nước
Đức là hiện thân của tinh thần “vũ trụ mới”. Chế độ nhà nước đương thời được
Hegel xem nó như đỉnh cao của sự phát triển của nhà nước và pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những tư tưởng phản tiến bộ, Hegel đã nêu ra nhiều tư tưởng
biện chứng quý báu về sự phát triển của đời sống xã hội. Trong đó, ông đặc biệt
quan tâm nghiên cứu về vấn đề nguồn gốc và bản chất của nhà nước. Hegel tìm
nguồn gốc nhà nước từ mâu thuẫn xã hội. Bản chất của nhà nước là mang bản chất
thống trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhưng Hegel cho rằng: “Nhà nước không
chỉ là cơ quan hành pháp mà còn là tổng thể các quy chế kỹ cương, chuẩn mực và
mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hoá,…” của xã hội, nhờ đó mà xã
hội được phát triển bình thường. Vậy trong tư tưởng của Hegel không mang tính
giai cấp.
Giaûng vieân:TS.Buøi Xuaân Thanh Sinh vieân: Traàn Thò Thanh Hoøa
Pheùp bieän chöùng duy taâm cuûa Hegel - Nhöõng giaù trò vaø haïn cheá Trang 13/21
5. Phép biện chứng duy tâm của Hegel:
Đây là một trong những cống hiến vĩ đại của Hegel trong lịch sử khoa học của nhân
loại. Phép biện chứng của Hegel bao gồm những nội dung:
- Phép biện chứng của Hegel có hạt nhân là tư tưởng về sự phát triển là điểm
sáng nhưng đó là phép biện chứng duy tâm. Phép biện chứng của Hegel là phép
biện chứng của những khái niệm mà Hegel đồng nhất với bản thân sự vật. Đáng
lẽ khái niệm phản ánh sự vật thì trong tư tưởng Hegel, ý niệm, khái niệm có
trước sự vật. Đáng lẽ phép biện chứng của sự vật sinh biện chứng của tư tưởng
nhưng theo Hegel biện chứng của tư tưởng lại sinh biện chứng của sự vật, phép
biện chứng đó là duy tâm. Ý thức của tư duy con người phản ánh sự vật trong
thế giới, nhưng nếu bản thân sự vật là liên hệ, biến đổi thì tư duy con người
phản ánh nó cũng liên hệ, biến đổi. Đó là tư tưởng biện chứng mang tính duy
vật. Theo Hegel, ý niệm tuyệt đối có trước tự nhiên và sinh ra giới tự nhiên,
biện chứng của ý niệm tuyệt đối sinh ra biện chứng của sự vật, do đó phép biện
chứng của Hegel là duy tâm.
- Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện chứng của Hegel là tất cả những gì
hiện thực đều hợp lý, tất cả những gì hợp lý đều là hiện thực. Hiện thực là sự
tồn tại trong tính tất yếu. Đây là cách đánh giá của Marx: “Luận điểm xuyên
suốt toàn bộ phép biện chứng của Hegel: hiện thực không chỉ đơn giản là sự tồn
tại mà là sự tồn tại trong tính tất yếu, nghĩa là tất cả các sự vật, hiện tượng và cả
vũ trụ này vận động và phát triển theo các quy luật vốn có”. Đây là tư tưởng
tuyệt vời của Hegel. Đằng sau vỏ duy tâm hợp lý đó, ông cho rằng tất cả sự vật
trên thế giới, kể cả tư duy của con người đều vận động, phát triển theo các quy
luật, chính Hegel là người đầu tiên khái quát nên quy luật đó. Toàn bộ ba quy
luật cơ bản, sáu quy luật không cơ bản, sáu khoa học phạm trù được khái quát
lên chính là Hegel. Đây là điểm sáng thứ hai trong phép biện chứng.
- Hegel là người đầu tiên trình bày giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một
quá trình, đồng thời hiểu phát triển là quá trình phủ định biện chứng, trong đó
cái mới ra đời thay thế cái cũ nhưng vẫn kế thừa của cái cũ những mặt tích cực
có thể thúc đẩy sự phát triển. Tự nhiên, lịch sử và tư duy theo Hegel trình bày ở
dạng quá trình, tức là trong sự sinh thành, biến đổi và phát triển. Khác với siêu
hình, siêu hình cho rằng phát triển là sự tăng giảm đơn thuần về lượng, còn
Hegel hiểu rằng phát triển là quá trình phủ định từ thấp đến cao, đó là quá trình
phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng có hai đặc điểm: khách quan và kế
thừa, kế thừa có sự chọn lọc, phê phán, người đầu tiên khái quát lên tư tưởng đó
là Hegel. Học thuyết của Hegel chứng minh: con cái ra đời từ cha mẹ sẽ kế thừa
những mặt tích cực của cha mẹ, loại bỏ những mặt tiêu cực. Ví dụ: chế độ tư
bản ra đời dưới chế độ phong kiến, cũng là quá trình phủ định biện chứng, nó
Giaûng vieân:TS.Buøi Xuaân Thanh Sinh vieân: Traàn Thò Thanh Hoøa
Pheùp bieän chöùng duy taâm cuûa Hegel - Nhöõng giaù trò vaø haïn cheá Trang 14/21
không phủ định sạch trơn tất cả những chế độ, hệ tư tưởng, những tư tưởng mà
chế độ phong kiến đã tạo ra, không phải đạp đổ tất cả mọi thành quách, đền đài,
lăng cẩm mà cũng kế thừa những mặt tích cực, chọn lọc phát triển chủ nghĩa tư
bản.
Với tinh thần biện chứng, khi đánh giá bất kỳ sự vật nào đó phải thấy hai mặt:
tích cực và tiêu cực để từ đó loại bỏ những mặt tiêu cực và kế thừa những mặt
tích cực. Như vậy, tinh thần của biện chứng người đầu tiên khái quát lên là
Hegel. Nếu thừa nhận phủ định biện chứng này thì đánh giá của các nhà chủ
nghĩa tư bản đa số đều khách quan.
- Theo Hegel, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả hoạt động của mình, nhận
thức và tư duy của con người được hình thành trong chừng mực con người nhận
thức và cải tạo thế giới. Ý thức của mỗi cá nhân là sự khái quát lại toàn bộ ý
thức mà nhân loại đã trải qua. Quan điểm con người là sản phẩm, là chủ thể của
chính bản thân mình là quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Hegel đã thấy được vai
trò của lao động đối với sự hình thành và phát triển của ý thức. Lao động đã
giải phóng hai tri thức của loài người, đưa con người đi lên thẳng đứng, tách
con người ra khỏi thế giới loài vật. Cũng chính lao động, con người đã tạo thức
ăn mới hoàn thiện não bộ. Trong lao động, con người tác động vào thế giới
xung quanh, bộc lộ những đặc điểm, tính chất để con người nhận thức. Cũng
chính trong quá trình lao động, con người tự hoàn thiện chính bản thân mình.
Vậy không có quá trình lao động, con người không tách khỏi loài vật, bộ óc con
người không hoàn thiện, không nảy sinh nhu cầu nhận thức về thế giới, không
có ý thức của con người. Hegel khẳng định ý thức và tư duy của con người hình
thành trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới, chứng tỏ rằng
đã bắt đầu thấy vai trò của lao động đối với sự hình thành và phát triển ý thức
và tư duy. Từ đó Hegel cho rằng: bằng cách đó, con người tác động vào giới tự
nhiên, tạo ra giới tự nhiên thứ hai cho mình và làm chủ giới tự nhiên. Quan
điểm giới tự nhiên thứ hai người đầu tiên đưa ra chính là Hegel. Chân lý là sự
thống nhất của tinh thần và vật chất là cả một quá trình. Chân lý là tri thức có
nội dung phản ánh phù hợp với hiện thực khách quan. Ví dụ: tổng ba góc trong
một tam giác = 1800 là chân lý.
Những quan điểm về chân lý sau này của Marx cũng chính là sự kế thừa quan
điểm của Hegel. Chân lý là cả một quá trình, nghĩa là toàn bộ tri thức mà con
người có được đến thời điểm hiện tại là chân lý, có thể thực tiễn sau đó sẽ bác
bỏ nó, không là chân lý nữa. Có nhiều luận điểm cả ngàn năm là chân lý, thực
tiễn sau đó bác bỏ nó, nghĩa là thực tiễn kiểm tra chân lý.
Theo Hegel, con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử lại mang tính kế thừa.
Vì vậy, ý thức của mỗi cá nhân, của mỗi con người là khái quát lại toàn bộ lịch
sử mà tư tưởng nhân loại đã trải qua. Như vậy, trong ý thức của ta có ý thức của
nhân loại trong quá khứ và trong hiện tại. Đây chính là quan điểm duy tâm của
Giaûng vieân:TS.Buøi Xuaân Thanh Sinh vieân: Traàn Thò Thanh Hoøa
Pheùp bieän chöùng duy taâm cuûa Hegel - Nhöõng giaù trò vaø haïn cheá Trang 15/21
Hegel. Những quan hệ xã hội hình thành nên bản chất của ta, không chỉ trong
hiện tại mà còn trong cả quá khứ. Nếu tách con người hiện tại ra khỏi liên hệ
lịch sử thì con người trong hiện tại phát triển phiến diện và bề ngoài. Người đặt
nền móng tư tưởng này chính là Hegel.
- Hegel là người nâng phép biện chứng từ trình độ tự phát lên trình độ lý luận và
là người đầu tiên trình bày phép biện chứng ở dạng nguyên lý, quy luật, phạm
trù.
Trải qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử, phép biện chứng tồn tại dưới ba
hình thức cơ bản, đó là:
Phép biện chứng chất phác trong thời kỳ cổ đại.
Phép biện chứng duy tâm gắn liền tên tuổi Hegel.
Phép biện chứng duy vật do Marx - Engels sáng lập vào giữa thế kỷ XIX.
Trong thời kỳ cổ đại, các nhà tư tưởng đã khái quát một bức tranh chung về thế
giới mang tính biện chứng dựa trên sự quan sát mang tính trực quan cảm tính.
Ví dụ: trong thời kỳ đó, Hecralite đưa ra luận điểm nổi tiếng, cho rằng trong thế
giới không có sự vật, hiện tượng nào đứng im tuyệt đối mà vạn vật vừa tồn tại,
vừa không tồn tại, chúng luôn trôi qua, luôn nằm trong quá trình không ngừng
sinh thành, biến đổi và chuyển hóa, cái này biến hóa thành cái kia và ngược lại.
“Con người không ai tắm hai lần ở trong cùng một dòng sông”, nghĩa là vạn vật
không ngừng thay đổi. Theo Hecralite, dòng sông ngày hôm nay sẽ không là
dòng sông của ngày hôm qua vì dòng nước đã thay đổi. Chúng ta ngày hôm qua
và hôm nay cũng khác nhau bởi theo biến đổi tâm sinh lý trong cơ thể. Tư
tưởng đó là tư tưởng biện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận Hegel.pdf