Môi trường biển và biển ven bờ đã bắt đầu bị ô nhiễm, hàm lượng các chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, kim loại nặng, vi sinh, hoá chất nông nghiệp ở một số nơi đã vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Hàm lượng dầu trong các vùng biển đang có xu hướng tăng lên, một số nơi đã vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Các vấn đề môi trường toàn cầu ngày càng tác động đến môi trường nước ta: khí hậu thay đổi theo chiều hướng nóng lên, tầng ôzôn suy giảm, mực nước biển dâng cao, ô nhiễm xuyên biên giới, xuất khẩu công nghiệp ô nhiễm, mức độ suy giảm chất lượng nước ở các dòng sông chung quốc gia và các thảm rừng chung biên giới, mưa axit, các cực trị về bão lũ, mưa lớn, hạn hán ngày càng gia tăng, gây ra nhiều ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống nhiều vùng. Các sự cố tràn dầu trên biển ở vùng cửa sông, các cảng, các sự cố kỹ thuật ở các cơ sở sản xuất ngày càng gia tăng, gây thiệt hại không nhỏ về người và của.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2116 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái trong điều kiện nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập nhau nhưng mâu thuẫn đó nếu được giải quyết tốt sẽ là động lực để phát triển xã hội để giải quyết mâu thuẫn này thì cách tốt nhất là phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường đó là hướng phát triển bền lâu do đó em trọn đề tài: Phép biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái trong điều kiện nước ta hiện nay”
Phạm vi của đề tài là rất rộng, tuy nhiên trong phạm vi của một bài tiểu luận em chỉ xem xét, giải quyết một số vấn đề sau:
- Quan hệ phép biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ mi trường sinh thái.
- Thực trạng phát triển kinh tế với môi trường sinh thái ở nước ta trong thời gian qua.
- Một số giải pháp kết hợp giữa mục tiêu kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
Với đề tài rộng và không đơn giản nhưng được sự hướng dẫn của PGS. TS - Đoàn Quang Thọ và nguồn tài liệu của trung tâm thư viện trường ĐH Kinh tế Quốc dân nên em đã hoàn thành được đề tài. Mặc dù vậy bài viết của em không tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
QUAN HỆ PHÉP BIỆN CHỨNG GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Khái niệm cơ bản
Sự phát triển kinh tế
Sự phát triển kinh tế, thực chất đó là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến ) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó, bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô, sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế- xã hội. Phát triển kinh tế là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của sự phát triển nói chung. Nhưng phát triển kinh tế không phải là mục đích tự thân và cũng không thể là vô hạn. Nó phải phục vụ, thúc đẩy mục tiêu chung của sự phát triển. Chúng ta không nên nhầm lẫn giữa “phát triển kinh tế “và “tăng trưởng kinh tế”. Bởi vì, tăng trưởng kinh tế, theo cách hiểu hiện đại thì đó là việc mở rộng sản lượng quốc gia tiềm năng của một nước, sự tăng lên không ngừng GNP tiềm năng thực. Như vậy, tăng trưởng kinh tế chưa phải là phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế, mặc dù rất quan trọng nhưng đó mới chỉ là điều kiện cần của phát triển kinh tế. Điều kiện đủ của phát triển kinh tế là trong quá trình tăng trưởng kinh tế phải bảo đảm được tính cân đối, tính hiệu quả, tính mục tiêu, và tăng trưởng kinh tế trước mắt phải bảo đảm tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
Môi trường
Trên thế giới có nhiều định nghĩa về môi trường. Chương trình môi trường của UNEP định nghĩa: “ Môi trường là tập hợp các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học, kinh tếiax hội, tác động lên từng cá thể hay cả cộng đồng”.
Theo từ điển Bách khoa Larouse, thì khái niệm môi trường: “ môi trường là tất cả những gì bao quanh chúng ta hoặc sinh vật. Nói cụ thể hơn, đó là các yếu tố tự nhiên và nhân tạo diễn ra trong không gian cụ thể, nơi đó có thể có sự sống hoặc không có sự sống. Các yếu tố đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của những định luật vật lý, mang tính tổng quát hoặc chi tiết như luật hấp dẫn vũ trụ, năng lượng phát xạ, bảo tồn vật chất… Trong đó hiện tượng hoá học và sinh học là những đặc thù cục bộ . Môi trường bao gồm tất cả những nhân tố tác động qua lại trực tiếp hoặc gián tiếp với sinh vật và quần xã sinh vật”.
Ngày nay, người ta đã thống nhất với nhau về định nghĩa: “môi trường là các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo, lý học, hoá học, sinh học cùng tồn tại trong một không gian bao quanh con người. Các yếu tố đó quan hệ mật thiết, tương tác lẫn nhau và tác động lên các cá thể sinh vật hay con người để cùng tồn tại và phát triển. Tổng hoà của các chiều hướng phát triển của từng nhân tố này quyết định chiều hướng phát triển của cá thể sinh vật của hệ sinh thái và của xã hội con người”.
Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là hiện tượng suy giảm chất lượng môi trường quá một giới hạn cho phép, đi ngược lại mục đích sử dụng môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người và sinh vật.
Bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường được hiểu là bao gồm những hoạt động, những việc làm trực tiếp, tạo điều kiện giữ cho môi trường trong lành sạch đẹp, cải thiện điều kiện vật chất, cải thiện điều kiện sống của con người, sinh vật ở trong đó, làm sức sống tốt hơn, duy trì cân bằng sinh thái, tăng đa dạng sinh học. Bảo vệ môi trường gồm các chính sách chủ trương, các chỉ thị nhằm ngăn chặn hậu quả xấu của con người đối với môi trường, các sự cố môi trường do con người và thiên nhiên gây ra. Bảo vệ môi trường bao hàm cả ý nghĩa sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
Kinh tế môi trường
Kinh tế môi trường là một khoa học thuộc môi trường học, kinh tế môi trường chuyên nghiên cứu các quy luật phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Nó đánh giá tầm quan trọng về mặt kinh tế của sự suy thoái môi trường, tìm nguyên nhân kinh tế gây nên sự suy thoái đó vá đưa ra các biện pháp kinh tế khả thi để làm chậm lại hay chấm dứt, thậm chí đảo ngược các quá trình suy thoái đó.
2. Quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam
Vai trò của môi trường sinh thái ở những giai đoạn lịch sử khác nhau được thể hiện một cách khác nhau.
Ở trình độ mông muội, khi con người chỉ biết chủ yếu hái , lượm những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên thì hầu như con người bị giới tự nhiên hoàn toàn thống trị. Cuộc sống của xã hội phụ thuộc chủ yếu vào môi trường tự nhiên.
Ở trình độ văn minh cao hơn, nhất là khi khoa học phát triển thì con người đã từng bước chế ngự được tự nhiên, biết khai thác tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của mình. Nhiều ngành nghề được hình thành từ những điều kiện có sẵn của môi trường tự nhiên như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, … Song nhìn chung , môi trường tự nhiên vẫn giữ vai trò to lớn trong việc tổ chức , phân công lao động, phân bố lực lượng sản xuất và vẫn tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho quá trình sản xuất , do đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, đến tốc độ phát triển của xã hội, và do đó ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Để có chủ trương , chính sách hợp lý cho sự nghiệp phát triển kinh tế , Đảng và nhà nước ta phải xác định được một số mâu thuẫn tiêu biểu:
- Sự tác động tích cực của xã hội vào tự nhiên thông qua quá trình lao động sản xuất: Trong quá trình lao động , con người một mặt khai thác những cái đã có sẵn trong tự nhiên , mặt khác tái tạo tự nhiên làm cho bộ mặt tự nhiên biến đổi:
Nếu con người tác động vào tự nhiên theo quy luật của nó để tái tạo lại tự nhiên thì bộ mặt tự nhiên ngày càng phong phú, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sản xuất và đời sống của con người , hay nói cách khác là tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế.
Nếu con người chỉ biết khai thác những cái đã có sẵn trong tự nhiên , không biết tái tạo lại tự nhiên theo quy luật của nó sẽ làm cho tự nhiên ngày càng nghèo nàn đi , sự cân bằng sinh thái bị phá vỡ . Khi đó sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội , con người …và gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế .
- Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến hoạt động kinh tế và sản xuất vật chất:
Một là: Từ những sản phẩm của bản thân tự nhiên con người chế tạo thành nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng,… và cả những tư liệu sản xuất phục vụ cho quá trình sản xuất, lẫn tư liệu tiêu dùng .
Hai là: Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến quá trình phân công lao động xã hội , phân bố lực lượng sản xuất , ngành sản xuất. Ví dụ: Căn cứ vào sự phân bố tài nguyên mà người ta chia sản xuất thành các khu vực như khu công nghiệp khai khoáng, công nghiệp dầu khí, công nghiệp chế biến, nông nghiệp , ngư nghiệp, … Ngoài ra, điều kiện tự nhiên cũng ảnh hưởng rất quan trọng đến năng suất lao động , hiệu quả , quy mô, tốc độ của nền sản xuất nói chung.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA
Mỗi một hoạt động của con người đều có tác động đến tài nguyên Môi trường xung quanh theo chiều hướng thuận lợi hay không thuận lợi cho đời sống và phát triển của con người. Ngay từ xa xưa, con người đã có những hình thức nhằm bảo vệ tài nguyên như : hình thành các quy ước bảo vệ rừng đầu nguồn, lập các miếu thờ để dựa vào uy thế của thần linh nhằm ngăn cấm việc phá rừng…
Chỉ khi xã hội phát triển, nhờ tiến bộ khoa học và kỹ thuật mà kinh tế tăng trưởng nhanh, song tài nguyên cạn kiệt, cân bằng sinh thái bị đảo lộn, chất lượng môi trường sống suy thoái thì quản lí môi trường đã trở thành một hoạt động cụ thể của quản lí Nhà nước.
Nhận thức rõ vai trò của điều kiện tự nhiên đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều chủ trương , chính sách nhằm bảo vệ và khai thác tài nguyên một cách hợp lí. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “ Phát triển nhanh, bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “ Phát triển kinh tế- xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường tự nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học. Chủ động phòng tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi và tiếp tục giải quyết hậu quả chiến tranh còn lại đối với môi trường. Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, tăng cường quản lí Nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi người dân. Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch , kế hoạch , chương trình và dự án phát triển kinh tế- xã hội , coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng đánh giá các giải pháp phát triển”.
Việt Nam được thế giới xác định là quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi . Từ cương lĩnh đại hội Đảng lần thứ VI đến đại hội Đảng lần thứ IX, trải qua 15 năm đổi mới và phát triển đã thể hiện tính đúng đắn của nó . Kinh tế liên tục tăng trưởng, xã hội ổn định . Việt Nam là một trong những quốc gia tham gia tích cực vào công tác bảo vệ môi trường, duy trì và bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tham gia nhiều công ước quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, duy trì đa dạng sinh học và phát triển bền vững.
Trong quy hoạch và thực hiện chính sách kinh tế vùng , mặc dù còn rất nhiều điểm cần phải hoàn chỉnh nhưng xu thế cách biệt giữa miền núi, hải đảo , trung du, đồng bằng, … đang từng bước được thu hẹp. Đồng thời với việc hoạch định những chủ trương , chính sách , biện pháp cụ thể nhằm bảo vệ môi trường, xác lập các vùng kinh tế chuyên ngành, chúng ta đã ban hành hàng loạt những văn bản pháp luật cần thiết có tính khả thi để bảo vệ tài nguyên và môi trường. Đảng và nhà nước ta còn tham gia rất tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới nhằm bảo vệ sự trong sạch của môi trường; khai thác hợp lý nguồn lợi của tự nhiên phục vụ tốt nhất cho cuộc sống của con người.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tiễn thời gian qua, với cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước cũng đã thể hiện những mặt trái của nó liên quan đến bảo vệ môi trường và bảo tồn , duy trì các nguồn tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn như vấn đề phá rừng, xâm phạm tài sản quốc gia, vấn đề khai thác và buôn bán động vật hoang dã, sự hạn chế giảm thiểu ô nhiễm ở các doanh nghiệp nhà nước … Có thể nói môi trường tự nhiên mà chúng ta đang sống đã và đang bị suy thoái trầm trọng. Hơn 11 triệu ha đất trống đồi núi trọc, việc khôi phục và phủ xanh diện tích này được tiến hành còn rất chậm và hiệu quả chưa cao. Độ phì nhiêu của nhiều vùng đất có nguy cơ suy giảm hoặc bị suy thoái do xói mòn, rửa trôi, đá ong hoá, chua mặn hoá. Đất nông nghiệp đang bị thu hẹp, chất lượng rừng tự nhiên thấp, có tới 70% diện tích thuộc dạng nghèo kiệt. Rừng ngập mặn, đầm phá đang bị khai thác quá mức, có nơi hầu như không còn khả năng phục hồi tái sinh. Đa dạng sinh học trên đất liền và dưới biển đang bị suy giảm. Địa bàn cư trú sinh sản của các loài động thực vật hoang dã có nơi bị thu hẹp chia cắt nghiêm trọng. Việc săn bắt, mua bán thịt thú rừng, chim thú sống, chim thú nhồi chưa được kiểm soát chặt chẽ nên nhiều loài đang bị tuyệt chủng hoặc có nguy cơ bị tuyệt chủng. Nguồn tài nguyên gen quý hiếm của nước ta chưa được bảo vệ tốt.
Nguồn tài nguyên nước, nước mặn và nước ngầm nhiều nơi đang bị cạn kiệt dần về lượng, bị ô nhiễm suy giảm về chất, nguy cơ thiếu nước cho sinh hoạt và sản xuất đang có chiều hướng trở thành hiện thực ở nhiều vùng.
Môi trường đô thị và các khu công nghiệp, nhất là các vùng phát triển kinh tế trọng điểm, đã bị ô nhiễm do chất thải các loại không được thu gom và xử lý kịp thời như: khí thải, nước thải, tiếng ồn, bụi cộng với cở sở hạ tầng quá yếu kém làm cho điều kiện vệ sinh sức khoẻ ở nhiều nơi bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Các nhà máy, khu công nghiệp cũ cũng đang ở trong tình trạng ô nhiễm, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động và dân cư xung quanh.
Tỷ lệ công nhân mắc bệnh nghề nghiệp, bị tai nạn lao động, nhất là trong các ngành hoá chất, luyện kim, vật liệu xây dựng, khai thác mỏ ngày càng có chiều hướng gia tăng.
Môi trường biển và biển ven bờ đã bắt đầu bị ô nhiễm, hàm lượng các chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, kim loại nặng, vi sinh, hoá chất nông nghiệp ở một số nơi đã vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Hàm lượng dầu trong các vùng biển đang có xu hướng tăng lên, một số nơi đã vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Các vấn đề môi trường toàn cầu ngày càng tác động đến môi trường nước ta: khí hậu thay đổi theo chiều hướng nóng lên, tầng ôzôn suy giảm, mực nước biển dâng cao, ô nhiễm xuyên biên giới, xuất khẩu công nghiệp ô nhiễm, mức độ suy giảm chất lượng nước ở các dòng sông chung quốc gia và các thảm rừng chung biên giới, mưa axit, các cực trị về bão lũ, mưa lớn, hạn hán ngày càng gia tăng, gây ra nhiều ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống nhiều vùng. Các sự cố tràn dầu trên biển ở vùng cửa sông, các cảng, các sự cố kỹ thuật ở các cơ sở sản xuất ngày càng gia tăng, gây thiệt hại không nhỏ về người và của.
Tình trạng môi trường bị ô nhiễm và suy thoái đã nêu ở trên là hậu quả của một thời gian dài trước đây chúng ta chưa quan tâm đầy đủ đến nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong các kế hoạch phát triển xã hội, trong quy hoạch phát triển đô thị và công nghiệp, trong quy hoạch các ngành kinh tế, trong đầu tư xây dựng các công trình cụ thể.
Ở các thành phố, cơ sở hạ tầngkỹ thuật bảo đảm cho môi trường quá thấp kém, trong khi tốc độ phát triển của các khu vực dân cư, các khu dịch vụ và các khu công nghiệp vượt quá khả năng đầu tư môi trường, gây ra hiện tượng quá tải ở hầu hết các nơi, làm ô nhiễm môi trường càng trầm trọng thêm gấp bội. Cấp nước cho đô thị trung bình chỉ đạt trên 53% dân số, chưa có đô thị nào có hệ thống xử lý nước thải tập trung và có đủ khả năng thoát nước mưa. Môi trường nước bị ô nhiễm nặng nề. Công tác quản lý ô nhiễm công nghiệp còn bất cập so với yêu cầu. Công tác quản lý nhập khẩu chưa chặt chẽ nên nhiều công nghệ cũ, thiết bị máy móc cũ có hại cho môi trường đã được nhập vào Việt Nam. Một số nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng tiêu chuẩn cho phép mức ô nhiễm môi trường ở Việt Nam còn thấp đã đầu tư cho bảo vệ môi trường quá nhỏ. Các loại hình “ chuyển giao công nghệ ô nhiễm”, xâm lược sinh học” mà trên thế giới lên án đều đã hiện diện trên đất nước ta.
Bước vào thế kỷ XXI, với tốc độ của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và đô thị hoá, với các xu thế về môi trường như đã phân tích ở trên, chúng ta phải đương đầu với những thách thức lớn trên con đường phát triển bền vững.
Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ, song mức tăng trưởng dân số ở nước ta vẫn tiếp tục tăng cao. Dự báo đến năm 2020 dân số nước ta xấp xỉ 100 triệu người, trong khi tài nguyên đất, tài nguyên nước và các dạng tài nguyên khác có xu thế giảm, tạo ra sức ép to lớn đối với cả tài nguyên và môi trường trên phạm vi toàn quốc.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi các nhu cầu về năng lượng, nguyên liệu ngày càng nhiều hơn, kéo theo chất lượng môi trường sống ngày càng xấu đi, nếu không có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu ngay từ bây giờ thì nguy cơ khủng hoảng môi trường sẽ khó tránh khỏi.
Chuẩn bị đón tiếp hàng triệu khách du lịch nước ngoài vào năm 2010 đòi hỏi hàng loạt vấn đề về cơ sở hạ tầng, giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, giao thông vận tải, năng lượng đồng thời hàng loạt vấn đề môi trường, xã hội, văn hoá, bảo tồn thiên nhiên.
Các vấn đề môi trường toàn cầu và khu vực ngày càng ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp phát triển của nước ta (khí hậu nóng nước biển dâng). Tác động toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư là những vấn đề cần quan tâm trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường.
Hiện trạng, công tác quản lý môi trường đang có nhiều vấn đề bất cập từ nhận thức đến hệ thống đường lối, chiến lược, quy hoạch, luật pháp, chính sách, tổ chức, kế hoạch đầu tư, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý ở các cấp các ngành, đặc biệt là cán bộ, công nhân ngành môi trường.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KẾT HỢP GIỮA MỤC TIÊU KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Môi trường sinh thái- môi trường tự nhiên là môi trường sống gắn liền với mọi hoạt động của con người, đồng thời cũng là điều kiện khách quan tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Điều kiện tự nhiên tuy không phải là nhân tố quyết định đối với sự phát triển của xã hội nhưng nó có vai trò rất quan trọng , là yếu tố cần thiết cho sản xuất và sự sống. Vì vậy , muốn phát triển được kinh tế thì điều quan trọng trước tiên là phải bảo vệ được những nguồn lực kinh tế, đó là môi trường tự nhiên. Một số giải pháp kết hợp mục tiêu kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái đó là:
1. Giáo dục tư tưởng và ý thức bảo vệ môi trường
Khi con người bất chấp quy luật vi phạm những nguyên tắc đảm bảo cho sự phát triển bền vững, biến “khai thác” thành “ chiếm đoạt” tự nhiên , thì môi trường tự nhiên không phải chỉ gây khó khăn cho quá trình sản xuất nữa, mà còn đe doạ đến sự sống còn của toàn xã hội . Đó là sự khan hiếm và cạn kiệt dần các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, đất , … , đó là các hiện tượng “ hiệu ứng nhà kính”, “ lỗ thủng tầng ôzôn” , sa mạc hoá, … Vì vậy con người phải không ngừng nâng cao nhận thức về tự nhiên, xây dựng ý thức sinh thái . Và vì vậy nhiệm vụ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của quần chúng. Các nhiệm vụ bảo vệ môi trường có được hoàn thành hay không phụ thuộc phần lớn vào nhận thức và ý thức môi trường của toàn xã hội. Do đó , giáo dục, truyền thông môi trường cũng là một công cụ quản lí môi trường gián tiếp và rất cần thiết , đặc biệt là ở các nước phát triển.
Giáo dục tư tưởng và ý thức bảo vệ môi trường, đó là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy nhằm giúp con người có được sự hiểu biết, kỹ năng và giá trị, tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội bền vững về sinh thái.
Mục đích của giáo dục môi trường là nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ năng vào giữ gìn , bảo tồn và sử dụng môi trường theo cách bền vững cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. Giáo dục môi trường cũng bao hàm cả việc học tập cách sử dụng những công nghệ mới nhằm tăng sản lượng kinh tế và tránh những thảm hoạ môi trường, xoá nghèo đói, tận dụng những cơ hội và đưa ra những quyết định khôn khéo trong việc sử dụng tài nguyên. Hơn nữa, giáo dục môi trường bao hàm cả việc đạt được những kỹ năng , có những động cơ và cam kết hành động, dù với tư cách cá nhân hay tập thể, để giải quyết những vấn đề môi trường hiện tại và phòng ngừa những vấn đề mới nảy sinh.
Truyền thông môi trường là một quá trình tương tác xã hội hai chiều nhằm giúp cho những người có liên quan hiểu được các yếu tố môi trường then chốt, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng và cách tác động vào các vấn đề có liên quan một cách thích hợp để giải quyết các vấn đề về môi trường.
Mục tiêu của truyền thông môi trường nhằm :
Thông tin cho người bị tác động bởi các vấn đề môi trường biết tình trạng của họ, từ đó giúp họ quan tâm đến việc tìm kiếm các giải pháp khắc phục.
Huy động các kinh nghiệm, kỹ năng, bí quyết địa phương tham gia vào các chương trình bảo vệ môi trường.
Thương lượng, hoà giải các xung đột, khiếu nại, tranh chấp về môi trường giữa các cơ quan và trong nhân dân.
Tạo cơ hội cho mọi thành phần xã hội tham gia vào việc bảo vệ môi trường, xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường .
2. Kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu môi trường
Trong lịch sử phát triển của các quốc gia, đã có một thời , nhất là sau cuộc cách mạng công nghiệp , phát triển kinh tế được đặt lên hàng đầu , lấn át tất cả những yếu tố khác của sự phát triển như: xã hội , văn hoá, môi trường, quyền con người,…. Phát triển tự phát đã trở nên thịnh hành , gây ra hậu quả hết sức tai hại cho cả môi trường lẫn xã hội , văn hoá.
Ngay cả trong thời điểm hiện nay, khi mà cuộc chạy đua phát triển giữa các quốc gia, giữa các khu vực kinh tế của thế giới đang diễn ra gay gắt, trong bối cảnh đó người ta dễ có khuynh hướng hi sinh môi trường và các yếu tố khác cho phát triển kinh tế. Kết quả là môi trường bị suy thoái làm cho cơ sở phát triển bị thu hẹp; tài nguyên của môi trường bị giảm sút về số lượng và chất lượng, trong điều kiện dân số ngày càng tăng hiện nay thì đây chính là nguyên nhân gây nên sự nghèo đói cùng cực của con người.
Do đó, phát triển kinh tế và môi trường không phải là hai vấn đề đối kháng và mâu thuẫn nhau theo kiểu loại trừ mà nó phải bổ sung , tương hỗ với nhau, phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái để nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Một số giải pháp cho vấn đề này là:
-Thực thi chính sách môi trường khách quan, đúng đắn, phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng thời kỳ. Chính sách môi trường đó phải phản ánh lợi ích lâu dài của quốc gia, của toàn xã hội, cũng tức là lợi ích của mọi thành viên trong xã hội.
- Xây dựng và thực hiện các quy hoạch và kế hoạch về môi trường chuẩn xác, có tầm nhìn xa, có tính khả thi cao và quy tụ lợi ích của cả hệ thống.
- Thực hiện đầy đủ và nghiêm ngặt chế độ kế toán và kiểm toán môi trường, sử dụng đúng đắn và rộng rãi các khuyến khích, đòn bẩy kinh tế để quản lí môi trường một cách có hiệu quả, nhất là trong thời kỳ quá độ của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường.
- Kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa quản lý tài nguyên và môi trường với quản lý kinh tế, quản lý xã hội .
- Sản xuất sạch hơn là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp:
Đây là việc áp dụng một cách có hệ thống các biện pháp phòng ngừa trong các quy trình, sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm mục tiêu tăng hiệu quả tổng thể. Đồng thời giúp cải thiện tình trạng môi trường , tiết kiệm chi phí , giảm rủi ro cho con người và cho môi trường.
Đối với các quy trình sản xuất: Bảo quản nguyên liệu, năng lượng, loại bỏ các nguyên liệu độc hại, giảm bớt số lượng và mức độ độc hại của các chất thải gây ô nhiễm ngay từ giai đoạn trước khi chúng được thải ra môi trường.
Đối với các sản phẩm: phải chú trọng đến việc giảm bớt các tác động có hại trong suốt chu trình của sản phẩm, ngay từ khi khai thác các nguyên liệu cho đến khi giao nộp sản phẩm.
Đối với các dịch vụ: Phương pháp phòng ngừa ô nhiễm môi trường bao gồm từ khâu thiết kế, cải tiến việc quản lý nhà xưởng, đến khâu lựa chọn các loại đầu vào(dưới dạng các sản phẩm).
Các biện pháp trên nhằm giúp :
Tránh hoặc giảm bớt lượng chất thải được sản sinh ra.
Sử dụng có hiệu quả các nguồn năng lượng và nguyên vật liệu.
Sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ có lợi cho môi trường.
Giảm bớt lượng chất thải xả vào môi trường; giảm chi phí và tăng lợi ích.
3. Luật pháp và nghĩa vụ thực hiện luật bảo vệ môi trường
- Cần ưu tiên cho việc xây dựng các chính sách và pháp luật thích ứng về môi trường. Các điều khoản thực hiện đòi hỏi phải cân nhắc đến các yếu tố môi trường trong các luật lệ quy định việc lập kế hoạch các dự án phát triển thuộc các lĩnh vực như giao thông, khai mỏ, năng lượng, ngu nghiệp, phát triển khu dân cư mới và du lịch.
- Luật pháp và các cơ chế đảm bảo cho việc phân vùng sử dụng đất tổng hợp phải được đi kèm với toàn bộ qúa trình công nghiệp hoá. Quy hoạch phân vùng phải được tiến hành sao cho đảm bảo rằng việc sử dụng đất cho công nghiệp cũng như cho các mục đích khác được bố trí theo cách làm giảm tối thiểu các tác động đến phần nhạy cảm của môi trường và đến việc sử dụng các vùng đất xung quanh.
- Khuôn khổ pháp luật được xây dựng phải đảm bảo cơ sở để có được một cơ quan pháp lý cần thiết nhằm thực hiện kế hoạch hành động, cùng với các kế hoạch hành động khác do các cơ quan Nhà nước và địa phương xây dựng. Trong khuôn khổ luật pháp cũng còn phải có các điều khoản về thành lập các khu bảo vệ.
- Cần xây dựng môt chương trình đào tạo về luật môi trường cho các luật sư Việt Nam như các nước trong khu vực đã làm, ví dụ Indonesia.
- Cần triển khai dự thảo luật môi trường và phải gắn nó với các luật pháp hiện hành khác liên quan đến các vấn đề môi trường, bao gồm những điều khoản nhằm định kỳ cập nhật các quy chế. Đồng thời cần xây dựng các chính sách về kinh tế – xã hội cho những vùng còn kém phát triển về kinh tế để tạo điều kiện cho các vùng này thực hiện luật môi trường. Về ban bố luật bảo vệ môi trường này phải được kèm theo một cuộc vận động nâng cao nhận thức sâu rộng trong quần chúng.
KẾT LUẬN
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan, tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. ở
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phép biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái trong điều kiện nước ta hiện nay.doc