Tiểu luận Phương pháp luận định hướng giải quyết vấn đề ở Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

I. CƠ SỞ KHÁCH QUAN NẢY SINH VẤN ĐỀ 2

1. Khái quát chung ở các nước trên thế giới 2

2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng trong phân phối thu nhập ở Việt Nam 3

II. PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐỊNH HƯỚNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 5

1. Một số quan niệm sai lầm về mặt phương pháp luận trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong phân phối thu nhập 5

2. Phương pháp luận định hướng giải quyết vấn đề ở Việt Nam 8

KẾT LUẬN 12

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 14

 

 

doc15 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1034 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phương pháp luận định hướng giải quyết vấn đề ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cáo của Liên hiệp quốc, trong hơn 3 thập kỷ qua, mặc dù nền kinh tế thế giới có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng: thu nhập quốc dân bình quân đầu người tăng 3 lần, GDP của thế giới tăng 6 lần, nhưng hố ngăn cách giữa người giầu và người nghèo trên thế giới ngày càng sâu thêm, thu nhập của 358 nhà tỷ phú trên hành tinh lớn hơn các khoản thu nhập tổng cộng của gần 2,3 tỷ người nghèo nhất, chiếm 45% dân số thế giới. Bên cạnh đó, chênh lệch thu nhập giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển đã tăng 3 lần. Trong hơn 30 năm qua, thu nhập của nhóm 20% người nghèo nhất hành tinh đã giảm xuống còn 1,4% thu nhập của thế giới. Trong khi đó, phần thu nhập của nhóm 20% người giàu nhất thế giới đã lên tới 80%. Điều đáng lưu ý là từ năm 1965 đến 1980, có 200 triệu người có thu nhập giảm dần và từ năm 1980 đến 1993 có trên 1 tỷ người rơi vào tình trạng trên. Ở Mỹ hiện nay, số của cải do 1% những người giàu nhất nắm giữ đã tăng từ 20 đến 30% của cải quốc gia. Ở một số nước khác như Braxin, Goatemala, Panama, thu nhập của những người giàu gấp 30 lần thu nhập của những người nghèo. Trong một thế giới của sự phát triển khoa học kỹ thuật ngày càng tăng, khi mà xã hội lẽ ra phải đang được hưởng những lợi ích từ sự đi lên của kinh tế, thì nhiều nước đang phải đối mặt với tình trạng mà trong đó sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo "đang gia tăng với tốc độ đáng báo động". Ngay những nước phát triển như Mỹ, Canada và Anh cũng không thoát khỏi xu thế này. Và mặc dù đã và đang được chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục, hai quốc gia lớn nhất châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ cũng thất bại trong việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở nhiều nước tại châu Á, châu Mỹ Latin và châu Phi. Chỉ riêng tại khu vực phụ cận sa mạc Sahara, số người nghèo đã tăng lên tới gần 90 triệu trong thời gian hơn 1 thập kỷ (từ 1990 tới 2001). Thế giới ngày nay đã phân cực hơn so với 10 năm trước. Thực tế, không có tăng trưởng kinh tế thì không giải quyết được nghèo đói và bất công. Nhưng phải chăng đói nghèo và bất công là tất yếu trên con đường phát triển, là cái giá phải trả cho tăng trưởng kinh tế? Thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng trong phân phối thu nhập ở Việt Nam Thời kỳ 1976-1985, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm ở nước chỉ đạt 2% trong khi tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm là 2,4%, nền kinh tế tăng trưởng thấp, làm không đủ tiêu dùng và dựa vào nguồn lực bên ngoại ngày càng lớn. Tại Đại hội VI của Đảng năm 1986, Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới. Những nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế là thực hành dân chủ hóa đời sống kinh tế, chuyển từ cơ chế quản lý kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển quan hệ kinh tế đối ngoại từ đơn phương sang đa phương theo hướng kinh tế mở, đa dạng hóa hình thức và đa phương hóa quan hệ. Một trong những thành quả nổi bật của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới chính là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao khá ổn định. Thời kỳ từ năm 1986 tới nay là thời kỳ đổi mới, tốc độ tăng trưởng bình quân 1986 1990 là 4,5%, thời kỳ 1991-1995 là 8,2%, thời kỳ 1996-2000 là 7% và từ 2001-2007 là 7,6%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ngang bằng Hàn Quốc và chỉ đứng sau Trung Quốc. Cơ chế mới đi vào thực tiễn từ năm 1989, chế độ tem phiếu bị xóa bỏ, lạm phát phi mã được kìm lại, đời sống vật chất của số đông nhân dân bước đầu được cải thiện. Mỗi năm thêm 1 triệu lao động có việc làm. Trong 5 năm, khối lượng hàng hóa tiêu thụ trên thị trường đã tăng gấp đôi (bình quân mối năm tăng 7,4%). Số lượng đáng kể nhà ở và đường giao thông được cải tạo, xây dựng ở cả thành thị và nông thôn đã nâng cao hơn điều kiện ăn ở, đi lại và hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Tuy nhiên, mức độ cải thiện không đều giữa các tầng lớp, giữa các vùng. Tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng mở rộng giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây, vùng đồng bào dân tộc thiểu sổ còn nhiều khó khăn, lạc hậu. Khu vực thành thị và nông thôn đều có sự tăng thu nhập, tuy nhiên chênh lệch thu nhập bình quân giữa thành thị và nông thôn vẫn ở mức hầu như không đổi, khoảng 2,1 lần. Chênh lệch giữa vùng có thu nhập cao nhất là Đông Nam bộ với vùng có thu nhập thấp nhất là Tây Bắc là 3,1 lần. Các vùng Tây bắc, Tây nguyên vẫn là những vùng có mức thu nhập thấp, mặc dù trong những năm gần đây cũng có sự gia tăng đáng kể về thu nhập bình quân. Tình hình này cho thấy sự phân hóa thu nhập theo vùng, miền vẫn còn khá gay gắt. Ở một phương diện nhất định, phân hóa giàu nghèo thể hiện rõ nhất sự bất bình đẳng xã hội. Nghèo đói không phải vấn đề xã hội ở các nước lạc hậu mà có tính toàn cầu. Xóa đói giảm nghèo là một điểm son, là thành tựu lớn của Việt Nam, song tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại, tình trạng tái nghèo còn nhiều. Phân phối thu nhập không được thực hiện một cách đồng đều. Một phần lớn thu nhập được chuyển sang những người sở hữu các nguồn lực khác ngoài lao động thay vì chuyển một phần thoả đáng cho những người sở hữu sức lao động mà thiếu các nguồn lực khác. Vì vậy, khoảng cách giữa nhóm người giàu và nhóm người nghèo ngày càng dãn ra. Hệ số chệnh lệch giữa các nhóm nghèo và nhóm giàu qua các năm của Việt Nam qua có xu hướng gia tăng, ví dụ: năm 1990 là 4,1, năm 1991 là 4,2 đến năm 2006 là 8,6 lần. Hệ số chênh lệch giữa nhóm người giàu (chiếm 20% dân số có thu nhập cao nhất) và nhóm nghèo (chiếm 20% dân số có thu nhập thấp nhất) [Nguồn: Ngân hàng thế giới, khu vực châu Á – Thái Bình Dương] Chưa bao giờ Việt Nam có nhiều triệu phú USD như năm 2007. Cũng chưa bao giờ khoảng cách giàu nghèo lại bức bách đến vậy" -  tiến sĩ Võ Trí Thành - Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - nhìn nhận tại Diễn đàn quốc tế về chuyển đổi kinh tế năm 2008 tại Hà Nội ngày 2/4/2008. Bất bình đẳng xã hội, nhất là trong phân phối về mặt vật chất, trước hết là tài sản, thu nhập đang là một tồn tại khách quan trong xã hội. Rõ ràng trong thời gian qua, nhất là qua 20 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử như Đảng ta đã khẳng định, có rất nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa giải quyết tốt. Bài toán phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện công bằng xã hội; giữa nhu cầu phát triển xã hội hiện đại với lợi ích từng người dân, từng cộng đồng vẫn chưa có lời giải tốt. Vấn đề đặt ra ở đây là “giải pháp nào để có thể giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay?” PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐỊNH HƯỚNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Một số quan niệm sai lầm về mặt phương pháp luận trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong phân phối thu nhập Thực tế trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã tồn tại nhiều hướng khác nhau để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội: Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn tới bất bình đẳng Những người theo quan điểm này cho rằng tăng trưởng kinh tế được đảm bảo bằng bất bình đẳng trong phân phối và làm gia tăng sự bất bình đẳng này. Họ lập luận như sau: chỉ tầng lớp có thu nhập cao mới có khả năng tích lũy và đó là nguồn gốc đảm bảo đầu tư chủ yếu cho tăng trưởng nên bất kỳ sự phân phối nào làm giảm mức độ tập trung thu nhập này đều ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng kinh tế. Lập luận này không phải không có cơ sở thực tiễn lịch sử của sự phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhờ quá trình tích tụ và tập trung tư bản kèm theo sự bần cùng hóa một tầng lớp đông đảo trong xã hội mà cuộc cách mạng công nghiệp có được lực đẩy phi thường. Đó cũng là cách giải thích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản của Các Mác. Ông chỉ ra quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự bất bình đẳng lớn tới mức nó trở thành lực cản đối với sự phát triển tiếp theo. Những lập luận đầy đủ nhất về tăng trưởng đối lập với công bằng được trình bày trong lý thuyết của Athur Lewis bàn về các nước đang phát triển. Dựa trên giả thuyết của Ricardo và Mác cho rằng, lao động có thể được sử dụng với số lượng không hạn chế ở mức tiền lương cố định chứ không phải nguồn lực khan hiếm, Lewis đã xây dựng mô hình phát triển kinh tế với nguồn lao động không có giới hạn hay mô hình lao động dư thừa. Trong mô hình này, ông cho rằng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập sẽ tăng trong thời kỳ đầu và chỉ sau khi đạt đến sự phát triển cao mới giảm đi. Theo Lewis, bất bình đẳng không chỉ là kết quả tất yếu của tăng trưởng kinh tế mà đồng thời còn là nguyên nhân của tăng trưởng. Bởi lẽ phân phối có lợi cho những người thu nhập cao sẽ tạo mức tiết kiệm cao. Mô hình Lewis cho rằng bất bình đẳng góp phần vào phát triển kinh tế và các cố gắng nhằm phân phối lại “một cách hấp tấp và vội vã” sẽ có nguy cơ bóp chết tăng trưởng kinh tế. Sự tăng thêm nhất thời của bất bình đẳng là cái giá phải trả cho sự thành công và nếu tất cả mọi người biết chờ đợi phát triển đi theo tiến trình của nó, họ sẽ được lợi đúng lúc. Mô hình Lewis được thừa nhận khá rộng rãi ở các nước đang phát triển trong nhiều thập kỷ nhưng nó cũng bộc lộ những khuyết điểm và bị phê phán từ nhiều phía. Ngày nay, người ta thấy rằng mô hình này chỉ giải thích được 10% mức tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, ngay cả khi tiết kiệm có vai trò quan trọng như Lewis giả định thị cũng chưa có gì đảm bảo cho mức tiết kiệm đó được tái đầu tư và khu vực hiện đại có khả năng thu hút hết lao động dư thừa hay không và thời gian đó kéo dài bao lâu, liệu có đi liền với tăng trưởng? Ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng Không ít tư tưởng và học thuyết nhấn mạnh tới công bằng xã hội hơn là tăng trưởng kinh tế. Phân phối trước, tăng trưởng sau là quan niệm chủ đạo của đường lối phát triển kinh tế ở nhiều nước đi theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa trong những thập kỷ sau đại chiến thế giới thứ hai. Quan niệm này dựa trên lập luận là việc tập trung tài sản vào một nhóm người là trở ngại cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Bất bình không chỉ được coi là sự tha hóa của phát triển mà còn cản trở sự phát triển. Vì thế, việc phân phối lại là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng. Các hình thức cách mạng như tược đoạt người giàu chia cho dân nghèo, tịch thu ruộng đất của địa chủ, tiêu diệt tầng lớp tư sản và kinh doanh giàu có được thực hiện. Trong giai đoạn tiếp theo, vấn đề phân phối là nội dung quan trọng nhât của quan hệ sản xuất, có tác dụng mở đường và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Cơ chế phân phối thiết lập sao cho đảm bảo thu nhập phụ thuộc vào đóng góp lao động. Tuy nhiên, nền tảng cơ bản của các quan hệ phân phối vẫn chủ yếu là chủ nghĩa bình quân, duy trì bình đẳng theo quan điểm bình quân. Nhà nước phục vụ các chính sách phúc lợi rộng rãi, bất chấp trình độ phát triển kinh tế đã đạt được. Mô hình này đã được lịch sử chứng minh, mặc dù là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn đối với tầng lớp nhân dân, đặc biệt trong thời kỳ đầu, đã không có cơ sở đứng vững. Công bằng trong điều kiện như vậy đã trở thành lực cản tăng trưởng kinh tế hoặc làm nảy sinh những bất công lớn hơn giữa một bên là những người lao động và một bên là bộ máy quyền lực. Những nỗ lực sửa đổi mô hình này trên nền tảng nhận thức không đúng như trên đã không thành công và các nước đi theo nó đã phải chuyển sang kinh tế thị trường, ở đó, tăng trưởng và bất bình đẳng được xem xét từ những quan điểm tiếp cận khác. Với những lập luận và thực tế, người ta đã nhận thấy những hạn chế của việc chú ý quá mức đến tăng trưởng, hoặc ngược lại, quá chú trọng công bằng. Nếu chỉ quá chú trọng giải quyết các tiến bộ và công bằng xã hội mà kinh tế thì trì trệ không tăng trưởng hoặc chỉ tăng trưởng thấp, các nước xã hội chủ nghĩa trước đây là một ví dụ; và thứ hai là ngược lại, cũng có nước chỉ chú trọng tăng trưởng kinh tế mà coi nhẹ việc giải quyết các tiến bộ và công bằng xã hội nên an ninh và an sinh xã hội thường xuyên bất ổn, một số nước châu Mỹ Latinh như Braxin, Mehico... hay Trung Đông như Iran, Iraq... đã rơi vào trường hợp này; thậm chí kể cả Mỹ là siêu cường số 1 thế giới song nếu xét ở các khía cạnh an ninh, an sinh xã hội ... hiện vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập thì cũng chưa thể đạt tới “hoàn hảo” của một sự phát triển bền vững như đã đề cập đến. Tăng trưởng đi liền với công bằng thông qua giải quyết các nhu cầu cơ bản của con người Do vốn xã hội hạn chế của đa số nhân dân, đặc biệt là trình độ giáo dục và y tế đã làm giảm tiềm năng sản xuất của họ và do đó giảm khả năng tham gia vào thị trường với tư cách là người lao động và người tiêu thụ. Để giúp họ bù đắp, chính phủ cần chuyển của cải từ người đã được hưởng lợi nhờ tăng trưởng sang tài trợ các dịch vụ bù đắp cho người nghèo. Những khoản tài trợ này vừa có thể bù đắp nhu cầu thỏa mãn của họ trong sinh hoạt, an mặc vừa chuẩn bị cho họ một chỗ đứng trong lực lượng lao động. Tuy nhiên, để thực hiện như vậy, cần thiết có một nguồn tài chính lớn và một mạng lưới nhằm phân bổ dịch vụ cho người nghèo, một loạt chính sách hỗ trợ cho mục tiêu này như thực hiện thuế, lãi suất, giá cả ưu đãi. Ý tưởng này dường như khá hợp lý nhưng lại bị phê phán ở một số điểm. Để có thể thực hiện, chính phủ cần nguồn tài chính lớn mà trong giai đoạn đầu, lợi ích thu được từ tăng trưởng còn quá nhỏ. Mặt khác, những trợ cấp ấy có đủ đảm bảo cho người dân tham gia rộng rãi vào hệ thống kinh tế hay không. Có thể thấy, quan điểm này về cơ bản là chương trình hành động xã hội hơn là một chiến lược tổng thể đảm bảo một cơ chế tương hỗ thực sự giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. 2. Phương pháp luận định hướng giải quyết vấn đề ở Việt Nam Theo lý thuyết kinh tế học phát triển, công bằng xã hội trong phân phối thu nhập chính là việc thực hiện tiến bộ xã hội trong lĩnh vực phân phối thu nhập và do đó là một trong những tiêu chí cơ bản cấu thành nên sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của mỗi quốc gia. Hiểu theo nghĩa rộng, đó không chỉ là sự công bằng xã hội trong thu nhập về tiền lương danh nghĩa mà chính là trong thu nhập thực tế về tất cả các quyền lợi vật chất và tinh thần được hưởng như; tiền lương, khả năng được hưởng thụ các nhu cầu về ăn, mặc, nhà ở, phương tiện đi lại, điều kiện học hành để nâng cao tri thức, các chế độ bảo hiểm xã hội, y tế, các hoạt động hưởng thụ, vui chơi giải trí văn hoá, văn nghệ, thể thao, du lịch... Tóm lại, đó là loại chỉ tiêu kinh tế - xã hội tổng hợp, phản ánh trình độ sống của dân cư trong mỗi quốc gia, lãnh thổ và trong thực tế đây cũng là một loại thước đo cơ bản nhất để so sánh, đánh giá, xếp hạng trình độ phát triển giữa các quốc gia, lãnh thổ với nhau. Thực tiễn phát triển của các nước đã cho thấy, thông thường giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế thường đi đôi với nhau. Không có tăng trưởng thì không thể có phát triển kinh tế và do đó khó có thể thực hiện tốt công bằng xã hội trong phân phối thu nhập cũng như trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội các tầng lớp dân cư; và ngược lại: phát triển kinh tế là bao hàm cả tăng trưởng kinh tế, cơ sở vật chất tiên quyết cho việc thực hiện tốt công bằng xã hội trong phân phối thu nhập, và chính thực hiện tốt công bằng xã hội trong phân phối thu nhập lại là một động lực trực tiếp thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế. Về cơ bản, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập cũng chính là mối quan hệ biện chứng thống nhất giữa tăng trưởng với phát triển kinh tế mà trong đó thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập lại là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của sự phát triển bền vững trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Từ thực tiễn nảy sinh trên đây, vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đã đặt ra cho các quốc gia, lãnh thổ trong quá trình phát triển là cần thiết phải nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung cũng như giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập nói riêng. Cần tránh cả hai xu hướng nhận thức và hành động đã từng xảy ra trong kinh nghiệm lịch sử phát triển của thế giới và kể cả Việt Nam, từ đó dẫn đến những hạn chế, bất cập khác nhau như đã nêu ở trên. Kinh nghiệm phát triển của một số nước công nghiệp phát triển đã có những thành công nhất định trong việc thực hiện đúng đắn vấn đề công bằng xã hội trong phân phối thu nhập có thể kể ra như Thuỵ Sĩ, Canađa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... là trước hết phải dựa vào thực lực của nền kinh tế, trong đó tăng trưởng kinh tế cao và bền vững luôn là điều kiện tiên quyết. Mặt khác, cần có sự nhận thức đúng thế nào là công bằng xã hội trong phân phối thu nhập? Công bằng xã hội trong phân phối thu nhập là chống mọi biểu hiện đặc quyền, đặc lợi của số ít cá nhân (thường là rơi vào các quan chức, hoặc là những người tuy không là quan chức nhưng do vị trí, chức trách công việc được giao lại gắn với các đặc quyền, đặc lợi nên dễ xảy ra tình trạng lạm dụng quyền hạn được “cấp, phát, xin, cho” dẫn đến tham nhũng...) nhưng không thể đồng nghĩa với với sự phải chia đều các của cải của xã hội cho mọi người, như vậy sẽ làm triệt tiêu động lực cạnh tranh, tinh thần thi đua và sáng tạo của từng thành viên trong guồng máy sản xuất xã hội. Công bằng không phải là cào bằng, thực hiện chủ nghĩa bình quân. Công bằng xã hội cần được hiểu là phải thực hiện và duy trì được sự bình đẳng, dân chủ trong quyền lựa chọn các cơ hội làm việc, cơ hội được đầu tư cho phát triển năng lực, trí tuệ bản thân và cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh... để nhằm tới hiệu quả cuối cùng là có mức sống cao nhất phù hợp tương ứng với công sức và trình độ lao động bỏ ra của từng thành viên và nhất thiết phải góp phần tích cực nhất vào sự tăng trưởng và phát triển bền vững chung của nền kinh tế đất nước và cộng đồng xã hội, nhân loại. Nhận thức cần thực hiện công bằng xã hội như vậy, cho thấy tất yếu sẽ phải chấp nhận một thực tế có vẻ bất bình đẳng nhưng vẫn thực sự bình đẳng, đó là sẽ vẫn có kẻ giàu - người nghèo, nhưng giàu - nghèo ở đây không phải là do cạnh tranh tiêu cực, do bóc lột tàn nhẫn hoặc do có cơ hội tham nhũng thì trở thành giàu, và ngược lại nếu không có các yếu tố đó thì bị nghèo. Chấp nhận có phân cực giàu – nghèo ở đây là giàu – nghèo hợp lý, chính đáng, vì bất cứ ai có tài, có đức, có năng lực quản lý kinh doanh, có vốn đầu tư và biết đầu tư đúng, hoạt động đúng pháp luật... thì sẽ nhanh giàu, còn ngược lại nếu không có những năng lực, phẩm chất đó mà lại lười suy nghĩ, lười lao động thì sẽ dễ bị nghèo. Chấp nhận sự phân cực có kẻ giàu - nguời nghèo như vậy hoàn toàn không đối lập với việc thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập và do đó càng không đối lập với bản chất của nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và ngày càng hoàn thiện hơn. Vấn đề quan trọng và thiết thực hơn đã và đang đặt ra thành thách thức lớn trong sự phát triển của tất cả các quốc gia, lãnh thổ hiện nay, kể cả những nền kinh tế đã phát triển mạnh như Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Singapore... hoặc đang đà phát triển mạnh như Trung Quốc, Ấn Độ... là đều cố gắng rút ngắn sự chênh lệch giàu - nghèo bằng cách chỉ nên duy trì ở một khoảng cách nhất định về sự cách biệt mức thu nhập giữa các giai tầng trong xã hội. Nói cách khác, có thể chấp nhận có sự giàu tuyệt đối với một số ít người và sự nghèo tương đối cũng ở một số ít người, nhưng xu hướng phấn đấu chung phải là tăng dần số giàu tương đối và giảm dần số nghèo tuyệt đối (còn gọi là nghèo đói bần cùng hoá). Theo mô hình phấn đấu này, có thể ví dụ về trường hợp Nhật Bản trong thập niên 80 của thế kỷ trước đã được coi là một điển hình thành công trong việc tiến tới một xã hội trên 90% dân số có mức sống từ trung lưu trở nên cho đến giàu và rất giàu, chỉ còn lại số ít dưới 10% dân số có mức sống trung bình và dưới trung bình, trong đó có cả số rất ít bị nghèo tương đối với tỷ lệ không đáng kể. Tuy nhiên, thành tựu này của Nhật Bản cũng đã bị mờ dần, nguyên nhân như đã biết là cường quốc thứ hai thế giới này đã bị lâm vào cuộc đại khủng hoảng suy thoái kinh tế - xã hội kéo dài suốt hơn thập niên kể từ đầu những năm 1990 cho đến năm 2003 mới phục hồi dần được sự tăng trưởng GNP trở lại nhưng còn rất chậm, chỉ đạt tốc độ khoảng 2-3% bình quân hàng năm từ đó đến nay (trước đó, suốt cả thập niên 1990 là tăng trưởng âm). Từ bài học Nhật Bản càng cho thấy tăng trưởng kinh tế liên tục ở mức cao là rất quan trọng và cần thiết, vì đó là điều kiện tiên quyết để thực hiện tốt các tiến bộ xã hội, trong đó có việc giải quyết thoả đáng vấn đề công bằng xã hội trong phân phối thu nhập - một trong những mục tiêu phấn đấu hàng đầu và cũng là một trong những động lực lợi ích rất quan trọng, nhờ đó thúc đẩy sự cạnh tranh, phát triển trong thi đua lao động sáng tạo của mỗi người lao động, đưa lại sự tăng trưởng và phát triển chung cho toàn xã hội. Việt Nam là một nước đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện dần thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không thể nằm ngoài tính quy luật về sự cần thiết phải thực hiện hài hoà mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong phân phối thu nhập. Vì thế, việc nghiên cứu những bài học kinh nghiệm thành công và kể cả chưa thành công của nước ngoài về vấn đề này, nhất là kinh nghiệm của những nước trong cùng khu vực Đông Á có nhiều điều kiện tương đồng với nước ta thực sự là cần thiết. Phải đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII tháng 06 năm 1991, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa VI mới chính thức nêu lên các quan điểm có ý nghĩa triết lý chỉ đạo việc kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và xã hội trong quá trình đổi mới: “Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.” [Trích dẫn: Văn kiện Đại hội ĐCSVN lần thứ VII- NXB Sự thật, Hà Nội-1991]. Đại hội Đảng lần thứ VIII lại bổ sung một quan điểm quan trọng nữa là “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình” [Trích dẫn: Văn kiện Đại hội ĐCSVN lần thứ VIII- NXB Sự thật, Hà Nội-1996]. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội luôn là mục tiêu cơ bản mà Đảng và nhân dân Việt Nam không ngừng phấn đấu để đạt được, không thể chờ kinh tế phát triển cao, dân giầu mới thực hiện công bằng xã hội cũng như không thể hi sinh tiến bộ, công bằng xã hội để phát triển kinh tế một cách thuần túy. KẾT LUẬN Thất bại trong việc giải quyết tình trạng bất bình đẳng sẽ khiến cho việc nâng cao điều kiện sống cho người nghèo và tạo lập công bằng xã hội trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Nguy hiểm hơn, nó có thể dẫn đến sự bất ổn về mặt xã hội trên toàn thế giới. Phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Trong quá trình thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế, thành tựu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là đáng ghi nhận. Tuy nhiên, cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, nhiều vấn đề của xã hội ngày càng trở nên bức xúc: khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày càng lớn, phân hóa giàu nghèo ngày càng gay gắt, các giá trị truyền thống bị bào mòn theo thời gian, tệ nạn xã hội ngày càng phổ biến. Chính vì vậy, yêu cầu của sự phát triển hiện nay vẫn đặt ra đòi hỏi bức thiết trong việc thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Trong gần 20 năm đổi mới, mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển, giữa tăng trưởng và tiến bộ xã hội được quan tâm đúng mức nhờ đó chỉ số HDI của Việt Nam đã tăng từ 0,539 năm 1994 (xếp hạng 120/174 nước) lên 0,733 năm 2007 (105/177). Thứ bậc HDI cao hơn đáng kể so với thứ bậc phát triển kinh tế (hơn 10 bậc) cho thấy sự phát triển kinh tế của Việt nam có xu hướng phục vụ con người và đảm bảo công bằng xã hội. Việt nam xếp hạng 105 về HDI và xếp hạng 123 về chỉ số GDP/đầu người (chênh lệch 18 bậc). Nhận định này càng được khẳng định vững chắc khi chúng ta quan sát thực tế rằng tỷ lệ số người sống dưới mức nghèo khổ của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với các nước có mức GDP/ đầu người vượt trội. Trong những năm qua, tuy nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng như đánh giá trên đây, song vẫn còn không ít yếu kém và khuyết điểm về tăng trưởng kinh tế, công bằng và tiến bộ xã hội cũng như việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội ở Việt Nam. Nhìn ở một khía cạnh khác, tình trạng chênh lệch thu nhập và phân hoá giàu nghèo cung như bất bình đẳng có phần gia tăng trong thời gian qua ở nước ta phản ánh một xu hướng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Và nhìn chung, những sự chênh lệch này vẫn ở trong giới hạn hợp lý của sự” đánh đổi”. Tuy nhiên, chúng cũng bộc lộ những nguy cơ và thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Đầu tư và sự hưởng thụ về giáo dục, sức khỏe và các dịch vụ khác ngà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8985.doc
Tài liệu liên quan