Tiểu luận Phép mâu thuẫn biện chứng và vận dụng phân tích những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Nội dung 2

I. Nội dung nguyên lý triết học 2

1. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập trong một thể thống nhất: 2

2 Chuyển hoá của các mặt đối lập. 4

II. Nhận biết các mâu thuẫn 5

1. Đổi mới kinh tế - đổi mới chính trị. 14

2. Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường. 15

3. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 17

4. Mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. 18

5. Mâu thuẫn giữa tính tự phát tư bản chủ nghĩa và tính tự giác. 19

6. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người chủ nghĩa xã hội. 20

7 Sự quản lý của nhà nước 22

Kết luận 23

Danh mục tài liệu tham khảo 24

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phép mâu thuẫn biện chứng và vận dụng phân tích những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờng ở Việt Nam nhìn ở góc độ triết học: Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy mô hình phát kinh tế thế giới theo xu thế – hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối cảnh của thời hiện đại ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả.Mô hình này về đại thể đáp ứng được thách thức của sự phát triển. ở nước ta việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là nội dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa,còn là phương thức để nước ta đi đến CNXH. Nền kinh tế nước ta hiện nay có thể nói đang ở trong giai đoạn quá độ chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ, chi phối được những những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan nóng vội duy ý chí, hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc sao chép bán kinh tế thị trường từ bên ngoài vào. Vậy từ phương diện triết học thì những đặc điểm của kinh tế quá độ của nước ta là gì ? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung, bao cấp, mọi chức năng kinh tế - xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạnh hoá ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động sản xuất, lưu thông phân phối... khá nặng nề.ở nước ta trước đây, chế độ hoạch toán trên thực tế còn nặng nề về hình thức lợi ích kinh tế, đặc biệt lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội được quan tâm đúng mức.Vì thế, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp kém năng động. Kể từ đại hội Đảng lần thứ VI(12/1986) đến nay, theo đường lối đổi mới đất nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định hướng XHCN.Và điều đó có ý nghĩa là, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta điều chỉnh và bổ xung nhận thức, làm cho quan niệm nhận thức về CNXH ngày càng cụ thể, đường lối,chủ trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định, cũng gián tiếp khả năng của kinh tế thị trường trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nước. Kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó,sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn liền với thị trường, tức là gắn liền với quan hệ hàng hoá - tiền tệ, với quan hệ cung cầu.. Trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá. Mọi hoạt đông xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hoá hay ít nhất cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hoá như là mắt xích trung gian. Thành tựu của những năm đổi mới vừa qua ở nước ta đã có tác dụng làm cho chúng quen dần với các quan hệ hàng hoá.Hàm lượng kinh tế trong hoạt động xã hội ngày càng được chú ý.Bước sang cơ chế thị trường đương nhiên không tránh khỏi những mặt tiêu cực của nó, nhưng dẫu sao nó cũng nói lên sức sốngvà khả năng tác động của các quan hệ thị trường. Về thực chất của bước chuyển này một số cho rằng:“ ở Việt Nam,mặc dù nền kinh tế thị trường chỉ mới vừa hình thành, còn đang trong bước chập chững ban đầu và điều tiết một cách có ý thức theo định hướng XHCN, xong cũng đã tác động đến mọi mặt đời sống xã hội và để lại dấu ấn của mình. Những quan hệ mà ở đó vừa có màu sắc thị trường lại vừa chưa phải quan hệ thị trường “. Sự đan xen, chi phối mãnh liệt các nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối cảnh của một xã hội vừa thoát khỏi cơ chế hành chính bao cấp đã làm cho cơ chế thị trường bị “ khúc xạ “ theo nhiều chiều hướng khác nhau. Một trong những nguyên nhân của tình hình nói trên, đúng như ý kiến vừa chỉ ra, trước hết thuộc về sự đổi mới các quan hệ sở hữu. Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu tương đối thuần nhất với hai thành phần tập thể và quốc doanh thì hiện nay, cùng với thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà nước, còn tồn tại nhiều thành phần sở hữu khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tế vận hành nền kinh tế không hẳn là đồng bộ với nhau, đôi khi chúng có mâu thuẫn với nhau. Xong trên tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng của nền kinh tế thị trường. Thực ra, trong quan niệm hiện nay của chúng ta về CNXH đã chứa đựng những tư tưởng mới về quy luật của sự phù hợp khách quan QHSX với trình độ phát triển của LLSX, sự tồn tại của các thành phần sở hữu đa dạng của một nền kinh tế theo định hướng XHCN là hoàn toàn có cơ sở của nó.Hơn thế nữa, vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, trên thực tế không chỉ chủ đạo về “GDP”. Theo quan niệm hiện đại về xử lí kinh tế vĩ mô thì khả năng điều tiết chỉ dạo của kinh tế Nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác được thể hiện trên nhiều mặt: Kinh tế nhà nước có thể là chi phối các vị trí đặc biệt nhưng kém sinh lời trong nền kinh tế. Cùng với với việc nắm giữ các nghành thông tin,cơ sở hạ tầng, quốc phòng... Kinh tế nhà nước đảm bảo những tư liệu sản xuất chủ yếu phát triển về toàn xã hội, phục vụ cho lợi ích của cả cộng đồng. Vai trò của Nhà nước và kinh tế Nhà nước trong một nền kinh tế theo định hướng XHCN là điều không phải bàn cãi. Nhà nước, ngoài việc trực tiếp quyết định những vấn đề của bản thân nền kinh tế còn phải đóng vai trò là nhân vật trung gian giữa các vấn đề về kinh tế và xã hội. Nhà nước với các chính sách, luật lệ của mình, còn có khả năng đạt tới một trình độ tăng trưởng có hiệu quả,nhưng mặt khác nó cũng chính lại là người phải lo giải quyết các vấn đề do chính nền kinh tế tạo ra.Về đại thể, chìa hoá để đáp ứng những vấn đề phức tạp và trái ngược của nền kinh tế xã hội nằm trong sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, Nhà nước và nền kinh tế Nhà nước có nhiều vấn đề cần phải tháo gỡ để có thể đảm đương được trọng trách to lớn của mình.Trên thực tế bộ máy vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế còn khá cồng kềnh và kém hiệu quả. Hầu hết các doanh nghiệp kinh tế Nhà nước đều hoạt động thiếu năng động và quá ỷ lại vào Nhà nước.Trong một số trường hợp,thậm chí kinh tế Nhà nước còn vô tình bỏ rơi “trận địa” mà mình đã chiếm lĩnh,tạo điều kiện cho những phần tử tham nhũng tiêu cực.Điều đó có nghĩa đối với việc xác điịnh đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.Tiếp tục đổi mới vào hoạt động có hiệu quả để kinh tế Nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo,làm đòn bẩy thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Trên cơ sở, đó giải quyết ngay các vấn đề xã hộỉ tầm vĩ mô sao cho tăng trưởng kinh tế không trở nên mâu thuẫn gay gắt với trật tự bình thường của đời sống xã hội. Thực ra các vấn đề xã hội của nền kinh tế thị trường, nhất là trong một nền kinh tế thị trường còn sơ khai trong giai đoạn quá độ,lại có mức tăng trưởng nhanh là điều rất khó.Vấn đề là ở chỗ, chúng ta buộc phải chấp nhận mặt trái của kinh tế thị trường đến mức độ nào.Để từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền sản xã hội, chúng ta đã có những biện pháp, chính sách nhất định đối với một số lĩnh vực kinh tế xã hội.Chẳng hạn đối với lĩnh vực GDĐT, lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, bảo vệ môi trường...Tuy nhiên, cũng có nhiều lĩnh vực thuộc về các vấn đề xã hội còn chưa có đối sách hợp lý.Như vấn đề phân hoá giàu nghèo, các tệ nạn xã hội,vấn đề xuống cấp về đạo đức... Đương nhiên đây không phải là bài toán có thể giải quyết ngay trong một sớm một chiều được. Cũng phải thừa nhận rằng, các vấn đề dù ít dù nhiều cũng là các vấn đề của bản thân cơ chế quản lý.Trong nền kinh tế thị trường hiện nay cơ chế quản lý đang ở giai đoạn hình thành nên thường là không đồng bộ và thiếu hụt.Chúng ta chưa thực sự tạo ra môi trường an toàn và ổn định cho sản xuất và kinh doanh.Cơ sở pháp lý của các hoạt động kinh tế còn quá nhiều điều bất hợp lý.Dovậy,trong một số vụ án kinh tế cơ chế quản lý đôi khi vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của kinh tế thị trường.Tính chất không rõ ràng thiếu xác định cả trên phương diện kinh tế và xã hội. Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta bước đầu sử dụng thị trường như là một công cụ, một phương thức.Thực tế nó đã đem lại những kết quả tích cực cả trên phương diện nhận thức và thực tiễn. Mỗi hành trang có ý ghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta, sản xuất hàng hoá cùng với nền”kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường” hiện đã được chúng ta hiểu là không đối lập với CNXH. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một ” cơ hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài”, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của công tác kế hoạch hoá.Việc điều tiết vĩ mô với thị trường, một mặt làm cho nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị trường thống nhất - trong cả nước và thống nhất với thị trường thế giới, mặt khác có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế phải tự khẳng định mình khẳng dịnh khả năng và vai trò của mình trên thị trường. Tuy nhiên, càng nhận ra sức mạnh của kinh tế thị trường chúng ta lại càng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội.Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội,nó có khả năng tạo điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội.Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với tiến bộ xã hội. Do vậy, quan niệm của Đảng ta: Để thực hiện xây dựng CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh, thì kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Đây là vấn đề luôn được đặt ra và được giải quyết trong suốt quá trình đổi mới. Những thành tựu đạt được trong 10 năm đổi mới vừa qua không thể tách rời việc giải quyết một cách đùng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Việc nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng không ngừng phát triển, gắn liền với thực hiện công cuộc đổi mới. Bài viết này tập trung phân tích sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng không ngừng phát triển, gắn liền với thực tiễn công cuộc đổi mới. Bài viết này tập trung phân tích sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng không ngừng phát triển, gắn liền với thực tiễn công cuộc đổi mới. * Mấy vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Trong lịch sử và phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và Nhà nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của vấn đề chính trị là vấn đề đấu tranh giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm giành, giữ chính quyền Nhà nước và sử dụng chính quyền đó làm công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của Duyring cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế. F.Engen đã khẳng định: “bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế, trái lại, là mục đích” và trong tác phẩm “ và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”. F.Engen đã chỉ rõ: “để thoả thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần. Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế đấu tranh giai cấp, về thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo F.Engen “bất cư cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế”. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị V.I.Lênin đã khẳng định “chính trị không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế” khẳng định đó của V.I.Lênin không có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tác rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét, giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền thì cũng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng (hay sai) sẽ thúc đẩy (hoặc kìm hãm) sự phát triển của kinh tế. V.I.Lênin còn khẳng định: “không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì tất yếu kinh tế sẽ mở đường đi. Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện kiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đấy là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng. Sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Có thể nói, từ đại hội đoàn toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) của Đảng cộng sản Việt Nam, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới. Khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đổi mới tư duy, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, coi đó là biểu hiện tiền đề đổi mới trong thực hiện. Nhấn mạnh như vậy là hết sức cần thiết đối với thực tiễn nước ta để vượt ra khỏi thói quen tư duy cũ đang trói buộc chúng ta khi đó. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là đổi mới tư duy có thể tách khỏi đổi mới trong thực tiễn. Bản thân đổi mới tư duy là phản ánh yêu cầu đổi mới trong thực tiễn và gắn liền với thực tiễn của công cuộc đổi mới. Chính vì vậy, tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta là cơ sở chủ yếu nhất để không ngừng đổi mới và phát triển tư duy. Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta, khi mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nề, khi mà chúng ta giành được thắng lợi bước đầu, ở nước ta đã có quan điểm cho rằng nguyên nhân thất bại của xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do các nước đó đổi mới chính trị trước đổi mới kinh tế sau; còn nguyên nhân thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau. Quan điểm này mới xem qua tưởng là chính xác, nhưng đi vào phân tích sẽ thấy rằng nó không phù hợp với lý luận và thực tiễn. Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin mà chúng ta đã trình bày ở phần trên, mỗi khi chính trị không phù hợp với kinh tế thì thay đổi về chính trị là điều kiện kiên quyết để thay đổi về kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cho nên, không thể quy nguyên nhân thất bại trong đổi mới ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là đổi mới chính trị trước, đổi mới kinh tế sau. Nguyên nhân thực sự dẫn đến sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do mâu thuẫn về kinh tế và chính trị không được phát hiện và khắc phục sớm đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về chính trị làm mất vai trò của Đảng cộng sản. Khẳng định rằng ở nước ta đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau không phù hợp với thực tiễn. Sự thật là phải có đướng lối đổi mới do Đảng ta đề ra, trên cơ sở đó, hình thành chính sách mới, luật pháp mới... thì mới có thể đổi mới kinh tế. Bản thân đường lối đổi mới của Đảng cùng với chính sách luật pháp... của Nhà nước đều thuộc về chính trị. Vấn đề là ở chỗ: lĩnh vực chính trị là lĩnh vực hết sức phức tạp, liên quan tới quyền thống trị của giai cấp, nó có ý nghĩa quyết định thành bại của công cuộc đổi mới nên phải tiến hành từng bước và hết sức thận trọng. Đổi mới chính trị phải trên cơ sở đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới kinh tế và đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6 năm 1991) đảng ta đã khẳng định 1. Đổi mới kinh tế - đổi mới chính trị. Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị đồng thời đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và các bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ. Điều đó cho thấy rằng Đảng ta đã không tách rời với đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, mà gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng ta đã khẳng định rằng phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế và đồng thời đổi mới kinh tế phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị, nhưng phải thật thận trọng không gây mất ổn định về chính trị. Tóm lại: ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nền tảng của đổi mới kinh tế. 2. Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường. Trước đây, người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội: sở hữu chủ nghĩa tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội quyết định. Sau khi giành được chính quyền giai cấp công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau: sở hữu tư nhân, tư bản chủ nghĩa và sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hoá nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ và phát triển giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để chuyển thẳng lên sở hữu toàn dân còn đối với sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hoá nhỏ thì không thể dùng biện pháp như trên, mà phải kiên trì, giáo dục, thuyết phục, tổ chức họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hoá hai hình thuức. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và nông dân tập thể. Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường ở Việt Nam. - Về sở hữu toàn dân: trước đây người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu Nhà nước. ở nước ta hiện nay, như hiến pháp và luật đất đai đã quy định rõ: “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”. Xét về mặt kinh tế đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất đai là lãnh thổ là nơi cư trú của cả một cộng đồng. Thế nhưng khi xét trên cả hai phương diện có thể nói rằng đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên, sau cho cùng đất đai cũng là tư liệu sản xuất. Bởi thế, dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hoá, nó vẫn phải vận động theo quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của những quy luật đó. Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân. Kể cả quyền được chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai nếu biết giải quyết cụ thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng, chẳng hạn như ruộng đất vẫn thuộc sở hữu toàn dân song người nông dân được quyền sử dụng ổn định, lâu dài thì có thể đem lại một sự tăng trưởng kinh tế nói chúng. Văn kiện đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: “trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. - Về sở hữu Nhà nước: Trong thời kỳ bao cấp trước đây không chỉ ở nước ta mà còn ở một số nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, thường đồng nhất sở hữu Nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy có một thời gian khá dài, người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt đến sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể và cũng bởi sở hữu toàn dân được gắn kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh, vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành thứ sở hữu không phải của một chủ sở hữu cụ thể nào cả. - Về sở hữu tập thể: ở nước ta trước đây hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) với nội dung là có giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung, mà các xã viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà với hình thức sở hữu này, quyền mua bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông ở nước ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự “nhập nhằng” với quyền sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân trá hình cũg là hiện tượng phổ biến. Để thoát khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, cần phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành một hình thức sở hữu có hiệu quả. Chúng ta đã biết, hợp tác xã không phải là hình thức riêng có đặc trưng cho chủ nghĩa xã hội, nhưng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần phải duy trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hữu vậy khi xây dựng chủ nghĩa xã hội như VI Lênin đã khẳng định, “chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”. Hợp tác xã là nhu cầu thiết thực của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hoá. Khi lực lượng sản xuất trong công nghiệp và nông nghiệp phát triển tới một trình độ nhất định nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. 3. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là mặt đối lập nhưng đồng thời lại có quan hệ mật thiết với lực lượng sản xuất. Trong ba bộ phận hợp thành quan hệ sản xuất là: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối kết quả sản xuất thì hình thức sở hữu tư liệu sản xuất là nội dung cơ bản và quan trọng nhất. Với mỗi chế độ sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất sẽ quyết định địa vị và mối quan hệ lẫn nhau giữa con ngươi với con người trong quá trình sản xuất. Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Vấn đề lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện cuả nó xét trên phương diện triết học và chủ nghĩa Mác Lênin, theo đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũng không còn phù hợp nữa, trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển cần phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đó là qui luật kinh tế chung cho sự phát triển xã hội. Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta là một ví dụ. Khi một mục tiêu, m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35373.doc
Tài liệu liên quan