Do tài sản trong doanh nghiệp hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, nên chi phí phát sinh có liên quan đến nhiều loại chi phí, nên cần phải được phân loại cụ thể để tránh trường hợp tập hợp chi phí không đúng, dẫn đến việc tính giá cho các đối tượng kế toán bị sai lệch. Chi phí liên quan đến việc tính giá bao gồm các loại sau:
Chi phí thu mua: Bao gồm toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc thu mua vât tư, tài sản, hàng hóa như chi phí vạn chuyển, bốc dỡ, bảo quản.
Chi phí sản xuất: Là những chi phí phát sinh liên quan đến quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện dịch vụ trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất. Bao gồm:
+ Chi phí bán hàng: Là chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ như : chi phí nhân viên bán hàng ; chi phí vật liệu, bao gói; chi phí dụng cụ bán hàng.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm toàn bộ các khoản chi phí liên quan đến việc tổ chức, điều hành, quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh
26 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3412 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phương pháp tính giá các đối tượng kế toán trong mối quan hệ với các phương pháp hạch toán kế toán khác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u hao nào phụ thuộc vào yêu cầu của nhà quản lý trong việc thu hồi vốn, đổi mới công nghệ. Chuẩn mực kế toán đặt ra một số phương pháp để tính giá một đối tượng kế toán nhằm bảo đảm kế toán được ứng dụng phù hợp với đặc điểm của từng loại đối tượng, khả năng và yêu cầu quản lý của từng đơn vị. Tuy nhiên, chuẩn mực kế toán cũng đặt ra yêu cầu về tính thống nhất, đó chính là sự nhất quán về phương pháp tính giá được sử dụng ở các kỳ kế toán. Yêu cầu về tính thống nhất ở đây không chỉ trong một đơn vị mà còn thống nhất về nguyên tắc trong các tổ chức ở mỗi quốc gia. Yêu cầu về tính thống nhất trong tính giá đối tượng kế toán nhằm bảo đảm kế toán cung cấp thông tin có tính so sánh cho người sử dụng. Xuất phát từ yêu cầu này mà việc tính giá thường tuân thủ theo những nguyên tắc kế toán nhất định, thể hiện qua các chuẩn mực kế toán ở các nước.
2. Các nguyên tắc trong tính giá:
Trong công tác kế toán, khi tính giá các đối tượng kế toán thực hiện tốt các nguyên tắc sau:
2.1- Nguyên tắc giá gốc:
Nguyên tắc này yêu cầu khi tính giá các tài sản phải căn cứ vào số tiền hoặc tương đương tiền mà đơn vị đã trả, phải trả. Vận dụng nguyên tắc này đòi hỏi khi mua sắm hoặc tạo lập tài sản dưới nhiều hình thức khác nhau thì phải ghi sổ theo toàn bộ chi phí thực tế phát sinh tại thời điểm xảy ra việc mua sắm hoặc tạo lập đó. Giá trị ghi sổ đó sẽ không thay đổi khi giá trên thị trường thay đổi trừ trường hợp đánh giá lại tài sản theo quy định Nhà Nước hoặc yêu cầu chung của công tác quản lý và quản trị tại doanh nghiệp.
Ví dụ: Nếu một Doanh nghiệp chi ra 100 triệu đồng để mua một lô đất để chuẩn bị xây dựng trụ sở cho Doanh nghiệp, khi đó kế toán phải ghi nhận giá trị của lô đất này là 100 triệu. Giả sử sau đó sáu tháng, giá lô đất đó tăng lên là 150 triệu, kế toán không được điều chỉnh thay đổi giá trị của lô đất trong sổ sánh kế toán của công ty.
2.2- Nguyên tắc khách quan:
Thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan đúng với thực trạng, bản chất nội dung và giá trị nghiệp vụ kinh tế phát sinh; đúng với thực tế, không bị xuyên tạc và bóp méo. Do vậy, nguyên tắc này đòi hỏi các số liệu chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng kiểm tra được. Vì vậy, trong trường hợp tài sản có được do biếu tặng hoặc do trao đổi trực tiếp lấy một tài sản khác thì giá trị ghi sổ của tài sản phải dựa trên cơ sở giá trị thực tế trên thị trường tại thời điểm phát sinh.
Có thể xem nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc giá phí là do tài sản phải được ghi chép theo chi phí chứ không phải theo một lượng giá trị như giá trị thị trường dự kiến.
2.3- Nguyên tắc nhất quán:
Theo phương pháp này, các chính sách và phương pháp tính giá các đối tượng kế toán phải sử dụng thống nhất giữa các kỳ kế toán. Trong thực tế, đơn vị vẫn có thể thay đổi chính sách và phương pháp tính giá nhưng phải nêu rõ trong phần thuyết minh để người đọc có thể nhìn nhận và đánh giá chính xác về tình hình tài sản cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của đơn vị.
2.4- Nguyên tắc thận trọng:
Nguyên tắc này xuất hiện khi doanh nghiệp cân nhắc và phán đoán trong điều kiện không chắc chắn. Với nguyên tắc thận trọng, khi tính giá nếu phương pháp nào tạo ra thu nhập nhỏ hơn hay giá trị tài sản nhỏ hơn sẽ là phương pháp được lựa chọn. Vì như vậy, việc đảm bảo một khoản thu nhập hoặc tài sản sẽ chắc chắn.
Ngoài bốn nguyên tắc kế toán nêu trên có ảnh hưởng đến việc tính giá các đối tượng kế toán, khi mức giá chung thay đổi hoặc tuỳ theo yêu cầu quản lý trong nội bộ đơn vị cũng có thể dẫn đến những ảnh hưởng nhất định trong đo lường giá trị các tài sản của đơn vị. Bởi vì, mặc dù nguyên tắc giá gốc yêu cầu tài sản của đơn vị phải được kế toán ghi nhận theo chi phí thực tế, tuy nhiên trong những tình huống phát triển kinh tế nào đó có thể làm cho mức giá chung tăng hoặc giảm mạnh (lạm phát hoặc giảm phát lớn) thì cần thiết phải điều chỉnh giá gốc của tài sản đã được ghi nhận trước đây cho phù hợp với sự biến động của mức giá chung.
Cần lưu ý rằng việc điều chỉnh này đơn vị không được tự ý thực hiện mà phải tuân thủ những qui định của Nhà nước về mặt thời gian, đối tượng được điều chỉnh và mức độ điều chỉnh. Trong một số đơn vị, đối với một số đối tượng kế toán giá gốc của nó biến động thường xuyên và phức tạp. Để khắc phục tình trạng này, kế toán có thể dùng giá hách toán, tức là giá cố định để cung cấp cấp thông tin kịp thời cho quản lý, nhưng sau đó phải điều chỉnh theo giá thực tế của tài sản này. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc sử dụng giá hạch toán chỉ mang tính chất tạm thời trong kỳ kế toán, đến cuối kỳ kế toán phải tiến hành điều chỉnh theo giá gốc, bởi vì giá hạch toán không phải là giá gốc, nó không thêt thay thế cho giá gốc của tài sản. Giá hạch toán chỉ được sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nội bộ đơn vị. Bản thân việc điều chỉnh giá hạch toán theo giá thực tế chính là biểu hiện tuân thủ của nguyên tắc giá gốc.
III. Ý nghĩa của việc tính giá:
Phương pháp tính giá có ý nghĩa quan trọng trong hạch toán và trong công tác quản lý, cụ thể:
Phương pháp tính giá giúp kế toán xác định được giá trị thực tế của tài sản hình thành trong đơn vị, giúp phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào chứng từ, sổ sách và tổng hợp lên báo cáo kế toán và kiểm tra được các đối tượng hạch toán kế toán bằng thước đo tiền tệ.
Phương pháp tính giá giúp kế toán tính toán được hao phí và kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ và tổng hợp được giá trị của toàn bộ tài sản trong đơn vị giúp công tác quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp có hiệu quả.
Phương pháp tính giá giúp cho kế toán tính toán và xác định được toàn bộ chi phí bỏ ra có liên quan đến việc thu mua, sản xuất, chế tạo và tiêu thụ từng loại vật tư, sản phẩm. Từ đó, so với kết quả thu được để đánh giá hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả kinh doanh từng mặt hàng, từng loại sản phẩm, dịch vụ và từng hoạt động kinh doanh nói riêng.
CHƯƠNG II
TÍNH GIÁ MỘT SỐ ĐỐI TƯỢNG KẾ TOÁN CHỦ YẾU
Đối tượng của kế toán chính là vốn kinh doanh với hai mặt đối lập nhưng cân bằng nhau về lượng tài sản và nguồn hình thành tài sản. Trong phạm vi bài tiểu luận này chỉ tính giá tài sản của đơn vị, tức là biểu hiện hiện hữu vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Về mặt giá trị, khi đã xác định được mặt hiện hữu tài sản thì đó cũng chính là giá trị của nguồn hình thành nên tài sản của doanh nghiệp.
Tài sản trong một đơn vị có qui mô dù lớn hay nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực nào của nền kinh tế cũng đều rất đa dạng, bao gồm nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên, tài sản thành bao giờ cũng được phân chia thành tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Tuy nhiên, trong phạm vi của bộ môn Nguyên lý kế toán 1, em xin được làm rõ phương pháp tính giá các đối tượng bao gồm: Tài sản cố định, Nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá và thành phẩm.
I- Về nguyên tắc và trình tự tính giá:
1. Nguyên tắc tính giá:
- Nguyên tắc 1: Xác định đối tượng tính giá.
Tính giá là việc xác định giá trị thực tế của tài sản, làm căn cứ để ghi sổ tài sản. Việc xác định giá trị của tài sản phải tuân theo nguyên tắc giá phí. Giá phí của một đối tượng tính giá là toàn bộ chi phí thực tế đã chi ra liên quan đến đối tượng tính giá. Có như vậy, thông tin về giá trị của đối tượng tính giá mới đảm bảo đúng thực tế, làm cơ sở cho việc tổng hợp tài sản của đơn vị cũng như việc xác định kết quả kinh doanh được đíng đắn. Do mỗi loại tài sản có đặc điểm hình thành khác nhau nên việc xác định giá của chúng cũng khác nhau.
Đối với nguyên vật liệu, hàng hóa: Đây là các tài sản được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như mua ngoài, sản xuất, gia công chế biến,... Giá của nguyên vật liệu, hàng hóa nhập kho tính theo trị giá thực tế. Tùy theo từng nguồn hình thành mà giá của nguyên vật liệu, hàng hóa được tính bởi các chi phí cấu thành.
Đối với tài sản cố định: Tài sản cố định là loại tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, quá trình hình thành có thể diễn ra trong một thời gian ngắn hoặc qua một quá trình đầu tư khá dài. Việc xác định giá trị thực tế của tài sản cố định khi hình thành chính là xác định nguyên giá của tài sản cố định.
Đối với thành phẩm: Là loại sản phẩm được nhập kho từ quá trình sản xuất ở doanh nghiệp, giá của thành phẩm được tính theo giá thành sản xuất thực tế, bao gồm toàn bộ chi phí thực tế đã chi ra để sản xuất ra thành phẩm
- Nguyên tắc 2: Phân loại chi phí: Do tài sản trong doanh nghiệp hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, nên chi phí phát sinh có liên quan đến nhiều loại chi phí, nên cần phải được phân loại cụ thể để tránh trường hợp tập hợp chi phí không đúng, dẫn đến việc tính giá cho các đối tượng kế toán bị sai lệch. Chi phí liên quan đến việc tính giá bao gồm các loại sau:
Chi phí thu mua: Bao gồm toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc thu mua vât tư, tài sản, hàng hóa như chi phí vạn chuyển, bốc dỡ, bảo quản...
Chi phí sản xuất: Là những chi phí phát sinh liên quan đến quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện dịch vụ trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất. Bao gồm:
+ Chi phí bán hàng: Là chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ như : chi phí nhân viên bán hàng ; chi phí vật liệu, bao gói; chi phí dụng cụ bán hàng...
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm toàn bộ các khoản chi phí liên quan đến việc tổ chức, điều hành, quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh
- Nguyên tắc 3: Lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí hợp lý
Trong thực tế, có một số khoản chi phí có liên quan trực tiếp đến nhiều đối tượng tính giá nhưng không thể tách riêng được. Vì thế, cần phải lựa chọn tiêu thức phân bổ thích hợp sao cho sát với chi phí thực tế phát sinh.
Chi phí phát sinh trong quá trình tính giá đối tượng kế toán thường được chia thành hai loại là chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí trực tiếp là chi phí chỉ liên quan đến một loại tài sản cụ thể. Chẳng hạn, giá mua ghi trên hóa đơn của một loại vật liệu mua vào. Chi phí gián tiếp là chi phí liên quan đến nhiều loại tài sản cần đo lường. Chẳng hạn, chi phí vận chuyển nhiều loại hàng hóa mua về, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí nhân viên quản lý phân xưởng... liên quan đến nhiều loại sản phẩm sản xuất.
Do vậy, vấn đề phân bổ chi phí cần được quan tâm trong quá trình tính giá đối tượng kế toán. Về nguyên tắc, để giá trị tài sản của tài sản một cách chính xác và đầy đủ, kế toán tập hợp tối đa các chi phí có thể tập hợp trực tiếp được cho từng đối tượng chịu chi phí. Tuy nhiên, có nhiều chi phí rất khó tập hợp riêng rẽ trực tiếp cho từng đối tượng, khi đó cần phải áp dụng phương pháp phân bổ chi phí phù hợp nhất có thể.
Phương pháp phân bổ hợp lý là phương pháp phản ánh gần đúng nhất chi phí thực tế của tài sản cần được tính giá. Để có phương pháp phân bổ hợp lý, cần phải lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp đó là tiêu thức thể hiện mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí với các loại tài sản cần được đo lường... Do mỗi doanh nghiệp có đặc thù riêng về các chi phí chung nên chuẩn mực kế toán không quy định tiêu thức phân bổ nào được vận dụng mà tiêu thức phân bổ chi phí cho từng đối tượng tính giá phụ thuộc vào quan hệ của chi phí với đối tượng tính giá.Thông thường, các tiêu thức được lựa chọn là tiêu thức phân bổ theo hệ số, theo định mức, theo giờ máy chạy, theo tiền lương công nhân sản xuất, theo chi phí vật liệu chính, theo số lượng, trọng lượng vật tư, sản phẩm... Công thức phân bổ như sau:
Mức phân bổ cho từng đối tượng
=
Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
Tổng chi phí từng loại cần phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
Trong thực tế, có nhiều loại chi phí gián tiếp mang tính chất khác nhau. Ví dụ, chi phí sản xuất chung trong Doanh nghiệp sản xuất như chi phí nhân viên quản lý phân xưởng, chi phí khấu hao máy móc và thiết bị tham gia vào quá trình sản xuất... chi phí bán hàng bao gồm chi phí quảng cáo, tiền lương của nhân viên bán hàng, chi phí khấu hao TSCĐ phục vụ cho hoạt động bán hàng… Do vậy, đối với từng loại chi phí, kế toán cần lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp để tài sản được tính giá một cách hợp lý nhất.
2. Trình tự tính giá.
Việc tính giá của các đối tượng kế toán thông thường có hai bước được trình bày như sau:
Bước 1: Tập hợp và phân bổ chi phí:
Tập hợp các chi phí thực tế liên quan đến tài sản theo đúng nội dung chi phí, theo công dụng của các khoản chi và theo đúng yêu cầu của tính giá. Chi phí nào liên quan trực tiếp đến một đối tượng thì tập hợp trực tiếp cho đối tượng đó. Chi phí nào liên quan đến nhiều đối tượng tính giá thì phải tiến hành phân bổ theo tiêu thức hợp lý.
Sau khi đã tập hợp được chi phí, đối với các chi phí liên quan đến nhiều đối tượng tính giá phải tiến hành phân bổ theo công thức phân bổ tổng quát sau:
Chi phí cần phân bổ cho đối tượng i
=
Tổng chi chí cần phân bổ
Số tiêu thức phân bổ của đối tượng i
Tổng tiêu thức phân bổ của các tài sản
Bước 2: Tổng hợp và xác định giá trị ghi sổ:
Tổng hợp các chi phí đã tập hợp được cho đối tượng tính giá, tính toán, xác định giá thực tế của tài sản hình thành.
Giá trị ghi sổ của đối tượng tính giá
=
Chi Phí tập hợp trực tiếp
+
Chi phí phân bổ cho đối tượng đó
II. Tính giá một số đối tượng kế toán chủ yếu.
1. Tính giá tài sản cố định.
Về mặt lý luận, tài sản cố định là loại tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài. Việc xác định giá trị của tài sản cố định khi hình thành chính là xác định nguyên giá của tài sản cố định. Nguyên giá của tài sản cố định bao gồm toàn bộ chi phí doanh nghiệp chi ra để có được tài sản cố định tính đến thời điểm đưa tài sản cố định vào sử dụng.
Tài sản cố định được hình thành trong các trường hợp như mua sắm, tự xây dựng, chế tạo, được biếu tặng hoặc do góp vốn liên doanh... Trong từng trường hợp cụ thể thì việc tính giá cho tài sản cố định có sự khác nhau.
a) Trường hợp tài sản cố định hữu hình hình thành do mua sắm:
Nguyên giá tài sản cố định mua sắm bao gồm giá mua trừ (-) các khoản được chiết khấu thương mại hoặc giảm giá, các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng, như: chi phí chuẩn bị mặt bằng; chi phí vận chuyển và bốc xếp ban đầu; chi phí lắp đặt, chạy thử (trừ (-) các khoản thu hồi về sản phẩm, phế liệu do chạy thử); chi phí chuyên gia và các chi phí liên quan trực tiếp khác. Nếu các chi phí không liên quan trực tiếp đến việc mua sắm và đưa tài sản cố định vào trạng thái sẵn sàng sử dụng thì không được đưa vào nguyên giá tài sản cố định.
Có thể mô hình hoá công thức tính nguyên giá tài sản cố định hình thành từ mua sắm như sau:
Nguyên giá TSCĐ
Giá mua thực tế trên hoá đơn
=
+
-
Các khoản thuế không được hoàn lại
Chi phí trước khi sử dụng
Cần lưu ý rằng, nguyên giá của tài sản cố định được xác định tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế giá trị gia tăng (VAT). Ở nước ta, tài sản cố định lưu thông, mua bán trên thị trường thường có thuế giá trị gia tăng. Đây là loại thuế gián thu thường được hoàn lại nên khi doanh nghiệp tiếp nhận những tài sản có loại thuế này thì về nguyên tắc, khoản thuế giá trị gia tăng sẽ được loại trừ khi tính giá thực tế của của tài sản cố định mua vào. Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp mà hoạt động kinh doanh không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, hoặc đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp thì khoản thuế giá trị gia tăng phát sinh khi mua tài sản cố định sẽ không được hoàn lại. Khi đó, khoản thuế giá trị gia tăng này lại được tính vào nguyên giá của tài sản cố định mua vào. Do vậy, việc xác định nguyên giá của tài sản cố định mua vào cần quan tâm đến những quy định về thuế.
b) Tài sản cố định hình thành do doanh nghiệp tự xây dựng, chế tạo:
Nguyên giá TSCĐ tự xây dựng hoặc tự chế là giá thành thực tế của TSCĐ tự xây dựng, hoặc tự chế cộng (+) chi phí lắp đặt, chạy thử. Trường hợp doanh nghiệp dùng sản phẩm do mình sản xuất ra để chuyển thành TSCĐ thì nguyên giá là chi phí sản xuất sản phẩm đó cộng (+) các chi phí trực tiếp liên quan đến việc đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Trong các trường hợp trên, mọi khoản lãi nội bộ không được tính vào nguyên giá của các tài sản đó. Các chi phí không hợp lý, như nguyên liệu, vật liệu lãng phí, lao động hoặc các khoản chi phí khác sử dụng vượt quá mức bình thường trong quá trình tự xây dựng hoặc tự chế không được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình.
Công thức tính nguyên giá tài sản cố định hình thành từ do Doanh nghiệp tự xây dựng, chế tạo như sau:
Nguyên giá TSCĐ
Giá
thực tế công
trình
=
+
Chi phí ra
trước khi đưa TSCĐ vào
sử dụng
Trên đây là những ứng dụng cụ thể của nguyên tắc giá gốc khi đo lường tài sản. Tuy nhiên, giá gốc không phải là loại giá duy nhất được sử dụng để đo lường tài sản. Trong một số trường hợp đặc biệt, kế toán có thể sử dụng các cơ sở đo lường khác để xác định giá trị tài sản.
2- Tính giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá:
a) Tính giá nhập kho:
Nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hóa của doanh nghiệp gồm nhiều loại và sử dụng cho những mục đích khác nhau theo đó việc tính giá cũng có sự khác biệt nhưng đều phải tuân thủ nguyên tắc chung là phản ánh được toàn bộ các chi phí đã chi ra để có được tài sản đó (nguyên tắc giá phí). Việc tính giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá phải tuân thủ quy trình tính giá các đối tượng kế toán và căn cứ nguồn gốc hình thành để có cơ sở tính giá đảm bảo đúng đắn nhất.
- Đối với nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá mua ngoài: Có thể khái quát trình tự tính giá nguyên vật liệu, hàng hoá mua vào theo 3 bước sau:
Bước 1: Xác định giá nhập kho của nguyên vật liệu, hàng hoá:
Giá
nhập kho
Giá mua thực tế trên hoá đơn
=
+
-
Các khoản thuế không được hoàn lại
Giá thu mua NVL, HH
-
Các khoản giảm trừ hàng mua
Cũng giống như tài sản cố định mua ngoài, giá mua nguyên vật liệu, hàng hoá được xác định tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế giá trị gia tăng. Có nghĩa là giá mua của nguyên vật liệu, hàng hoá có thể là giá mua không có thuế hoặc bao gồm cả thuế giá trị gia tăng.
Các khoản giảm trừ hàng mua bao gồm: Giảm giá hàng mua là khoản tiền mà người bán đồng ý giảm trên giá bán cho người mua trong trường hợp khi hàng đã mua không đủ chất lượng hoặc sai qui cách, phẩm chất theo yêu cầu của người mua đã đặt ra. Chiết khấu thương mại là khoản tiền giảm trừ mà người mua được hưởng khi mua hàng với số lượng lớn hoặc là những khách hàng thường xuyên và các khoản hàng mua trả lại.
- Bước 2: Tập hợp và phân bổ chi phí liên quan đến tài sản mua vào:
Những chi phí phát sinh trong khâu thu mua như chi phí vận chuyển, bốc dỡ, chi phí lưu kho bãi, chi phí giao dịch, chi phí môi giới, hao hụt trong định mức... Các chi phí này có thể đã có thuế GTGT hoặc chưa có thuế GTGT tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế GTGT của đơn vị và tài sản mua vào có chịu thuế GTGT không, dùng vào hoạt động gì...
Trường hợp các chi phí này có liên quan đến nhiều đối tượng tính giá thì phải phân bổ cho các đối tượng có liên quan theo tiêu thức hợp lý.
- Bước 3: Tổng hợp chi phí và tính giá thực tế cho từng tài sản cần tính giá:
Giá thực tế
của NVL, CCDC, HH i
=
Giá thực tế mua
NVL, CCDC,
HH i
+
Chi phí liên quan phân bổ cho NVL, CCDC, HH i
Để thuận lợi cho công việc tính giá, kế toán thường sử dụng bảng (thẻ) tính giá tài sản để phản ánh kết quả của quá trình tính giá.
- Đối với nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá do doanh nghiệp tự chế tạo thì việc tính giá nhập kho cũng giống như việc tính nguyên giá tài sản cố định do doanh nghiệp tự xây dựng.
b) Tính giá xuất kho:
Tính giá nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá sẽ rất đơn giản khi tất cả các đơn vị hàng mua đều được mua với cùng một đơn giá ổn định từ kỳ này sang kỳ khác. Tuy nhiên, khi các loại nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá giống nhau được mua với những giá khác nhau thì phát sinh vấn đề là sử dụng trị giá vốn nào cho nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá cuối kỳ và trị giá vốn nào cho nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá xuất ra.
Về nguyên tắc, nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá được đánh giá theo giá thực tế. Việc tính giá trị nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá được áp dụng theo một trong các phương pháp: Phương pháp tính theo giá đích danh; Phương pháp bình quân gia quyền; Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO); Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO).
- Phương pháp tính theo giá thực tế đích danh: Phương pháp này được áp dụng đối với doanh nghiệp có ít loại mặt hàng hoặc mặt hàng ổn định và nhận diện được, hơn nữa các doanh nghiệp phải có điều kiện bảo quản riêng từng lô hàng nhập kho, vì vậy mà khi xuất kho lô nào thì tính theo giá đích danh của lô đó khi nhập. Phương pháp này có thể được ủng hộ vì nó hoàn toàn làm phù hợp giữa chi phí và doanh thu.
Phương pháp tính giá này thích hợp cả với các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ và kê khai thường xuyên trong kế toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá.
Theo phương pháp kiểm kê định kỳ: Theo phương pháp này, kế toán không theo dõi thường xuyên, liên tục tình hình nhập, xuất, tồn của nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá, về bản chất nó chỉ theo dõi nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá tăng (nhập kho). Vào cuối mỗi kỳ kế toán, doanh nghiệp tiến hành kiểm kê số lượng nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá rồi lấy số lượng hàng tồn đó nhân (x) với đơn giá (Với mỗi phương pháp tính giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá khác nhau thì đơn giá của chúng cũng khác nhau) Khi biết đươc giá rị của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá cuối kỳ thì ta tính được giá trị của hàng xuất bán trong kỳ:
Giá trị NVL xuất kho
=
Giá trị NVL tồn đầu kỳ
+
Giá trị NVL nhập trong kỳ
-
Giá trị NVL tồn cuối kỳ
Khi doanh nghiệp tính giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá theo phương pháp giá thực tế đích danh thì khi kiểm kê cuối kỳ kế toán sẽ biết được số lượng của từng lô hàng với đơn giá thực tế của nó. Từ đó tính được giá trị hàng tồn cuối kỳ và suy ra được giá trị của hàng xuất bán.
Phương pháp Kê khai thường xuyên: Ngược với phương pháp kê khai định kỳ, phương pháp kê khai thường xuyên cập nhật nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá sau mỗi lần nghiệp vụ mua hoặc bán xảy ra. Ngay khi các bút toán đã được vào sổ là tài khoản cho biết số lượng hiện hành của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá có trong tay.
Khi phương pháp kê khai thường xuyên được sử dụng, nhà quản lý có khả năng giám sát nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá có trong tay một cách liên tục. Điều này giúp cho nhà quản lý lập kế hoạch thu mua trong tương lai.
Với phương pháp kế toán nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá này thì giá trị hàng xuất được tính bằng tổng của số lượng xuất của từng lô nhân với đơn giá thực tế đích danh của từng lô hàng đó.
- Phương pháp bình quân gia quyền.
Theo phương pháp này giá trị của từng loại nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được tính theo giá trị trung bình của từng loại nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá tương tự đầu kỳ và giá trị từng loại nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua hoặc sản xuất trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo thời kỳ hoặc vào mỗi khi nhập một lô hàngvề, phụ thuộc vào tình hình của doanh nghiệp.
Giá trị NVL xuất kho
=
Khối lượng NVL xuất kho
Đơn giá bình quân gia quyền
Đơn giá bình quân gia quyền được tính theo hai phương pháp sau:
+ Phương pháp tính đơn giá bình quân cả kỳ:
Đơn giá bình quân gia quyền cả kỳ
=
Giá trị NVL tồn đầu kỳ + Giá trị NVL nhập trong kỳ
Số lượng NVL tồn đầu kỳ + Số lượng NVL nhập trong kỳ
+ Phương pháp tính đơn giá bình quân thời điểm:
Đơn giá bình quân gia quyền thời điểm
=
(SL tồn đầu kỳ Đơn giá tồn) + ∑ (SL đơn giá nhập đến thời điểm tính)
Số lượng tồn đầu kỳ + ∑ Số lượng nhập đến thời điểm tính)
- Phương pháp nhập trước, xuất trước FIFO:
Phương pháp này được áp dụng dựa trên giả định là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua trước hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, và nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá còn lại cuối kỳ là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua hoặc sản xuất gần thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
- Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO):
Phương pháp này được áp dụng dựa trên giả định là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước, và nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá còn lại cuối kỳ là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ còn tồn kho.
3. Tính giá thành sản phẩm hoàn thành.
Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp 3
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phương pháp tính giá các đối tượng kế toán trong mối quan hệ với các phương pháp hạch toán kế toán khác.doc