Tiểu luận Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng nó trong phân tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyến sang kinh tế thị trường ở Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

NỘI DUNG

I- LÝ LUẬN CHUNG

1- Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến.

2- Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó, hai mặt đối lập vừa thống nhất , vừa đấu tranhvới nhau.

II- MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN SANG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

1- Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

1.1- Một số đặc điểm chung của kinh tế thị trường ở Việt Nam.

1.2- Một số đặc điểm của kinh tế thị trường ở Việt Nam nhìn từ góc độ triết học

2- Những mặt phát sinh trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam

2.1- Mâu thuẫn giữa đổi mới kinh tế và ổn định chính trị.

2.2- Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

2.3- Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trong cơ chế thi trường.

2.4- Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5439 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng nó trong phân tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyến sang kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường ở Việt Nam Nền kinh tế nước ta hiện nay, có thể nói, đang ở trong giai đoạn quá độ từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ đó chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan, nóng vội hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc sao chép nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài vào. 1.1 Một số đặc điểm chung của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử, nó nhằm tới mục tiêu cụ thể và mang tính cách mạng. Nó thay cũ đổi mới hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cả về kinh tế và chính trị – xã hội, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưỏng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh và điều kiện mới. Như chúng ta đã biết, từ khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như là đặc trưng riêng biệt của CNXH, là cái đối lập với cơ chế thị trường của CNTB. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì sự tồn tại của nền sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường – bước phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá là tất yếu. Bởi nền kinh tế thị trường cũng như nền kinh tế tập trung không phải là thuộc tính cố hữu của một chế độ xã hội nào mà vấn đề là áp dụng vào thời điểm nào cho phù hợp. Nước ta đang trong giai đoạn quá độ nên việc phát triển nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan. Nước ta sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội (1991-2000) và 15 năm (1986-2000) tiến hành sự nghiệp đổi mới đã đạt được những thành tựu quan trọng: - GDP tăng hơn 2 lần so với năm 1990, tích luỹ nội bộ đạt 27%GDP, kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều, cơ cấu kinh tế có bước chuyển biến tích cực. Hiện nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế đã phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. - Đất nước đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội. Phá được thế bị bao vây cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút được khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. - Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá không ngừng tiến bộ. - Quốc phòng và an ninh được giữ vững, tình hình chính trị- xã hội cơ bản ổn định Nhìn một cách tổng hợp, với những thành tựu đạt được trên đây sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 15 năm trước. Khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong những năm tới.... Đại hội IX khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Khác với nền kinh tế thị trường tự do, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng có những đặc trưng chủ yếu sau: - Về mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: + Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. + Nâng cao đời sống nhân dân. + Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. - Về hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài). Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển, chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao với những bước đi vững chắc. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quản xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. - Về quản lý: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý nhà nước , nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và của toàn thể nhân dân. - Về phân phối: + Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. + Theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh. + Thông qua phúc lợi xã hội. - Về mặt xã hội: + Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. + Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục đào tạo con người, xây dựng phát triển nhuồn nhân lực của đất nước, làm cho chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đại hội Đảng IX Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn cuả Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII của Đảng đồng thời giúp Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng ta một lần nữa khẳng định: cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá ddộ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. 1.2 Một số đặc điểm của kinh tế thị trường ở Việt Nam nhìn từ góc độ triết học: Nền kinh tế nước ta hiện nay đang ở trong giai đoạn quá độ chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy những đặc trưng của nó đã được trình bày ở trên là vấn đề có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc trưng đó chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý trí hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc. Vậy từ phương diện triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế quá độ của nước ta hiện nay là gì ? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung-bao cấp, mọi chức năng kinh tế - xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất, lưu thông, phân phối... khá nặng nề. Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, nền kinh tế vận động chậm chạp, kém năng động. Kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đến nay, theo đường lối đổi mới, đất nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa và điều đó có nghĩa là, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta “điều chỉnh và bổ xung nhận thức, làm cho quan niệm về chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể; đường lối, chủ trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định, đã thể hiện khả năng của kinh tế thị trường trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nước. Thành tựu những năm đổi mới ở nước ta vừa qua đã có tác dụng làm cho chúng ta quen dần với các quan hệ hàng hoá. Bước chuyển sang cơ chế thị trường này đương nhiên không tránh khỏi có những mặt tiêu cực của nó; nhưng dẫu sao nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của các quan hệ thị trường. Về thực chất của bước chuyển này, một số người cho rằng: “ở Việt Nam, dù nền kinh tế thị trường chỉ mới vừa được hình thành, còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được điều tiết một cách có ý thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song cũng đã tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để lại ở đó những dấu ấn của mình về mặt văn hoá ... ”. Sự đan xen chi phối mãnh liệt của các nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối cảnh của một xã hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính - bao cấp đã làm cho cơ chế thị trường biến đổi theo nhiều chiều hướng khác nhau. Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết thuộc về sự đổi mới các quan hệ sở hữu. Nếu trước đây nền kinh tế chỉ tồn tại một kiểu sở hữu tương đối thuần khiết với hai thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể thì hiện nay cùng với sở hữu chủ đạo là sở hữu nhà nước còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhằm đáp ứng đòi hỏi đa dạng và năng động của nền kinh tế. Vai trò của Nhà nước và của kinh tế Nhà nước trong một nền kinh tế hướng tới thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là rất quan trọng. Nhà nước, ngoài việc trực tiếp phải quyết định những vấn đề của bản thân nền kinh tế còn phải đóng vai trò là nhân vật trung gian giữa các vấn đề kinh tế và xã hội. Nhà nước với các chính sách luật lệ của mình, một mặt, có khả năng làm cho nền kinh tế đạt tới một sự tăng trưởng có hiệu quả, nhưng mặt khác cũng phải giải quyết các vấn đề do chính sự tăng trưởng kinh tế đó tạo ra. Trên thực tế, bộ máy quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế còn quá cồng kềnh và kém hiệu quả, trùng lắp nhiều chức năng với nhiều nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà. Hầu hết các doanh nghiệp kinh tế Nhà nước đều hoạt động thiếu năng động và hiệu quả, quá ỷ lại vào Nhà nước, chưa thật tập trung vào những ngành, những lĩnh vực then chốt, kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với nguồn lực đã có và sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước, sức cạnh tranh còn thấp đã được Nghị quyết Hội nghị lần III- BCHTW Đảng lần IX nhận định . Cũng phải thừa nhận rằng, các vấn đề nói trên dù ít, dù nhiều, cũng là các vấn đề của bản thân cơ chế quản lý. Trong nền kinh tế hiện nay, cơ chế quản lý đang ở giai đoạn hình thành nên thường là không đồng bộ, thiếu hụt. Chúng ta chưa thực sự tạo ra môi trường an toàn và ổn định cho sản xuất và kinh doanh. Tính không rõ ràng, thiếu xác định cả trên phương diện kinh tế - xã hội dường như đang là một cái gì đó rất phổ biến, rất đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế nước ta. Cần thiết phải lưu ý rằng, khác với cơ chế hành chính - bao cấp, cơ chế thị trường với các qui luật khách quan khó nắm bắt của mình, thường biểu hiện ra như là một cơ chế tự phát hơn, tự nhiên hơn và nằm xa sự chi phối của con người. Thông thường trong thời kỳ quá độ yếu tố tự phát thể hiện vai trò của mình mạnh hơn yếu tố tự giác. Bởi vậy, trong nền kinh tế nước ta hiện nay, việc nắm được các yếu tố tự phát, tự giác của nền kinh tế, hiểu được phương thức hoặc tìm ra được phương pháp kiểm soát thích hợp đối với chúng ta đều hết sức có ý nghĩa. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội (1991-2000) và 15 năm (1986-2000) tiến hành sự nghiệp đổi mới đã đạt được những thành tựu quan trọng: GDP tăng bình quân 7%/năm, văn hoá xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện: đến năm 2000 có 61 tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ, truyền hình phủ trên 85%, tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả tốt... Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta lại cũng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội; nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với sự tiến bộ xã hội. Do vậy, trong quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh thì kinh tế thị trường nhất định phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. 2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam. 2.1. Mâu thuẫn giữa đổi mới kinh tế và ổn định chính trị. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì kinh tế quyết định chính trị. “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế". Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của Đuyrinh cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế, F.Ăng-ghen đã khẳng định: “Bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế, trái lại, là mục đích” . Và trong tác phẩm “Lútvích Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” F.ăngen đã chỉ rõ: "Để thoả thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần”. Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo F.ăngen “Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề về giải phóng kinh tế". Để nhấn mạnh vai trò của chính trị , V.I Lênin đã khẳng định: “Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế". Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét, giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cùng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế- xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của kinh tế. V.I Lênin còn khẳng định: “Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất". Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện kiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt nam nói riêng. Có thể nói, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 - 1986) của Đảng Cộng sản Việt nam, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới. Khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đổi mới tư duy nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, coi đó là tiền đề để đổi mới trong hiện thực. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là đổi mới tư duy có thể tách khỏi đổi mới trong thực tiễn. Bản thân đổi mới tư duy là phản ánh yêu cầu đổi mới trong thực tiễn mà gắn liền với thực tiễn cuả công cuộc đổi mới. Chính vì vậy, tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta là cơ sở chủ yếu nhất để không ngừng đổi mới và phát triển tư duy. Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta, khi mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nề, khi mà chúng ta giành được những thắng lợi bước đầu, ở nước ta đã có quan điểm cho rằng nguyên nhân thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do các nước đó đổi mới chính trị trước đổi mới kinh tế; còn nguyên nhân thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau. Quan điểm này mới xem qua tưởng là chính xác, nhưng đi vào phân tích sẽ thấy nó không phù hợp với lý luận và thực tiễn. Theo quan điểm các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- Lênin như đã trình bày ở trên thì mỗi khi chính trị không phù hợp với kinh tế thì thay đổi về chính trị là điều kiện tiên quyết để thay đổi về kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cho nên không thể quy nguyên nhân thất bại trong đổi mới ở Liên Xô và Đông Âu là nguyên nhân thất bại. Nguyên nhân thực sự dẫn đến sự sụp đổ đó là do mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị không được phát hiện kịp thời và sớm khắc phục đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về chính trị làm mất vai trò của Đảng Cộng Sản. Khẳng định rằng ở nước ta đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau cũng không phù hợp với thực tiễn. Sự thật là phải có đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra, trên cơ sở đó hình thành chính sách mới, luật pháp mới...thì mới có thể đổi mới kinh tế. Bản thân đường lối đổi mới của Đảng cùng với chính sách luật pháp...của nhà nước đều thuộc về chính trị. Vấn đề là ở chỗ: lĩnh vực chính trị là lĩnh vực hết sức phức tạp, liên quan đến quyền thống trị của giai cấp lãnh đạo, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công cuộc đổi mới nên phải tiến hành từng bước và hết sức quan trọng. Đổi mới chính trị phải trên cơ sở đổi mới kinh tế, gắn liền với đổi mới kinh tế và đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ( tháng 6 - 1991 ), Đảng ta đã khẳng định: “Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”. Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị mà gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng ta khẳng định rằng phải tập trung hết sức làm tốt đổi mới kinh tế và đồng thời đổi mới kinh tế phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị nhưng phải thận trọng không gây mất ổn định chính trị. Tư tưởng trên đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6- 1996) của Đảng. Khi tổng kết các bài học của 10 năm đổi mới. Đảng đã khẳng định: "Phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị". Đây là một cách khái quát mới, hoàn toàn khoa học nó phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vừa phù hợp với công cuộc đổi mới ở nước ta. Đại hội Đảng lần IX tiếp tục khẳng định: “ Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời phải giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”. Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như là một nghịch lý nhưng lại hoàn toàn có lý và khoa học. Đối với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của nhà nước XHCN, bảo vệ và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. ổn định về chính trị lại không thể tách rời đổi mới về chính trị. Nhưng đổi mới về chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định về chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN. Đổi mới chính trị lại phải gắn liền với đổi mới về kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì mới có thể tăng cường được vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN, và nhờ đó mới giữ vững được sự ổn định về chính trị. Song đổi mới về kinh tế cũng không phải là đổi mới một cách tuỳ tiện, mà theo một định hướng chính trị nhất định. Đó chính là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang "nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm thực hiện mục tiêu chung: "Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Và đó cũng là cơ sở kinh tế cho sự ổn định về chính trị. Tóm lại : ổn định chính trị và đổi mới kinh tế là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định được chính trị thì mới đổi mới kinh tế thành công, ngược lại, đổi mới kinh tế tốt là điều kiện để ổn định về chính trị. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế , trên nền tảng của đổi mới kinh tế. 2.2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, ở nước ta hiện nay vấn đề lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp, mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học và chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũng không còn phù hợp nữa, trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển cần phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? Đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi sang kinh tế thị trường ở nước ta là một ví dụ. Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng , thể hiện rõ tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu trở thành quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa xã hội . Nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó chính là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nói đến khoa học, trí tuệ là nói đến một phương thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nghèo nàn, lạc hậu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho CNXH được xây dựng và phát triển. Trước đây chúng ta đã tỏ ra thiếu quan tâm đúng mức đến vai trò của trí tuệ, khoa học, đến việc tạo lập cơ sở kinh tế, vật chất của CNXH, bằng chứng là một thời chúng ta đã không coi trọng đúng mức tầng lớp trí thức và khoa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60406.DOC
Tài liệu liên quan