MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Phần nội dung 3
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề 3
1. Cơ sở lý luận
2. Cơ sở thực tiễn
II. Thực trạng của quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay 7
1. Những thành công đạt được trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay - phép biện chứng duy vật
2. Những mặt trái của quá trình đổi mới sang nền kinh tế thị trường
3. Một số biện pháp khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường và phát huy những thành công
Phần kết luận 14
Tài liệu tham khảo
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1765 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng duy vật đối với việc phân tích tính tất yếu của quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức tạp, ngày càng hoàn thiện và phát triển.
Tuỳ theo các lĩnh vực khác nhau của thế giới vật chất mà sự phát triển thể hiện khác nhau, nguồn gốc của nó là sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa các mặt độc lập trong bản thân sự vật và hiện tượng. Song không nên hiểu sự phát triển bao giờ cũng diễn ra một cách đơn giản, thẳng tắp. Xét từng trường hợp cá biệt thì có những vận động đi lên, tuần hoàn thậm chí đi xuống, nhưng xét cả quá trình trong phạm vi rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng thống trị - Quan điểm phát triển. Quan điểm này yêu cầu
khi phân tích sự vật hiện tượng trong sự vận động phát triển các xu hướng biến đổi chuyển hoá của chúng, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Sự phát triển chỉ bộc lộ ra khi so sánh các hình thức tồn tại của sự vật ở các thời điểm khác nhau trên trục thời gian quá khứ - hiện tại - tương lai. Như vậy ta thấy rằng sự vận động, phát triển được xtôi bởi nguyên tắc toàn diện và bao trùm lên bởi các mối liên hệ. Vì mối liên hệ và sự vận động là hai mặt của quá trình tồn tại, sự vật liên hệ tác động qua lại lẫn nhau gây nên vận động ngược lại vận động tạo ra liên hệ. Vận động và liên hệ vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của nhau. Chính vì vậy khi vận dụng phép biện chứng không nên tách rời hai nguyên tắc này. Yêu cầu toàn diện chỉ đạt được khi đã tính đến sự phát triển. Ngược lại chỉ có thế dự báo được xu hướng của sự phát triển khi xtôi xét một cách toàn diện.
Sự thống nhất vật chất từ thủa hồng hoang đã hình thành trái đất. Và các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ ràng buộc nhau, tuân theo các quy luật tất yếu tạo nên sự vận động và phát triển của thế giới trong một thể thống nhất. Mối liên hệ tạo ra sự chuyển hoá không chỉ ở một sự vật hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy mà còn diễn ra giữa các yếu tố, các mặt khác quá trình của mỗi sự vật và hiện tượng. Chính sự đa dạng phong phú của các mối liên hệ khiến chúng ta khi nghiên cứu một vấn đề nào đó để tránh sự phiến diện ta cần nhìn nhận trên quan điểm toàn diện. Có như thế mới thực sự nắm bắt được bản chất, cốt lõi của sự vật mà không rơi vào ngụy biện trong nhận thức bất quyết trong hành động.
Lý luận phải gắn liền với thực tiễn thì mới tránh được sự giáo điều, lý thuyết xuông. Và thực tiễn hành động phải được nâng lên thành lý luận, phải được soi đường dẫn lối bởi các học thuyết thì mới đạt được mục đích rõ ràng, không bị mò mẫm, lệch lạc.
Con thuyền cách mạng Việt Nam đang vượt sóng cả tiến tới bến bờ của thành công. Đảng Cộng Sản Việt Nam - Người cầm lãi vĩ đại dưới sự lãnh đạo thiên tài của Hồ Chủ Tịch đã biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào thực tiễn cách mạng ở Việt Nam. V.I. Lê nin: “ Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này, hay hình thức khác của chế độ dân chủ vào loại này, hay hình thức khác của chuyên chính vô sản vào nhịp độ hay nhịp độ khác của việc cải tạo chủ
nghĩa xã hội đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội “.(V.I. Lê nin: Toàn tập, tập 30, tiếng việt trang 60 )
Muốn cho quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của ta thành công thì tất yếu phải đổi mới nền kinh tế cho phù hợp với xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới đang diễn ra.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua phát triển TBCN là sự lựa chọn phù hợp với tình hình của đất nước và xu thế phát triển của thời đại.
2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga và tiếp theo đó là một loạt nước cộng hoà ở Trung á, Mông Cổ, Trung Quốc, Cu Ba ... đã chứng minh những quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học về khả năng phát triển là đúng đắn, phù hợp với điều kiện đổi mới, của thời đại và có sự lãnh đạo đúng đắn, kiên định, sáng tạo của Đảng cộng sản.
Chủ nghĩa xã hội khoa học Mác - Lê nin là vầng thái dương soi sáng cho Đảng cộng sản Việt Nam kiên định con đường xã hội chủ nghĩa.
Sau ngày 30/04/1975 nước ta hoàn toàn giải phóng, nước cộng hoà chủ nghĩa Việt Nam non trẻ với bộn bề công việc, khó khăn chồng chất. Từ trong lòng một chế độ cũ: chế độ thuộc địa nửa phong kiến, đất nước trải qua một thời gian dài bị chia cắt, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, một nhà nước mới ra đời dưới sự lãnh đạo của Đảng muốn tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN là một nhiệm vụ lớn và rất khó khăn. Bởi vì lúc này cơ sở vật chất của chúng ta rất nghèo, trình độ kỹ thuật thấp kém, quan hệ sản xuất lạc hậu... Đảng cộng sản còn non trẻ, đội ngũ cán bộ còn yếu về năng lực... Các thế lực đế quốc và phản động ráo riết thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình, phá hoại, bao vây kinh tế ... văn hoá tư tưởng cổ hủ phong kiến.
Trong những năm cuối của thập niên 80 cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trong hệ thống xã hội chủ nghĩa dẫn đến sự tan rã sụp đổ tại nhiều
nước Đông Âu và Liên Xô. Đứng trước thực trạng đó đại hội toàn quốc lần
thứ VI (12/1986) của Đảng đã triệu tập. Đại hội lần này đã đánh giá đúng đắn những thành tựu đạt được trong 10 năm xây dựng XHCN và bảo vệ tổ quốc, đồng thời nhìn thẳng vào sự thật đi sâu phân tích những tồn tại và nghiêm khắc phê bình những sai lầm khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong 10 năm qua.
Đồng thời Đảng ta đã vạch ra đường lối muốn bảo vệ được thành quả của hai cuộc cách mạng cũng như bảo vệ XHCN thì cần phải đổi mới nền kinh tế, từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Đến nay đã đạt được thành công, tránh sự sụp đổ như Liên Xô và các nước Đông Âu. Đó là sự vận dụng đúng đắn quy luật biện chứng duy vật và quy luật phát triển kinh tế. Từ nền kinh tế lạc hậu không thể tiến ngay lên CNXH, mà phải trải qua thời kỳ quá độ phải công nhận nền kinh tế TBCN mà bản chất của nó là nền kinh tế thị trường nhưng ta không hoàn toàn dập khuôn nền kinh tế thị trường một cách hoàn toàn mà có sự định hướng của XHCN.
Sau mười năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và năm năm thực hiện nghị quyết đại hội VII, đất nước ta từng bước vượt qua khó khăn, nhân dân ta đứng vững và vượt lên gặt hái được nhiều thành tựu nổi bật về các mặt, nhất là về mặt kinh tế.
Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trong. Nhiệm vụ do đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã hoàn thành về cơ bản. Đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nhưng một số mặt còn hạn chế. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là quá trình đưa nước ta từng bước công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Xét về mặt tổng thể , việc hạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn trong quá trình đi lên XHCN, tuy vậy trong khi thực hiện vẫn còn một vài khuyết điểm dẫn đến chệch hướng ở một vài lĩnh vực ỏ những mức độ khác nhau.
Những thành tựu đạt được đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, đổi mới bám sát với thực tiễn, đồng tâm hợp lực của Đảng và nhân dân ta. Qua đánh giá thực tiễn, nghiên cứu đường lối chủ trương lãnh đạo của Đảng, chúng ta thấy rõ tư duy xuyên suốt trong đường lối lãnh đạo của Đảng là tư duy biện chứng được soi rọi bởi chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở trân trọng những thành tựu của 20 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là một tư duy đúng bởi lẽ nó dựa trên cơ sở pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
II. Thực trạng của quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay
1. Những thành công đạt được trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay - phép biện chứng duy vật.
Hiện nay chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu tổng quát phải đạt tới thì kết thúc thời kỳ này là: “Xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng văn hoá phù hợp, làm cho đất nước ta trở thành nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”. (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội).
Để đạt được những mục tiêu này chúng ta đã thực hiện hàng loạt những cải cách trên tất cả các lĩnh vực và đặc biệt mở đầu cho công cuộc cách mạng toàn diện đó là sự “đổi mới tư duy hành động”; “Những việc cần làm ngay” (lời của đồng chí cựu Tổng Bí Thư) đã trở thành khẩu hiệu, tiếng hô xung trận, toàn Đảng, toàn dân ta bắt đầu một thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước. Trước đây đã có lúc Đảng ta ngộ nhận mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các thành phần kinh tế phi chủ nghĩa xã hội (tư bản, cá thể ...) sớm bị xoá bỏ bằng những biện pháp cưỡng bức hành chính ... Điều này dẫn đến hiệu quả nền kinh tế nước ta giai đoạn này rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, lạm phát ở nước ta ở mức ba con số... Đã đến lúc chúng ta nhìn nhận lại vấn đề thực tại bằng tư duy mới để vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào thực tiễn Việt Nam, trước hết là lý luận về những bước trung gian: quá độ trong sự nghiệp phát triển xã hội. Từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ. Luận chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ sự vận dụng phép biện chứng duy vật và phân tích sự phát triển
không đồng bộ của chủ nghĩa tư bản những điều kiện khách quan và chủ quan. Quan điểm của ông là khả năng cách mạng vô sản có thể mở ra và giành thắng lợi để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nắm vững quan điểm ấy và quán triệt đặc tính căn bản này trong hoạt động chính trị tư tưởng, tổ chức Đảng ta nhận định: Nước ta là một nước có nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội mà bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta phải qua một thời kỳ phát triển mà nhà nước vô sản phải dùng đến bàn tay của nhà tư sản trong nước và nước ngoài trong một thời gian nhất định, lợi dụng một phương thức làm ăn của họ để tạo ra sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất cơ bản, cần thiết tạo tiền đồ cho chủ nghĩa xã hội. Đảng quyết định chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế sang cơ chế thị trường (cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý điều tiết của nhà nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội). Khuyến khích các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh phát triển. Chủ động đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo (nhà nước độc quyền nắm giữ một số ngành kinh tế then chốt), cùng với kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện để tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội là một thể thống nhất với nhiều lượng tham gia sản xuất và lưu thông, trong đó có kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch, kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh doanh, kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất. Chính sự vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của nhà nước, đồng thời xác lập đầu tư chế độ tự chủ của các đơn vị kinh doanh nhằm phát huy tác động tích cực to lớn đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước. Như vậy tư duy mới đã vận dụng một cách đúng đắn chủ nghĩa duy vật biện chứng vào quá trình
đổi mới trong kinh tế. Chính các mối liên hệ tác động chi phối nhau đã tạo nên sự vận động, phát triển mạnh mẽ khiến nền kinh tế của chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Bên cạnh đó Đảng tiếp tục củng cố phát triển tổ chức đồng thời chú trọng bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phát triển tư duy lý luận chủ nghĩa khoa học, không ngừng đấu tranh làm trong sạch vững mạnh nội bộ
Đảng vì “ phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị” (văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII). Cũng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin: kinh tế quyết định chính trị, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế (V.I. Lê nin toàn tập, tập 2) Chính trị không phải là mục đích mà nó là phương tiện phục vụ, thực hiện mục đích kinh tế. Cho nên chính trị cũng cần có những đổi mới trên cơ sở ổn định tổ chức. Nhưng đổi mới chính trị không là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định về chính trị, tăng cường vài trò lãnh đạo của Đảng, vai trò trong quản lý của nhà nước chủ nghĩa xã hội. Đổi mới chính trị gắn liền với đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì mới có thể giữ vững được định hướng chủ nghĩa xã hội. ổn định và đổi mới chính trị là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau, có ổn định thì mới có thể đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định chính trị. Hai mặt đó tác động qua lại lẫn nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nền tảng đổi mới cơ chế kinh tế. Phải thừa nhận giải quyết các vấn đề chính trị không thể tách hẳn khỏi sự tăng trưởng kinh tế, không thể vượt ra ngoài khả năng mà kinh tế quy định (không thể nhảy vọt từ chế độ xã hội phong kiến lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội ngay khi cơ sở vật chất nghèo nàn) nhưng không phải cứ có tăng trưởng kinh tế là tự khắc giải quyết được các vấn đề xã hội. Không thể ngồi chờ cho đến khi kinh tế phát triển cao rồi mới coi trọng chính trị hoặc chậm đổi mới chính trị khi điều kiện xã hội nhất là chính sách kinh tế đã thay đổi thì chắc chắn sẽ dẫn đến bất công, sự phân hoá xã hội quá mức, và rối loạn xã hội là điều khó tránh khỏi. Chính trị có tác động rất mạnh đối với kinh tế cho nên nếu các chính sách chính trị đúng đắn kịp thời sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và ngược lại sẽ kìm hãm, thậm trí triệt tiêu những thành quả kinh tế và dẫn đến mất ổn định chính trị. Một số biểu hiện đổi mới chính trị là việc ban hành các chính sách, xây dựng mới một số luật đầu tư, luật công đoàn bảo vệ người lao động, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế với bên ngoài.
Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người. “Văn hoá là nền tảng của tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” (văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, trang 110). Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tập quán và lòng tự hào dân tộc. Hoà nhập nhưng không đánh mất hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Nâng cao mặt bằng dân trí, xây dựng nếp sống văn hoá, văn minh, hướng tới chân, thiện, mỹ. Giáo dục đạo đức kinh doanh, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Có chính sách đầu tư thoả đáng cho văn hoá, văn nghệ. Phát triển các hoạt động văn hoá văn nghệ của nhà nước, tập thể và cá nhân theo đường lối của Đảng và sự quản lý của nhà nước.
Về hệ thống chính sách xã hội được hoạch định trên những quan điểm sau:
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Nó thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội, hoạt động nhân đạo từ thiện.
Tập trung sức tạo việc làm, đẩy lùi tệ nạn xã hội.
Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ, nâng cao thể chất của nhân dân, đẩy mạnh công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ không thể tách rời nhau. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, phải luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tổ quốc và các thành quả cách mạng. Đó cũng là chiến lược của Đảng trong thời kỳ quá độ. Đảng ta đã nhận định và vận dụng đúng nguyên tắc toàn diện, phát huy sự tác động lẫn nhau của các lĩnh vực để tạo ra sự vận động phát triển mạnh mẽ. Nhưng trong các mối liên hệ tổng hoà đó lại bao hàm các mối liên hệ cụ thể giữa các nhân tố chủ quan cấu thành và quyết định sự phát triển của cả khối thống nhất - xã hội. Đó là con người. “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cơ hữu cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội“ (C. Mác và Angghen toàn tập, tập 3 NXB CTQG - HN - 1995 trang 11). Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội giai cấp công nhân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản từng bước tạo lập hoàn thiện những quan hệ xã hội mới. Thông qua quá trình đó, những mặt yếu tố cấu thành nên bản chất xã hội của con người trong xã hội mới dần dần được hoàn thiện. Xét theo ý nghĩa đó thì con người chủ nghĩa xã hội là sản phẩm tổng hợp của các mối quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội, được hình thành trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đó cũng là mối quan hệ qua lại giữa con người với xã hội trong sự phát triển trên quan điểm toàn diện. Trong mỗi thời kỳ, mỗi chặng đường của quá trình cách mạng chủ nghĩa xã hội người ta có thể và cần phải xác định những mô hình con người cần giáo dục và đào tạo. Điều này có ý nghĩa định hướng cho hoạt động của nhà nước, của xã hội trong lĩnh vực xây dựng con người mới, với tư cách là mục tiêu của cách mạng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta nhận định: “con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù sáng tạo, có nền tảng, văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học, công nghệ ... là nguồn lực quan trọng nhất “. (Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 - NXB Sự Thật HN . 1991 trang 5). Trong số các nguồn lực ổn định và phát triển kinh tế, chính trị xã hội trong giai đoạn hiện nay, lấy việc “phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.(văn kiện VIII . NXB CTQG, trang 85).
2. Những mặt trái của quá trình đổi mới sang nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, xuất hiện sự cạnh tranh mạnh mẽ khốc liệt. Tất cả các đơn vị sản xuất phải tự hạch toán kinh tế, nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy phải hạ giá trị cá biệt bằng mọi cách (thủ đoạn phi đạo đức cá lớn nuốt cá bé...). Vì mục tiêu giá cả cạnh tranh họ sẵn sàng lừa bịp về chất lượng kể cả những mặt hàng thực phẩm làm ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng. Thương trường đã trở thành chiến trường, kẻ được to, người mất trắng ... nhanh chóng dẫn đến sự phân hoá giầu nghèo, thất nghiệp tràn lan, khủng hoảng kinh tế kéo theo lạm phát, phá hoại môi trường sinh thái ... Cơ chế thị trường ảnh hưởng đến văn hóa đạo đức: ý tưởng thương mại hoá, con người sống vì mục tiêu đồng tiền, bất chấp đạo đức, giả dối trong kinh doanh (quảng cáo không đúng sự thật, sản xuất hàng giả ...)
Nguyên nhân là do mặt bằng dân trí ta còn thấp trình độ văn hoá của nhân dân chưa cao, chưa có ý thức cộng đồng. Sự nghèo khổ đeo đẳng nhiều thế hệ, nay bị ma lực đồng tiền làm cho choáng ngợp, tha hoá. Sự quản lý chưa nghiêm minh. Còn có kẻ chưa có ý thức chấp hành pháp luật và coi thường pháp luật...
3. Một số biện pháp khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường và phát huy những thành công.
Nhà nước cần phải giữ vững và tăng cường vai trò kinh tế chủ đạo của mình.Tức là nhà nước phải tổ chức và quản lý toàn bộ nền kinh tế Quốc dân ở tầm kinh tế vĩ mô lẫn ở tầm kinh tế vi mô, trong đó, quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước là chủ yếu.
Nhà nước phải căn cứ vào cương lĩnh chính trị chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của Đảng mà nhà nước đặt ra cơ chế chính sách quản lý kinh tế thị trường. Đảm bảo và tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, để nhà nước có đường lối phương hướng đúng. Cần xoá bỏ lối bao biện làm thay của các cấp uỷ Đảng và lối dựa dẫm ỷ lại của các cơ quan chính quyền để Đảng phát huy vai trò lãnh đạo, nhà nước phát huy hiệu lực quản lý điều hành kinh tế trong cơ chế thị trường hiện nay.
Nhà nước phải xây dựng mới sửa chữa bổ sung và đồng bộ hoá các hệ thống pháp luật kinh tế sao cho phù hợp với việc dân chủ hoá nền kinh té thị trường để thông qua hệ thống này sẽ kiểm soát được sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tránh những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường từ đó sẽ tạo điều kiện thêm cho các doanh nghiệp phát triển. Hiện nay cần tiếp tục chấn chỉnh và hoàn thiện luật kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, luật đầu tư và lao động đang có nhiều kẽ hở và còn đang chưa được hoàn thiện để giúp cho các doanh nghiệp có thể phát triển tốt hơn.
Nhà nước cần kịp thời nghiên cứu và hoàn chỉnh các chính sách, pháp luật hợp lý, đảm bảo sự công bằng, những đạo luật bảo vệ người lương thiện, đồng thời những sắc lệnh nghiêm trị kẻ bất chính, xấu xa, phản
động. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giữa các ngành, trong từng ngành để phát triển kịp thời và nghiêm trị những cán bộ, nhân viên thoái hoá, biến chất, ngăn chặn những hành vi bất chính, phá hoại ... củng cố lòng tin cho nhân dân.
Bên cạnh đó phải thường xuyên tuyên truyền giáo dục ý thức mỗi người dân, nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ khoa học. Bằng cách đầu tư thích đáng cho giáo dục, bồi dưỡng tài năng và sử dụng có hiệu quả. Mở rộng quy mô và đầu tư chiều sâu vào mô hình đào tạo công nhân có chuyên môn kỹ thuật cao (thợ lành nghề) phục vụ cho khoa học công nghệ ứng dụng. Tránh đào tạo tràn lan kỹ sư và cấp đại học, trên đại học mà không chú ý đến chất lượng đào tạo. Đầu tư đào tạo giáo dục chưa thực sự mang lại hiệu quả khi đội ngũ được đào tạo được sử dụng hợp lý theo đúng mức độ và nội dung cũng như mục đích đào tạo. Thường xuyên bồi dưỡng, kiểm tra sát hạch các cán bộ, đội ngũ đào tạo giảng dạy để nâng cao về chất lượng giáo dục và cũng để phù hợp với xu hướng phát triển nhanh của trình độ khoa học trên khắp thế giới.
Tiếp tục củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của nhà nước pháp quyền nhằm mục đích giữ vững lập trường kiên định chủ nghĩa xã hội.
Cần phát huy những thành tựu đã đạt được, đồng thời tích cực đổi mới, sáng tạo để đạt được nhiều thành công hơn nữa trong mọi lĩnh vực trên con đường tiến lên CNXH của nước ta.
Phần kết LUận
Sau một thời gian nghiên cứu về phép biện chứng duy vật đối với việc phân tích tính tất yếu của quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay một cách nghiêm túc, tôi nhận thấy rằng: công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta là một tất yếu khách quan .Bất cứ một sự vận động nào cũng bao hàm trong xu hướng tất nhiên xuyên suốt quá trình từ quá khứ đến hiện tại đến tương lai. Trong thời kỳ đất nước đang chuyển mình, tại một nước phong kiến lạc hậu, lại trải qua một thời gian dài chiến tranh tàn phá, cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu, sự vận động mạnh mẽ theo con đường phát triển về mọi mặt là một tất yếu, phù hợp với lịch sử thành công trong sự phát triển đi lên đó là nhờ có sự vận dụng khéo léo, tài tình sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng, trong suốt quá trình đất nước đấu tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nhận thức đúng thực tiễn tại cơ sở có lý luận soi đường, đi lên và phải trên cơ sở vật chất vững chắc, tư tưởng hành động phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm kim chỉ nam. Đồng thời muốn bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN không có nghĩa là đốt cháy giai đoạn, cần phải trải qua một thời kỳ dài để tạo dựng cơ sở, tiền đồ cho chủ nghĩa xã hội - thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ này nhiệm vụ xây dựng kinh tế, đất nước được đặt lên hàng đầu, muốn vậy phải lựa chọn hoạch định một chương trình phát triển kinh tế xã hội phù hợp nhưng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Và đổi mới là một tư duy đúng. Nói đổi mới không có nghĩa là tất cả phải hoàn toàn đổi mới, vứt bỏ hết cái cũ. Đổi mới có kế thừa, đổi mới nhằm ổn định, đổi mới để phù hợp với xu thế vận động và cũng để ổn định rồi từ đó tiếp tục phát triển. Và với mục đích phát triển chúng ta đã đổi mới toàn diện, mọi lĩnh vực phù hợp với nguyên lý về các mối liên hệ với sự vận động và phát triển của duy vật biện chứng. Có như vậy mới tránh sự khập khiễng, tạo ra các động lực tổng hợp cùng chiều vì các mặt, các lĩnh vực xã hội tác động chi phối nhau. Thành công trong chiến lược phát triển kinh tế vì chúng ta đã dự báo được xu hướng vận động của các sự kiện, các lĩnh vực chính trị, xã hội. Xu hướng phát triển
của khoa học và công nghệ (nhà nước tập trung, đầu tư thích đáng cho giáo dục, đào tạo, phát triển thông tin, hợp tác giáo dục ...nhằm tiếp cận, nắm bắt và khai thác sử dụng những thành tựu khoa học mới nhất).
Tham gia tổ chức ASEAN với mục đích hoà nhập giao lưu văn hoá đáp ứng nhu cầu văn hoá của quần chúng nhân dân theo xu thế phát triển ngày càng văn minh. Đồng thời hợp tác phát triển kinh tế đa phương trên cơ sở bình đẳng tôn trọng chủ quyền không can thiệp vào công
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28256.doc