MỤC LỤC
MỤC LỤC 19
LỜI NÓI ĐẦU 1
Chương I 2
CHƯƠNG II 4
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. 4
1.1. Nội dung của nguyên lý 4
1.2. Ý nghĩa của nguyên lý 4
2. Vận dụng nguyên lý mối liên hệ phổ biến để phân tích mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế . 5
2.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế 5
2.2. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của đất nước. 5
2.3. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới 7
2.4. Khái niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ 8
2.5. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế 9
3. Sự vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến một cách sáng tạo của đảng và Nhà nước ta việc kết hợp quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. 12
3.1 Những thách thức đối với nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 12
3.2 Thực trạng tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam 13
3.3 Đường lối đổi mới và chủ trương của Đảng và chính phủ 15
Chương III 17
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3247 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư Đại hội IX khẳng định:"Nước ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa mọi lực nâng cao hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và xây dựng định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường"
(Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, sản xuất 2001, tr: 119 - 200)
Như vậy xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế có mối quan hệ biện chứng với nhau. Dựa vào nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chúng ta sẽ phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương II
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
1.1. Nội dung của nguyên lý
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều nằm trong mối liên hệ phổ biến không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt lập mà chúng tác động lẫn nhau, rằng buộc quy định và chuyển hoá lẫn nhau, các mối liên hệ quy định trong mỗi tổng thê của nó quy định sự biến đổi của sự vật, khi các mối liên hệ thay đổi tất yếu sẽ dẫn đến thay đổi sự vật .
Quan điểm biện chứng duy vật còn khẳng định tính khách quan và đa dạng hoá của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ là khách quan, là thống nhất vật chất của thế giới. Tính đa dạng của mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp; có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới đó, có mối liên hệ bản chất và không bản chất, có mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên…. các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật về mối liên hệ cũng đòi hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại của các mối liên hệ.
1.2. ý nghĩa của nguyên lý
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, đòi hỏi trong quá trình nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn chúng ta cần thực hiện nguyên tắc toàn diện và lịch sử cụ thể.
Theo nguyên tắc về quan điểm toàn diện thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn con người cần xem xét sự vật trong tính toàn vẹn của nhiều mối liên hệ nhiều mặt, nhiều yếu tố vốn có của nó kể cả các quá trình, các giai đoạn phát triển của sự vật, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, có như vậy mới nắm bắt được thực chất của sự vật khi tuân thủ nguyên tắc con người sẽ tránh được sai lầm cực đoan, phiến diện một chiều, không đồng nhất và san bằng các mối liên hệ, các mặt của sự vật phải phản ánh đúng vai trò của từng mối liên hệ phải rút ra được mối liên hệ bản chất chủ yếu của sự vật. Khi tuân thủ nguyên tắc này con người sẽ tránh được mối quan hệ thứ yếu và chiết trung.
Theo quan điểm lịch sử cụ thể thì khi nghiên cứu xem xét sự vật phải đặt nó trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể trong không gian và thời gian xác định mà nó đang tồn tại phát triển, đồng thời phải phân tích vạch ra ảnh hưởng của điều kiện hoàn cảnh đối với sự tồn tại của sự vật, với tính chất của sự vật và với xu hướng vận động phát triển của nó. Khi vận dụng một lý luận nào đó vào trong thực tiễn cần tính đến điều kiện cụ thể của nơi vận dụng, tránh bệnh giáo điều dập khuân máy móc.
2. Vận dụng nguyên lý mối liên hệ phổ biến để phân tích mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế .
2.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình "mở cửa" nền kinh tế, đưa các doanh nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh quốc tế, sự tham gia vào phân công lao động quốc tế sẽ tạo điều kiện mở rộng không gian và môi trường để chiếm lĩnh những vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đó cũng là quá trình chúng ta tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính khu vực và thế giới, qua đó mà thiết lập mối quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học và công nghệ với các nước trên thế giới. (Tạp chí nghiên cứu - trao đổi - Vương Thị Bích Thuỷ)
2.2. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của đất nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường duy nhất để đưa một quốc gia không ngừng phát triển nền kinh tế và nâng cao trìn độ khoa học kỹ thuật của nứoc mình.
Theo quan điểm biện chứng về mối quan liên hệ phổ biến của các nhà triết học đã khẳng định ở trên :"Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều nằm trong mối liên hệ phổ biến không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt lập mà chúng tác động lẫn nhau, rằng buộc quy định và chuyển hoá lẫn nhau". Khi áp dụng quan điểm này vào thực tế là hoàn toàn đúng khi một quốc gia tự mình tách ra khỏi mối quan hệ với các quốc gia khác thì nó không thể tồn tại và phát triển được. Bởi vì trước hết một quốc gia không thể tự mình cung cấp những nhu cầu cho quốc gia mình, do mỗi quốc gia trên thế giới đều có một thế mạnh riêng như Nhật Bảnh mặc dù là một quốc gia phát triển mạnh về khoa học kỹ thuật nhưng lại là một nước nghèo tài nguyên khoáng sản, thị trường tiêu thụ hàng hoá trong nước nhỏ bé. Nếu như Nhật Bản không hội nhập kinh tế giao lưu với các quốc gia khác về trao đổi hàng hoá và mua nguyên vật liệu thì Nhật Bản sẽ không thể tồn tại và phát triển như ngày nay. Và cả Mỹ mặc dù là một quốc gia phát triển bậc nhất thế giới hiện nay, là trung tâm khoa học kỹ thuật của thế giới nhưng để có sự phát triển như vậy là do Mỹ có chính sách đúng đắn mở cửa hội nhập kinh tế và thu hút nhân tài khắp thế giới cũng như mua được những nguyên vật liệu với giá rẻ và có thị trường rộng lớn trên toàn thế giới. Đó là những quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới phát triển được nền kinh tế như ngày nay là do sự phối hợp kinh tế quốc tế. Còn các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển thì sao? Ta có thể khẳng định rằng dù quốc gia giàu hay nghèo cũng phải tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế. Sở dĩ như vậy bởi vì các quốc gia nghèo có nền kinh tế kém phát triển là do trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, trình độ hiểu biết thấp. Nên các nước này càng cần tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế để tiếp thu thêm được những thành tựu khoa học kỹ thuật của các nước phát triển, các nước đi trước, đồng thời trao đổi mua bán với các nước phát triển như xuất khảu nhân công dư thừa, xuất khẩu nguyên nhân vật liệu và mua các thiết bị kỹ thuật máy móc hiện đại nhằm nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật trong nước, phát triển công nghiệp góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Cần phải khẳng định rằng trước xu thế toàn cầu hoá không một quốc gia nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Sự xã hội hoá mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã làm nảy sinh yêu cầu hợp tác đa dạng nhiều chiều, ổn định và bền vững trên phạm vi toàn cầu. Mỗi nước trở thành một bộ phận hữu của thế giới, nền kinh tế của mỗi dân tộc được đặt trong sự phụ thuộc vào mối quan hệ qua lại với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta có cơ hội tích luỹ được những tiền đề, những điều kiện cho một trình độ phát triển mới. Trước hết chúng ta có cơ hội thu hút vốn, khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế từ bên ngoài và mở rộng thị trường để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Với một nền kinh tế yếu kém, nếu không tranh thủ được những cơ hội do toàn cầu hoá mang lại dù là toàn cầu hoá đang do CNTB chi phối thì chúng ta không thể xây dựng CNXH được. Chỉ riêng vấn đề "học hỏi" CNTB đã là một đề tài khách quan, một yêu cầu bắt buộc đối với việc xây dựng CNXH ở các nước chậm phát triển. Như Lênin đã nói:"Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là CNXH dựa trên cơ sở những bài học mà nền văn minh lớn của CNTB đã thu được"
(Theo tạp chí nghiên cứu - trao đổi, bài viết "bản chất của toàn cầu hoá và khả năng hội nhập của Việt Nam" ThS Vương Thị Bích Thuỷ)
2.3. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay. Thế giới đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và sinh học. Làm tăng nhanh lực lượng sản xuất và tạo ra sự thay đổi sâu sắc cơ cấu sản xuất, phân phối, tiêu dùng thúc đẩy quá trình quốc tê hoá, xã hội hoá nền kinh tế, cũng như quá trình tham gia của mỗi quốc gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Đây chính là đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thế giới hiện nay các định chế và tổ chức kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang pháp luật chung và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ. Đặc điểm cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới hiện nay thể hiện qua một số xu hướng chính như sau:
- Xu hướng tăng cường hợp tác đa phương.
- Xu hướng tự do hoá và khu vực hoá
- Thương mại dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong thương mại thế giới.
- Sự tăng cường chính sách bảo hộ với các rào cản thương mại hiện đại (trích bài viết của Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự đăng trên tạp chí Thương mại số ra tháng 3/2004).
2.4. Khái niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ
Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá có thể được hiểu là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và trong bất cứ tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì các hành động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đó là nền kinh tế phải có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết, có tốc độ phát triển bền vững và năng lực cạnh tranh cao, cơ cấu xuất nhập khẩu cơ bản cân đối, cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế, cơ cấu thị trường quốc tế; đối tác cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu; đảm bảo nền tài chính lành mạnh, đặc biệt giữ cân bằng cần thiết trong cán cân thanh toán và có nguồn dự trữ quốc gia mạnh.
(Nguồn: báo đầu tư chứng khoán).
Như vậy nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào các nước khác, người khác hoặc một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ để áp đặt khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị trường, trước sự khủng hoảng của nền kinh tế tài chính bên ngoài, nó vẫn có khả năng cơ bản duy trì sự ổn định và phát triển trước sự bao vây, cô lập và chống phá của các thế lực thù địch, nên vẫn có khả năng đứng vững không bị sụp đổ, không bị rối loạn.
(Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội IX của Đảng, NXB CTQG, Hà Nội 2001, tr 109).
Trong thời đại ngày nay, độc lập tự chủ về kinh tế không còn được hiểu đó là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà được đặt trong mối quan hệ biện chứng với mở cửa, hội nhập, chủ dộng tham gia sự giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực và lợi thế so sánh của quốc gia. Điều này có nghĩa là độc lập tự chủ về kinh tế cũng đồng thời hội nhập được vào nền kinh tế quốc tế.
2.5. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
Nếu như chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế mà không có xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ thì quốc gia đó có phát triển bền vững được không? Câu trả lời ở đây là không. Qua những bài học kinh nghiệm sâu sắc mà một số nước châu á rút ra sau khi bị rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nặng nề năm 1997-1998, là sự phụ thuộc của nền kinh tế về vốn, công nghệ, thị trường nước ngoài và sự đầu cơ trục lợi của những nhà kinh doanh tiền tệ qua thị trường chứng khoán và các luồng vốn ngắn hạn. Các nền kinh tế này vượt qua được giai đoạn khó khăn, nhanh chóng phục hồi một phần rất quan trọng, theo đánh giá của các nhà phân tích kinh tế nước ngoài là do nền kinh tế Mỹ mấy năm qua có sự tăng trưởng khá. Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế Mỹ đang ngập trong trong khó khăn, nhất là sau sự kiện 11-9-2001 vừa qua người ta lại dự đoán rằng nền kinh tế một số nước châu á khó bề vươn dậy vì đã dựa quá nhiều vào xuất khẩu, không tranh thủ thời cơ tiến hành những cải cách trong nước nhằm đảm bảo sự ổn định trong nền kinh tế của mình. Rồi nữa, nợ nần và những hậu quả nghiêm trọng bất ổn chính trị, lật đổ, đảo chính, chiến tranh giữa các phe phăi, đặc biệt nạn đói luôn đe doạ mạng sống hàng triệu người... là minh chứng cho thấy chỉ biết sống dựa vào bên ngoài, phụ thuộc hẳn vào bên ngoài thì sẽ chẳng bao giờ phát triển được nền kinh tế đất nước.
Theo tổng kết của UNĐP (tổ chức hỗ trợ phát triển của liên hiệp quốc) cho rằng “từ khi diễn ra quá trình toàn cầu hoá đến nay trên thế giới có 10 nước giàu lên, nhưng có 180 nước nghèo đi, trong đó có 60 nước GDP bình quân đầu người thấp hợ trước khi tham gia toàn cầu hoá. Tổng kết những nước vay nợ để phát triển cho thấy chưa đến 10% số nước có khả năng trả được bợ, số còn lại trở thành con nợ lưu cữu”.
(Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội IX của Đảng, nxb: CTQG Hà Nội 2001 tr25).
Qua những số liệu tổng kết ở trên chúng ta thấy rằng nếu một quốc gia không tự mình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ mà chỉ phụ thuộc vào các phe phái mạnh hơn hoặc phụ thuộc vào một nước lớn hơn sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng làm cho nền kinh tế của quốc gia đó luôn chịu sự ảnh hưởng đối với từng biến động của nền kinh tế quốc gia khác và sẽ không tự mình đứng dậy được khi có sự biến kinh tế xảy ra. Như vậy nền kinh tế của quốc gia đó sẽ luôn lạc hậu và chậm tiến. Đó chính là lý do vì sao trong quá trình hội nhập kinh tế phải gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Như vậy xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế có mối quan hệ biện chứng với nhau, hỗ trợ và tác động lẫn nhau cùng đi đến mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển nền kinh tế của quốc gia đó. Đồng thời giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế còn là mối quan hệ bên trong và bên ngoài. Mối quan hệ bên trong là xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và mối quan hệ bên ngoài là hội nhập kinh tế quốc tế. Và cả hai mối quan hệ này đều tác động trực tiếp đến sự phát triển đất nước trong đó xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là yếu tố quyết định đến vận mệnh của đất nước còn hội nhập kinh tế quốc tế là nhân tố thúc đẩy, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Bởi chỉ có xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ chúng ta mới có đầy đủ tư cách và thực lực để chủ động hội nhập đúng hướng và hiệu quả kinh tế quốc tế và ngược lại, chỉ có chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới nhanh chóng bổ xung sức mạnh nội lực còn khiếm khuyết, thiếu hụt, rút ngắn con đường phát triển nhằm không ngừng tự hoàn thiện mình để giữ vững hơn nữa độc lập tự chủ. Hơn nữa, muốn chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách đúng đắn và mạnh mẽ không thể không bắt đầu từ nền tảng sức mạnh tổng thể của một nền kinh tế độc lập tự chủ. Nếu vấn đề thứ nhất là tiền đề là điều kiện đảm bảo cho vấn đề thứ hai thì đến lượt nó, vấn đề thứ hai lại là hệ quả, là động lực, là môi trường phát triển mới của vấn đề thứ nhất. Đó là một quá trình biện chứng.
Vấn đề dặt ra ở đây là phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ như thế nào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
ở đây xây dựng “độc lập, tự chủ” không có nghĩa là tự biệt lập hoặc cô lập mình mà phải chủ động hội nhập quốc tế và khu vực “mở cửa” không có nghĩa là “ngó cửa”, “hội nhập” không phải là “hoà tan”. Phải nắm bắt được khả năng nội lực của quốc gia để linh hoạt trong hợp tác đối ngoại kinh tế.
Như đã nói ở trên xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thànhmột xu thế lớn của kinh tế thế giớivà quan hệ kinh tế quốc tế từ vài thập niên trở lại đây .Xu hướng này lôi cuốn nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh. Do vậy, để hội nhập mà không hoà tan rất cần sự tỉnh táo nhìn nhận trong thực tế tự do hoá thương mại một số nước giàu lên trong khi một số nước khác nghèo hẳn đi. Ngay trong từng nước sự tự do thương mại cũng có lợi cho tầng lớp này, nhưng lại có hại cho tầng lớp khác. Cụ thể như Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), tuy tự do hoá thương mại nhưng vẫn duy trì chính sách bảo hộ hàng nông sản - thế mạnh chủ lực của các nước kém phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng . Hoặc như vụ kiện cá ba sa của Việt Nam vừa qua, về thực chất chính là để bảo vệ những ngành kinh tế không còn đủ sức cạnh tranh. Điều này liệu có công bằng : trên thực tế chính phủ các nước, dưới áp lực của cử tri bỏ phiếu cho mình không thể nào đồng ý những điều khoản thương mại có thể gây hại cho một bộ phận, một ngành kinh tế của họ.
Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế hiện nay, các nước giàu đã thành công trong việc thiết lâp “cuộc chơi” tự do hoá thương mại với những luật chơi do họ đặt ra. Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đã thành công trong việc buộc các nước khác gỡ bỏ những rào cản để hàng công nghiệp và dịch vụ của mình tràn vào các nước này. Ngược lại họ cũng lại thành công trong việc duy trì mức thuế cao đánh vào hàng nông sản nhập khẩu đơn giản là vì luật chơi trong tay kẻ mạnh
Nói như vậy, không có nghĩa là sân chơi không “đẹp” thì không chơi mà việc tham dự một cách tích cực vào sân chơi này là chuyện tất yếu và không thể phủ nhận, vì bên cạnh những mặt chưa được vẫn còn rất nhiều mặt được và vấn đề là tận dụng các cơ hội này như thế nào? Về thực chất hội nhập kinh tế quốc tế là sự kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại nhằm bảo vệ lợi ích của dân tộc, phát triển kinh tế đất nước.
3. Sự vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến một cách sáng tạo của đảng và Nhà nước ta việc kết hợp quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1 Những thách thức đối với nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới , tạo ra sức ép buộc chúng ta phải chấp nhận “cuộc chơi” nếu không cố gắng đi cùng nhịp với các nước trong khu vực thì Việt Nam có nguy cơ bị tụt hậu và chịu thua thiệt của người đi sau Hội nhập kinh tế hiện luon có hai mặt, trước hết hội nhập kinh tế khiến các nước phải mở cửa thị trường về thương mại hàng hoá, làm giảm những khác biệt thông qua việc tiến tới bãi bỏ hàng rào và biện pháp phi thuế quan mở cửa thị trường dịch vụ và đầu tư.
Với việc tham gia vào quá trình này chúng ta sẽ có cơ hội mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được một nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nhất là tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn, đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài. tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý, đào tạo được một đội ngũ cán bộ năng lực để tham gia hội nhập. Nhưng quan trọng hơn cả là thực hiện được chủ trương chuyển toàn bộ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, đặt tất cả doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh, lấy hiệu quả là mục tiêu của doanh nghiệp , xoá bỏ tư tưởng bao cấp trông chờ vào sự trợ giúp và bảo hộ của Nhà nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên hội nhập kinh tế quốc tế cũng sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh lớn hơn, nhất là từ phía Trung Quốc, ấn Độ, và phần lớn là các nước ASEAN, vốn là những nước sản xuất mang tính cạnh tranh với nước ta và có nhiều ưu thế hơn ta, thậm chí ngay cả trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực của ta hiện nay như nông sản, thuỷ sản, may mặc, giày dép, . Trong thu hút FDI chúng ta cũng vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt hơn và nguy cơ sẽ giảm FDI nước ta nếu chúng ta không có những chính sách và biện pháp cải thiện môi trường đầu tư mạnh mẽ làm tăng tính hấp dẫn hơn hẳn so với các nước trong khu vực.
(Nguồn : Thời báo tài chính - bài viết của Bộ trưởng Trương Đình Tuyển)
3.2 Thực trạng tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Những thành tựu cơ bản mà đất nước ta đã đạt được trong những năm qua khi tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế là rất lớn lao. Đất nước ta thoát ra khỏi tình trạng bị bao vây cấm vận, cô lập, tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới. Cho đến nay Việt Nam đã ký 86 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và 40 hiệp định chống đánh thuế 2 lần với các nước và vùng lãnh thổ, có quan hệ thương mại với trên 160 nước và nền kinh tế; thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế là thành viên của ASEAN, ASEM , APEC... Thực hiện thành công chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000) ; GDP tăng trưởng bình quân 8,2%/năm, trong giai đoạn 1991 - 2000, khoảng 7% trong hai năm 2001 và 2002 , năm 2003 tăng 7,2% và là nước có tốc độ tăng GDP thứ hai thế giới, chỉ đứng sau Trung Quốc. Hạ tầng cơ sở được cải thiện rõ rêt. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế một cách tích cực theo định hướng tăng dần tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị nông nghiệp trong cơ cấu thu nhập quốc dân. Cơ cấu vùng kinh tế cũng bắt đầu thay đổi theo hướng hình thành các vùng trong điểm , các khu xuất nhập khẩu tập trung , các khu chế xuất, chuyển toàn bộ nền kinh tế sang môi trường cạnh tranh lấy mục đích và hiệu quả kinh tế xã hội làm cơ sở, thay đổi thói quen trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước của các doanh nghiệp.
Mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển tạo thêm việc làm , tăng thu ngân sách. Năm 1990 kim ngạch xuất khẩu mới đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu 2,752 tỷ USD thì năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đã đạt 15 tỷ USD (nếu tính cả dịch vụ thì đạt 17,6 tỷ USD), tăng mỗi năm trung bình trên 20%, có năm tăng 30% (gấp 7 lần năm 1990). Năm 2003 xuất khẩu đạt 20,176 tỷ USD. Xuất khẩu bình quân đầu người đạt 200 USD, đây là mức được thế giới công nhận là quốc gia có nền xuất khẩu bình thường. Bên cạnh đó nước ta còn thu hút được một nguồn lớn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). Đến nay ta đã thu hút được trên 41,538 tỷ USD vốn đầu tư từ 64 quốc gia và vùng lãnh thổ với trên 4.370 dự án trong đó đã thực hiện trên 24,654 tỷ USD. Nguồn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta, chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu, giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động và hàng chục vạn lao động gián tiếp . Tranh thủ được kỹ thuật tiên tiến và khoa học quản lý mới. Tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn, đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài. Các nhà tài trợ đã cam kết giành cho nước ta 20 tỷ USD , chủ yếu là cho vay ưu đãi và một phần là viện trợ không hoàn lại.
Tuy nhiên bên cạnh đó nước ta còn tồn tại không ít khó khăn hạn chế đó là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhìn chung còn yếu, chính sách vĩ mô chưa tạo được động lực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều có quy mô nhỏ, ít vốn. Đa phần các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động trong tình trạng kém hiệu quả kinh tế và có tư tưởng trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước . Hệ thống chính sách , cơ chế quản lý của Nhà nước chưa tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Môi trường kinh doanh vẫn còn một số bất cập về khuôn khô rpháp lý và thể chế, cấu trúc thị trường và hành vi cạnh tranh. Thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện thể hiện ở sự thiếu đồng bộ của các yếu tố như thị trường tiền tệ, thị trường đất đai, bất động sản, thị trường lao động, khoa học công nghệ... các cơ sở pháp lý đảm bảo cạnh tranh chậm được ban hành và sửa đổi. Bên cạnh đó việc thực thi pháp luật còn rất hạn chế. Những chủ trương chính sách đúng đắn của đảng và chính phủ ban hành chưa được thực hiện triệt để. Bộ máy điều hành ở một số bộ và địa phương còn yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
3.3 Đường lối đổi mới và chủ trương của Đảng và chính phủ
Trước những biến đổi của tình hình thế giới, xu thế tất yếu của quốc tế hội nhập quốc tế , Đảng ta đã kịp thời đề ra chủ trương, quan điểm, nguyên tắc về chính sách đối ngoại của đất nước, nhằm có thêm bạn bè, tạo thêm thế mạnh, tranh thủ thêm vốn, công nghệ cho sự phát triển kinh tế, tranh được tình thế rất khó khăn sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Với nhận thức như vậy tại đại hội đảng lần thứ VII, đảng ta đã đưa ra quan điểm : thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá , đa phương hoá các quan hệ quốc tế, mở rộng hợp tác, trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đại hội VII đã đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì độc lập hoà bình và phát triển”
(Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T065.doc