Ổn định về chính trị lại không thể tách rời đổi mới về chính trị – Nhưng đổi mới về chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định về chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghiã, và nhờ đó mới giữ vững được sự ổn định về chính trị. Song đổi mới về kinh tế cũng không phảI là đổi mới một cách tuỳ tiện mà phải theo định hướng chính trị nhất định. Đó chính là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang “ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo kinh tế thị trường,có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, hay nói một cách khác ngắn gọn - đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển sang nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm thực hiện mục tiêu: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế , quốc phòng an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của ta trên trường quốc tế được nâng cao. Và đó cũng là cơ sở kinh tế cho sự ổn định chính trị.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1973 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i lập là sự khái quát những thuộc tính, những khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó. Do đó cần phân biệt mặt đối lập và mâu thuẫn . Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập, nhưng không phải bất kì mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập, có nhữngmặt đối lập lại tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau. “Thống nhất’’ của các mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải chúng đứng bên cạnh mà là nương tựa vào nhau tạo ra sự phù hợp, cân bằng như liên hệ phù thuộc, quy định mà ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiên đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thế nào thiếu được cho sự tồn tại của bất kì sự vật hiện tượng nào.
+ Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo nên.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát triển. Hai hình thức này chính là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của phương thức sản xuất. Nhưng quan hệ của lực lượng săn xuất và quan hệ sản xuất phảI thoả mãn một số yêu cầu sau:
Thứ nhất: Đó phải là khái niệm chung nhất được khái quát từ các mặt phù hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Thứ hai: Đó phải là khái niệm “ động’’ phản ánh được trạng thái biến đổi thường xuyên của sự vận động, sự phát triển trong quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Thứ ba : Đó phải là khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất được coi là thoả đáng là quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì, đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Hai mặt đối lập này không nằm yên bên nhau, mà chúng luôn luôn đấu tranh với nhau . Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ, phủ định nhau trong thế giới vật chất được thể hiện dưới những dạng rất khác nhau.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy có thể chia ra tong giai đoạn. Mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng của nó. Khi mới xuất hiện mâu thuẫn thường được biểu hiện ở mỗi sự khác nahu của hai mặt. Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn sự khác nhau đó biến thành sự đối lập . Khi hai mặt đối của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Sự thống nhất của hai mặt đối lập mới được hình thành cùng với mâu thuẫn mới. Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập làm cho các sự vật không thể tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, là động lực bên trong của mọi sự vận động và phát triển. Chính vì vậy, Lênin đã viết: “ phát triển là một cuộc đấu tranh’’ giữa các mặt đối lập.
3- Sự chuyển hoá của các mặt đối lập .
Không phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến sự chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết sự vật cũ mất đi, sự mới hình thành. Đó chính là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau.
Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
Phương thức một: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương chất của sự vật.
Phương thức hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh và phủ định lẫn nhau để tạo sự vật mới. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quan niệm mới.
Như chúng ta đã biết, từ khi Xã hội chủ nghĩa được xây dựng, tất cả các nước Xã hội chủ nghĩa đều được thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế vận hành và quản lí kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như là một đặc trưng riêng biệt của Xã hội chủ nghĩa, là cái đối lập với cơ chế thị trường của Chủ nghĩa tư bản . Nền kinh tế tập trung đã được các nước Tư bản áp dụng từ trước khi nhiều nước xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa .
Nhưng các nước Tư bản chủ nghĩa đã xoá bỏ cơ chế thị trường sau khi chiến tranh kết thúc và đã đạt được những thành tựu rất lớn về kinh tế xã hội. Nhưng công bằng mà nói, nền kinh tế thị trường cũng chưa phải là cái duy nhất bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển của xã hội.
Trong công cuộc đổi mới hịên nay. Đảng ta một lần nữa khẳng định những giá trị khoa học bền vững của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời tuyên bố lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho người hành động.
+ Một số đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam nhìn từ góc độ triết học.
Nền kinh tế nước ta hiện nay, có thể nói,đang ở trong giai đoạn quá độ chuyển tiếp nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét.
Vậy từ phương diện triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế quá độ của nước ta hịên nay là gỉ ? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung – bao cấp, mọi chức năng kinh tế – xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất, lưu thông, phân phối … khá nặng nề . Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Ví thế, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
Kể từ đại hội lần thư VI của Đảng ( 12/ 1986 ) đến nay, theo đường lối đổi mới, đất nước ta đã tong bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa và điều đó có nghĩa là, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta “ điều chỉnh bổ xung nhận thực, làm cho quan niệm chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể; đường lối, chủ trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định, cũng gián tiếp khả năng của nền kinh tế thị trường trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nước.
Thành tựu những năm đổi mới ở nước ta vừa qua đã có tácdụng làm cho chúng quen dần với các quan hệ hàng hoá. Bước chuyển sang cơ chế thị trường này đương nhiên không tránh khỏi có những mặt tiêu cực của nó; nhưng dẫu sao nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của các quan hệ thị trường. Về thực chất của bước chuyển này, một số cho rằng: “ ở Việt Nam, dù nền kinh tế thị trường chỉ mới vừa được hình thành, còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được điều tiết một cách có ý thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song cũng đã tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để lại ở đó những dấu ấn của mình về mặt văn hoá …” Sự đan xen chi phối mãnh liệt của các nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối cảnh cơ chế thị trường bị “ khúc xạ’’ theo nhiều chiều hướng khác nhau.
Vai trò của Nhà nước và của nền kinh tế Nhà nước trong một nền kinh tế hướng tới thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là điều không bàn cãi. Nhà nước, ngoài việc trực tiếp phải quyết định những vấn đề của bản thân nền kinh tế còn phải đóng vai trò là nhân vật trung gian giữa các vấn đề kinh tế và xã hội. Nhà nước với các chính sách luật lệ của mình, một mặt, có khả năng làm cho nền kinh tế đạt tới một sự tăng trưởng có hiệu quả, nhưng một mặt khác, nó cũng lại chính là người lo giải quyết các vấn đề do chính sự tăng trưởng kinh tế đó tạo ra. Trên thực tế, bộ máy quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế còn quá kồng kềnh và kém hiệu quả. Hầu hết các doanh nghiệp kinh tế Nhà nước đều hoạt động thiếu năng động và hiệu quả, quá ỷ lại vào Nhà nước.
Cũng phải thừa nhận rằng, các vấn đề nói trên dù ít, dù nhiều, cũng là các vấn của bản thân cơ chế quản lý. Trong nền kinh tế hiện nay, cơ chế quản lý đang ở gia đoạn hình thành nên thường là không đồng bộ, thiếu hụt. Chúng ta chưa thực sự tạo ra môi trường an toàn và ổn định cho sản xuất và kinh doanh. Tính chất không rõ ràng, thiếu xác định cả trên phương diện kinh tế – xã hội dường như đang là một cái gì đó rất phổ biến, rất đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế nước ta. Cần thiết phải lưu ý rằng, khác với cơ chế hành chính – bao cấp, cơ chế thị trường với các qui định khách quan khó nắm bắt của mình, thường biểu hiện ra như một cơ chế tự phát hơn, tự nhiên hơn và nắm bắt của mình, thường biểu hiện ra như một cơ chế thị trường, tự nhiên hơn và nằm xa sự chi phối của con người hơn. Bao giờ cũng vậy, trong giai đoạn quá độ, chuyển tiếp yếu tố tự phát vai trò của mình mạnh hơn yếu tố tự giác. Bởi vậy, trong nền kinh tế nước ta hiện nay, việc nắm được các yếu tố tư phát, tự giác của nền kinh tế, hiểu được phương thức hoặc tìm ra được phương pháp kiểm soát thích hợp đối với chúng ta đều hết sức có ý nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có quá nhiều hiện tượng và quá trình mà chúng ta còn buông lỏng sự kiểm soát hoặc chưa thực sự có khả năng kiểm soát hoạt động của chúng ta.
Mà hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta, sản xuất hàng hoá cùng với’’. Nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường” hiện đã được chúng ta hiểu là không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một “ Cơ hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài’’, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta.
Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta lại cũng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sợ vận động của đời sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triến xã hội; nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội.Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với sự tiến bộ của xã hội. Do vậy, trong quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh thì kinh tế thị trường nhất định phải có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
B. Những mâu thuẫn phát sinh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Mấy vấn đề lý luân chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị.
“ Chính trị là sự biểu hiện tập chung của kinh tế’’. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Khi xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của Duyninh cho rằng: Bạo lực chính trị quyết định kinh tế, F.Engen đã khẳng định: “ Bạo lực chỉ là phương tiện còn lợi ích kinh tế, trái lại, là mục đích’’ . F.Engen còn chỉ rõ: “ Để thoả thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần” .
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kịên đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về thực chất là đấu tanh về lợi ích kinh tế, được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo F. Engen: “ Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng là đấu tranh chính trị, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng kinh tế”. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị, V.I Lênin lại khẳng định: “ Chính trị không thể không đứng hàng đầu so với kinh tế”. Ngoài ra, Lênin còn khẳng định: “Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”. Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện kiên quyết để thúc đấy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việ nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới của Việt Nam nói riêng. Nước ta chuyển sang một giai đoạn mới – giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới. Từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới, kết cấu hạ tầng kinh tế – xâ hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu cần thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế; từ cơ chế quản lý tập chung quan liêu, bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;từ chỗ chủ yếu chỉ có hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần; trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm.
Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta khi mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nề. Khi nước ta dành được những thắng lợi bước đầu, ở nước ta đã có quan điểm cho rằng nguyên nhân thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do các nước đó dổi mới chính trị trước đổi mới kinh tế sau; còn nguyên nhân thành công của công cuộc đổi mới của nước ta là đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau. Quan điểm này mới xem qua tưởng là chính xác, nhưng đI vào phân tích sẽ thấy nó không phù hợp với lý luận và thực tiễn. Sự thật là phải có đường lối do đảng đề ra, trên cơ sở đó hình thành chính sách mới, luật pháp mới…thì mới có thể đổi mới kinh tế. Bản thân đường lối đổi mới cùng với chính sách luật pháp… của nhà nước đều thuộc về chính trị. Đổi mới chính trị, trên cơ sở đổi mới kinh tế, gắn liền với đổi mới kinh tế và đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I X, Đảng ta đã khẳng định mối quan hệ gắn bó, thống nhất giữa kinh tế và chính trị. Tăng trưởng kinh tế gắn với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong tong bước phát triển: “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá,từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ và cải thiện môi trường. Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh” .
Trong khi đề ra đường lối chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh tới vấn đề phảI ổn định chính trị giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như là một nghịch lý nhưng lại hoàn toàn có lý vầ khoa học:
Đối với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa.
ổn định về chính trị lại không thể tách rời đổi mới về chính trị – Nhưng đổi mới về chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định về chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghiã, và nhờ đó mới giữ vững được sự ổn định về chính trị. Song đổi mới về kinh tế cũng không phảI là đổi mới một cách tuỳ tiện mà phải theo định hướng chính trị nhất định. Đó chính là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang “ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo kinh tế thị trường,có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, hay nói một cách khác ngắn gọn - đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển sang nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm thực hiện mục tiêu: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế , quốc phòng an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của ta trên trường quốc tế được nâng cao. Và đó cũng là cơ sở kinh tế cho sự ổn định chính trị.
Tóm lại : ổn định và đổi mới chính trị là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nền tảng của đổi mới kinh tế.
2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa. ở nước ta hiện nay, vấn đề của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp, mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học và chủ nghĩa Mác Lênin theo đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là hình thức của sự vật, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quyết định sự hình thành, biền đổi và phát triển của quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển tới một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất không còn phù hợp nữa, trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển cần phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .
Mục đích của nền kinh tế thị trường theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 sở hữu quản lí và phân phối. Tiêu chuấn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng – quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu làm kìm hãm sự phát triển nền kinh tế. Mâu thuẫn diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết triệt để. Nhưng giải quyết nó thế nào và bằng cách nào ? Đó chính là các cuộc cách mạng xã hội chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một ví dụ . Nếu ta tạo được lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất hoặc đổi mới quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, nó sẽ thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nói tóm lại, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng nó có sự tác động qua lại với nhau theo hai hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nhau, cũng như kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
3. Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong cơ chế thị trường.
Trước đây người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội là: sở hữu xã hội chủ nghĩa tồn tại dưới hai hình thức sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu là tất yếu khách quan bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội quyết định.
Ngay sau khi giành được độc lập dân tộc, Nhà nướcc non trẻ của chúng ta vừa phải kháng chiến chống thù trong giặc ngoài, vừa tiến hành kiến quốc, nhưng ngay từ năm 1953 trong tác phẩm : “Thưởng thức chính trị” Hồ Chí Minh đã nói đến sự tồn tại của 5 loại hình kinh tế khác nhau trong chế độ mới:
+ Kinh tế quốc doanh ( thuộc chủ nghĩa xã hội; vì nó là của chung của nhân dân )
+ Các hợp tác xã ( nó là nửa chủ nghĩa xã hội và sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội )
+ Kinh tế cá nhân, nông dân và thủ công nghệ ( có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội )
+Tư bản tư nhân
+Tư bản của nhà nước
Trong 5 loại ấy, kinh tế quốc doanh là kinh tế lãnh đạo và ptát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo chủ nghĩa tư bản. Do mắc phải bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý trí trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và chưa quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nên đã muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế “ phi Xã hội chủ nghĩa’’ nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân quốc doanh, muốn hoàn thành trong thời gian ngắn cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kết quả là những thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân về tư lỉệu sản xuất cơ bản đã bị triệt tiêu, kinh tế phát triển chậmdần, từ đầu những năm 80 thế kỉ XX đất nước lâm vào khủng hoảng Kinh tế - Xã hội trầm trọng. Khắc phục sai lầm trên từ Đại hội VI của Đảng. Đại hội khởi đầu sự nghiệp đổi mới - chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần được nhận thức lại và thực hiện nhất quán. Đảng ta xác định, nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược. Từ đó các thành phần kinh tế tư bản tư nhân tiểu chủ, kinh tế hộ gia đình mới có điều kiện hình thành phát triển trở lại một cách công khai.
Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần, đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chư không phải chỉ có hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể như quan niệm trước đây. Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định tính đúng đắn của chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó có thể khẳng đinh rằng, không có sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân thì không thể nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng không có tư nhân thì không thể có kinh tế thị trường. Vậy ta cần giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa tư hữu với công hữu trong chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho thoả đáng và hợp quy luật phát triển khách quan, phù hợp với thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiểu cho đúng về sở hữu nhà nước và sở hữu toàn dân, không nên nhầm lẫn và đồng nhất hai hình thức sở hữu này. Gắn kết chế độ công hữu với sở hữu tư nhân người lao động.
4. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phảI có con người xã hội chủ nghĩa. Yếu tố con người giữ vững vai trò cực kì quan trọng trong sự nghiệp cách mạn, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hôá con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đao đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của xã hội chủ nghĩa chúng ta phải bắt đầu từ con người lấy con người làm điểm xuất phát.
Xuất phát từ phân tích trên đây, chúng ta đã thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tề thị trường. Việc xây dựng củng cố, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nươchữ số theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đồng nghĩa tạo ra các điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng phát triển con người cho thế kỷ XXI.
Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rẫi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôI động hơn. Đây là những kết quả đáng mừng, đáng được phát huy, nó thể hiện sự phát hiện và vận dụng đúng đắn các qui luật của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên chủ nghĩa xã hội từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên qui mô toàn xã hội.
Những phân tích trên đây cho thấy, nền kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội, giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựngcon người có sự thống nhất, vừa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35567.doc