Tiểu luận Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong thời kỳ đổi sang kinh tế thị trường ở nước ta

Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì kinh tế quyết định chính trị.

“Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế". Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của Duyninh cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế, F.Engen đã khẳng định: “Bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế, trái lại, là mục đích “Và trong tác phẩm” Lútvích Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” F. Engen đã chỉ rõ: "Để thoả thuận những lợi ích

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1802 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong thời kỳ đổi sang kinh tế thị trường ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất. Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ là tương đối. Bản thân nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất của cái đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập. Đấu tranh các mặt đối lập. Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia ra làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt, người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Chỉ có những mặt khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển, thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành độc lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyễn hoá lẫn nhau. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới hơn xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao, chính vì vậy Lênin khẳng định “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. 2. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập : Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, đó chính là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức: + Phương thức thứ 1: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật. + Phương thức thứ 2: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quan niệm mới. Như chúng ta đã biết, từ khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như là đặc trưng riêng biệt của CNXH, là cái đối lập với cơ chế thị trường của CNTB. Nền kinh tế tập trung đã được các nước Tư bản áp dụng từ trước khi nhiều nước xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng các nước TBCN đã xoá bỏ cơ chế thị trường sau khi chiến tranh kết thúc và đã đạt được những thành tựu rất lớn về kinh tế xã hội. Nhưng công bằng mà nói, nền kinh tế thị trường cũng chưa phải là cái duy nhất bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển của xã hội. Trong công cuộc đổi mới hiện nay. Đảng ta một lần nữa khẳng định những giá trị khoa học bền vững của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời tuyên bố lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động. + Một số đặc điểm của kinh tế thị trường ở Việt nam nhìn từ góc độ triết học. Nền kinh tế nước ta hiện nay, có thể nói, đang ở trong giai đoạn quá độ chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đè có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Vậy từ phương diện triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế quá độ của nước ta hiện nay là gì? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung-bao cấp, mọi chức năng kinh tế - xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất, lưu thông, phân phối... khá nặng nề. Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động. Kể từ đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đến nay, theo đường lối đổi mới, đất nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa và điều đó có nghĩa là, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta “điều chỉnh và bổ xung nhận thức, làm cho quan niệm về chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể; đường lối, chủ trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định, cũng gián tiếp khả năng của kinh tế thị trường trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nước. Thành tựu những năm đổi mới ở nước ta vừa qua đã có tác dụng làm cho chúng quen dần với các quan hệ hàng hoá. Bước chuyển sang cơ chế thị trường này đương nhiên không tránh khỏi có những mặt tiêu cực của nó; nhưng dẫu sao nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của các quan hệ thị trường. Về thực chất của bước chuyển này, một số cho rằng: “ở Việt nam, dù nền kinh tế thị trường chỉ mới vừa được hình thành, còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được điều tiết một cách có ý thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song cũng đã tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để lại ở đó những dấu ấn của mình về mặt văn hoá ... “Sự đan xen chi phối mãnh liệt của các nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối cảnh của một xã hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính - bao cấp đã làm cho cơ chế thị trường bị “khúc xạ” theo nhiều chiều hướng khác nhau. Vai trò của Nhà nước và của nền kinh tế Nhà nước trong một nền kinh tế hướng tới thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là điều không phải bàn cãi. Nhà nước, ngoài việc trực tiếp phải quyết định những vấn đề của bản thân nền kinh tế còn phải đóng vai trò là nhân vật trung gian giữa các vấn đề kinh tế và xã hội. Nhà nước với các chính sách luật lệ của mình, một mặt, có khả năng làm cho nền kinh tế đạt tới một sự tăng trưởng có hiệu quả, nhưng mặt khác, nó cũng lại chính là người lo giải quyết các vấn đề do chính sự tăng trưởng kinh tế đó tạo ra. Trên thực tế, bộ máy quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế còn quá cồng kềnh và kém hiệu quả. Hầu hết các doanh nghiệp kinh tế Nhà nước đều hoạt động thiếu năng động và hiệu quả, quá ỷ lại vào Nhà nước. Cũng phải thừa nhận rằng, các vấn đề nói trên dù ít, dù nhiều, cũng là các vấn đề của bản thân cơ chế quản lý. Trong nền kinh tế hiện nay, cơ chế quản lý đang ở giai đoạn hình thành nên thường là không đồng bộ, thiếu hụt. Chúng ta chưa thực sự tạo ra môi trường an toàn và ổn định cho sản xuất và kinh doanh. Tính chất không rõ ràng, thiếu xác định cả trên phương diện kinh tế - xã hội dường như đang là một cái gì đó rất phổ biến, rất đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế nước ta. Cần thiết phải lưu ý rằng, khác với cơ chế hành chính - bao cấp, cơ chế thị trường với các qui luật khách quan khó nắm bắt của mình, thường biểu hiện ra như là một cơ chế tự phát hơn, tự nhiên hơn và nằm xa sự chi phối của con người hơn. Bao giờ cũng vậy, trong các giai đoạn quá độ, chuyển tiếp yếu tố tự phát thể hiện vai trò của mình mạnh hơn yếu tố tự giác. Bởi vậy, trong nền kinh tế nước ta hiện nay, việc nắm được các yếu tố tự phát, tự giác của nền kinh tế, hiểu được phương thức hoặc tìm ra được phương pháp kiểm soát thích hợp đối với chúng ta đều hết sức có ý nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có quá nhiều hiện tượng và quá trình mà chúng ta còn buông lỏng sự kiểm soát hoặc chưa thực sự có khả năng kiểm soát sự vận động của chúng ta. Mỗi hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta, sản xuất hàng hoá cùng với “Nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường”, hiện đã được chúng ta hiểu là không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một “Cơ hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài”, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta lại cũng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội; nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với sự tiến bộ xã hội. Do vậy, trong quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh thì kinh tế thị trường nhất định phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. B. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam. 1. Mấy vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lê nin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì kinh tế quyết định chính trị. “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế". Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của Duyninh cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế, F.Engen đã khẳng định: “Bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế, trái lại, là mục đích “Và trong tác phẩm” Lútvích Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” F. Engen đã chỉ rõ: "Để thoả thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần”. Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo F.Engen “Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề về giải phóng kinh tế". Để nhấn mạnh vai trò của chính trị , V.L Lênin đã khẳng định: “Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế". Và lập trường chính trị đúng hay sai sẽ thúc đẩy (hoặc kìm hãm) sự phát triển của kinh tế. V.I Lênin còn khẳng định: “Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất". Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện kiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt nam nói riêng. Có thể nói , từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) của Đảng Cộng sản Việt nam, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới. Khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đổi mới tư duy nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, coi đó là tiền đề để đổi mới trong hiện thực. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là đổi mới tư duy có thể tách khỏi đổi mới trong thực tiễn. Bản thân đổi mới tư duy là phản ánh yêu cầu đổi mới trong thực tiễn mà gắn liền với thực tiễn cuả công cuộc đổi mới. Chính vì vậy, tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta là cơ sở chủ yếu nhất để không ngừng đổi mới và phát triển tư duy. Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta, khi mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nề, khi mà chúng ta giành được những thắng lợi bước đầu, ở nước ta đã có quan điểm cho rằng nguyên nhân thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do các nước đó đổi mới chính trị trước đổi mới kinh tế sau; còn nguyên nhân thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau. Quan điểm này mới xem qua tưởng là chính xác, nhưng đi vào phân tích sẽ thấy nó không phù hợp với lý luận và thực tiễn. Khẳng định rằng ở nước ta đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau cũng không phù hợp với thực tiễn. Sự thật là phải có đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra, trên cơ sở đó hình thành chính sách mới, luật pháp mới...thì mới có thể đổi mới kinh tế . Bản thân đường lối đổi mới của Đảng cùng với chính sách luật pháp...của nhà nước đều thuộc về chính trị . Đổi mới chính trị phải trên cơ sở đổi mới kinh tế, gắn liền với đổi mới kinh tế và đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ( tháng 6 năm 1991 ) Đảng ta đã khẳng định: “Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”. Tư tưởng trên đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6 năm 1999) của Đảng ta. Khi tổng kết các bài học của 10 năm đổi mới. Đảng ta đã khẳng định phải"Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị" Đây là một cách khái quát mới, hoàn toàn khoa học nó phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vừa phù hợp với công cuộc đổi mới ở nước ta. Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như là một nghịch lý nhưng lại hoàn toàn có lý và khoa học. Đối với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của nhà nước XHCN, bảo vệ và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. ổn định về chính trị lại không thể tách rời đổi mới về chính trị. Nhưng đổi mới về chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định về chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN. Đổi mới chính trị lại phải gắn liền với đổi mới về kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì mới có thể tăng cường được vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN, và nhờ đó mới giữ vững được sự ổn định về chính trị. Song đổi mới về kinh tế cũng không phải là đổi mới một cách tuỳ tiện, mà theo một định hướng chính trị nhất định. Đó chính là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang "nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa" (hay nói một cách ngắn gọn - đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa) Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm thực hiện mục tiêu "Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" Và đó cũng là cơ sở kinh tế cho sự ổn định về chính trị. Tóm lại : ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế , trên nền tảng của đổi mới kinh tế. 2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học và chủ nghĩa Mác - Lênin theo đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũng không còn phù hợp nữa, trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển cần phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? Đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi sang kinh tế thị trường ở nước ta là một ví dụ. Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng , thể hiện rõ tính chất Cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt nam là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh". Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa xã hội . Nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó chính là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nói đến khoa học, trí tuệ là nói đến một phương thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nghèo nàn, lạc hậu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho CNXH được xây dựng và phát triển. Trước đây chúng ta đã tỏ ra thiếu quan tâm đúng mức đến vai trò của trí tuệ, khoa học, đến việc tạo lập cơ sở kinh tế, vật chất của CNXH. Do thế hậu quả tất yếu đã xẩy ra là khoa học ở nước ta chậm hoặc ít có điều kiện môi trường phát triển, đất nước không thoát khỏi nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu và càng không thể không nói đến công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 3. Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong cơ chế thị trường. Trước đây người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội là: sở hữu XHCN tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng CNXH và xây dựng CNXH quyết định. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau. Sở hữu tư nhân TBCN và sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hoá nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ phát triển giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu tư nhân TBCN bằng cách tước đoạt hoặc "chuộc lại" để chuển thẳng lên sở hữu toàn dân còn đối với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hoá nhỏ thì không thể dùng những biện pháp như trên, mà phải kiên trì giáo dục, thuyết phục, tổ chức họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hoá hai hình thức. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và nông dân tập thể. Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường ở Việt nam. Hơn mười năm đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta đã chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần, đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không phải chỉ có hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể như quan niệm trước đây... - Về sở hữu toàn dân: Trước đây người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu Nhà nước. ở nước ta hiện nay, như hiến pháp và và luật đất đai đã qui định rõ: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân". Xét về mặt kinh tế đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của cả cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất đai là lãnh thổ là nơi cư trú của cả một cộng đồng. Thế nhung khi xét trên cả hai phương diện có thể nói rằng đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân, kể cả quyền được chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai nếu biết giải quyết cụ thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng. Văn kiện đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: "Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước qui định bằng luật pháp các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng đất ...” - Đảng Cộng sản Việt nam văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII nhà xuất bản sự thật Hà nội năm 1991. Như vậy hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội dung mới, có nhiều khả năng để thực sự trở thành nguồn lực phát triển kinh tế. - Về sở hữu Nhà nước: Trong thời kỳ bao cấp trước đây không chỉ ở nước ta mà còn ở một số nước khác trong hệ thống XHCN thường đồng nhất sở hữu Nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà có một thời gian khá dài, người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt tới sở hữu toàn dân, vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành sở hữu không phải của một chủ sở hữu cụ thể nào cả. Hình thức sở hữu Nhà nước, xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu Nhà nước ở nước ta, có lẽ chủ yếu thể hiện quyền sở hữu đó ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp Nhà nước. - Về sở hữu tập thể: ở nước ta trước đây hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (Gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp), mà các mà các xã viên là chủ sở hữu chính vì vậy mà với hình thức sở hữu này, quyền mua bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông ở nước ta đã diễn ra hết sức phức tạp. quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự "nhập nhằng" với quyền sở hữu Nhà nước và với sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát ra khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, cần phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành một hình thức sở hữu có hiệu quả. Chúng ta đều đã biết, hợp tác xã không phải là hình thức riêng có, đặc trưng cho chủ nghĩa xã hội, nhưng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ sở hữu đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần phải duy trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, như V.I Lênin đã khẳng định: "Chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa" Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm...đòi hỏi các hội sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng và phát triển. Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay, đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Điều này cho thấy, kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay. 4. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người XHCN. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp Cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60167.doc
Tài liệu liên quan