Xét về mặt khoa học luật, người ta thường gọi đây là phương thức kiện buộc chấm dứt hành vi. Trở lại ví dụ đã dẫn ở phần trên:
Trong thực tế, các tranh chấp có đối tượng là hành vi trái pháp luật như trên chủ yếu liên quan đến bất động sản. Một ví dụ nữa cũng rất điển hình là hành vi xây tường bao hoặc tường rào chắn lối đi của nhà hàng xóm. Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp dạng này tại Toà án hoặc Uỷ ban nhân dân các cấp, có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Hành vi là đối tượng của việc kiện phải là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật ở đây được hiểu không chỉ là trái với các quy định của Bộ luật dân sự, mà còn trái với quy định của các văn bản pháp luật khác (như đất đai, xây dựng ). Đặc điểm chung của các hành vi này là cản trở chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp thực hiện những quyền năng của mình trong khuôn khổ pháp luật.
- Trên thực tế, loại việc này thường liên quan đến bất động sản liền kề như nhà ở, công trình xây dựng, quyền sử dụng đất, lối đi chung
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2897 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phương thức bảo vệ quyền sở hữu – Một só vẫn đề lí luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thì loài người đã chiếm hữu những vật sẵn có trong thiên nhiên. Khi có pháp luật rồi thì mới phát sinh khái niệm quyền chiếm hữu. Muốn chứng minh mình là chủ sở hữu thì tuỳ từng trường hợp: đối với bất động sản phải dựa vào việc đăng ký tài sản, còn đối với động sản thì bản thân sự chiếm hữu cũng là một cách thức để chứng minh. Không nên để ‘‘tình trạng chiếm hữu’’ như là khi xã hội chưa có luật pháp.
1.2. Quyền sử dụng:
Điều 192 BLDS quy định:“Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”. Nói một cách dễ hiểu thì quyền sử dụng là quyền khai thác những lợi ích mang lại từ tài sản.
1.3. Quyền định đoạt:
Điều 195 BLDS quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”. Quyền định đoạt có thể thực hiện bằng hai cách: quyết định số phận về mặt thực tế hoặc quyết định số phận về mặt pháp lý của tài sản.
2. Bảo vệ quyền sở hữu:
Quyền sở hữu là một trong các quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân, nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để bảo vệ quyền sở hữu. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”.
Theo lý luận truyền thống của luật dân sự thì bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là những biện pháp trong khuôn khổ pháp luật tác động đến hành vi xử sự của con người, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Còn phương thức bảo vệ quyền sở hữu là cách thức mà Nhà nước và chủ sở hữu sử dụng để bảo vệ chủ sở hữu khỏi những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Quyền sở hữu được bảo vệ bằng các biện pháp hình sự, hành chính hay dân sự. BLDS năm 1995 đã dành hẳn Chương XV (Phần thứ hai), bao gồm 7 điều từ Điều 255 đến Điều 261 để quy định về bảo vệ quyền sở hữu. Ngoài ra, quy định về bảo vệ quyền sở hữu còn nằm rải rác ở một số điều khác, theo đó, chủ sở hữu có quyền bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức sau:
- Tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu;
- Yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại;
- Yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
B. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn.
1. Chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp
Như chúng ta đã biết, đặc trưng lớn nhất của quyền dân sự là nguyên tắc tự định đoạt. Cũng chính vì lý do này mà luật dân sự được xếp vào luật tư ở những nước có sự phân biệt hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư. Theo BLDS thì chủ sở hữu có quyền tự thực hiện các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của chính mình. Ví dụ: chủ sở hữu nhà ở xây tường bao xung quanh nhà của mình để bảo vệ nhà của mình khỏi bị xâm phạm từ bên ngoài, chủ vườn cây ăn quả rào vườn và thuê người bảo vệ, trông nom vườn cây của mình…
Quyền của chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản của mình không phải là tuyệt đối, mà có giới hạn của nó. Giới hạn đó chính là “không được xâm phạm đến lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Các hành vi như: giăng dây điện quanh ao cá, vườn cây để chống trộm, làm hố chông quanh gốc cây ăn quả … dẫn đến làm người khác bị chết (kể cả kẻ trộm), đều bị coi là hành vi trái pháp luật, phải bồi thường thiệt hại và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.
Các hành vi tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp trong thực tế rất đa dạng. Hiệu quả của các biện pháp này đến đâu phụ thuộc vào chính khả năng của bản thân chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Vấn đề đặt ra là khi chủ sở hữu không có năng lực hành vi dân sự để có thể tự mình bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản, thì pháp luật dự liệu như thế nào? Cũng giống như Bộ luật dân sự các nước, BLDS đã có một cơ chế để xử lý vấn đề này, đó chính là chế định giám hộ. Theo Điều 65 BLDS, người giám hộ có nghĩa vụ:
“1. Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ;
2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự;
3. Quản lý tài sản của người được giám hộ;
4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ”.
Tất nhiên, bù lại, người giám hộ sẽ được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý, bảo vệ tài sản của người được giám. Nếu người giám hộ có hành vi vi phạm pháp luật (như lợi dụng việc giám hộ để chiếm đoạt tài sản của người được giám hộ), thì phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Trong trường hợp này, việc giám hộ bị chấm dứt để thay thế bằng một quan hệ giám hộ mới, với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Một biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu rất có hiệu quả của chủ sở hữu là biện pháp đăng ký quyền sở hữu. Cơ sở pháp lý của quyền này là Điều 167 của BLDS. Tuy nhiên, để xác định những loại tài sản nào phải đăng ký thì không chỉ dựa vào Bộ luật dân sự mà còn dựa vào các văn bản pháp luật chuyên ngành (Bộ luật Hàng hải, Luật Đất đai, Luật Hàng không dân dụng…). Thông thường, tài sản đó là nhà ở, quyền sử dụng đất, ô tô, xe máy, tàu thuỷ, thuyền, máy bay… Việc đăng ký tài sản rất có ý nghĩa, vì trong các hợp đồng dân sự đòi hỏi phải đăng ký, nó là thời điểm hoàn tất việc chuyển giao quyền sở hữu, đồng thời là cũng là thời điểm để chủ sở hữu có quyền “đối kháng” với người thứ ba khi tài sản có tranh chấp. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng việc đăng ký tài sản ở Việt Nam hiện nay được thực hiện chưa nghiêm túc. Nguyên nhân là do thủ tục hành chính còn rườm rà, lệ phí cao so với mức sống trung bình của người dân, song nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn chưa tốt. Đây là một thực tế gây rất nhiều khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi có tranh chấp xảy ra.
Trên thực tế, biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình là biện pháp diễn ra phổ biến nhất và cũng có hiệu quả nhất. Người Việt Nam có truyền thống “duy tình”, trường hợp kiện nhau ra Toà cũng không phải là “thói quen” như là một nét văn hoá hết sức bình thường ở các nước phương tây. Tuy nhiên, với sự phát triển của cơ chế thị trường, trong những năm gần đây, các hành vi vi phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp bắt đầu có xu hướng tăng. Trong những trường hợp này, biện pháp tự bảo vệ xem ra không còn phát huy tác dụng, và chủ sở hữu phải sử dụng đến các biện pháp khác để có thể bảo vệ được quyền lợi của mình.
2. Chủ sở hữu yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại:
Ví dụ: A là chủ sở hữu của một căn nhà. B là hàng xóm của A, trong khi đào móng làm nhà, đã đào sát tường nhà A, làm sụt và nứt tường của nhà A.
Ví dụ trên xảy ra rất phổ biến trong thực tế. Trong trường hợp trên, A với tư cách là chủ sở hữu có quyền gì đối với B không? Theo các quy định của BLDS Việt Nam, thì A, với tư cách là chủ sở hữu có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, có quyền yêu cầu B – người có hành vi cản trở việc thực hiện quyền sở hữu của mình – phải chấm dứt hành vi vi phạm. Tức là A có quyền yêu cầu B phải ngừng việc đào móng sát tường nhà của mình để tìm biện pháp khác.Tuy nhiên, tường nhà của A đã bị sụt và nứt, A có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo cách thức và mức do hai bên thoả thuận.
Đây chính là cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế thường thông qua con đường các bên “tự dàn xếp”. Như chúng tôi đã nói ở trên, xuất phát từ nguyên tắc tự định đoạt, nên các bên hoàn toàn có quyền tự bàn bạc, thu xếp với nhau mà không cần thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cơ chế này tỏ ra rất hữu hiệu trong nhiều trường hợp, vì nó có những lợi ích cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các bên không phải mất thời gian, chi phí để khởi kiện tại Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
Thứ hai, xét về mặt tình cảm, như chúng tôi đã nói ở trên, với truyền thống duy tình của người Việt Nam, thì phương thức tự dàn xếp này nếu thành công sẽ giữ gìn được mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa các bên, duy trì được tình làng nghĩa xóm;
Thứ ba, nếu dàn xếp được, thì thông thường là các bên sẽ tự nguyện chấm dứt hành vi vi phạm, khắc phục và bồi thường thiệt hại, khỏi phải thông qua cơ chế thi hành bản án, quyết định dân sự-một vấn đề rất nhức nhối hiện nay khi các bản án, quyết định dân sự còn tồn đọng, không được thi hành trên thực tế còn đang chiếm một tỷ lệ rất lớn;
Thứ tư, có một thực tế ở Việt Nam hiện nay là nhiều vụ án hình sự (giết người, cố ý gây thương tích, cố ý huỷ hoại tài sản…) có nguồn gốc từ các tranh chấp dân sự. Nếu hoà giải thành thì có thể tránh được những trường hợp đau lòng, gây thiệt hại cho các bên đương sự và cho xã hội.
Rõ ràng, cơ chế trên vừa đem lại lợi ích cho các bên cũng như cho Nhà nước. Nhận thức được những lợi ích này, Nhà nước ta đã thiết lập cả một thể chế, thiết chế về hoà giải. Về thể chế, đó là Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về thiết chế, đó là các Tổ hoà giải ở cơ sở (xóm, thôn, tổ dân phố) dưới sự quản lý và hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Ban Tư pháp xã phường và Uỷ ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp. Cũng cần phân biệt cơ chế hoà giải “tiền tố tụng” này với cơ chế hoà giải mang tính tố tụng do Toà án thực hiện sau khi thụ lý vụ kiện. Đây chính là một trong những điểm ưu việt của pháp luật Việt Nam, được các nhà tài trợ quốc tế đánh giá cao.
Cũng giống như biện pháp chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp, biện pháp tự dàn xếp này cũng có giới hạn của nó. Giới hạn đó cũng chính là “lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Các hành vi như tự ý tổ chức “cưỡng chế đòi nợ”, thoả thuận dàn xếp với nhau để vi phạm quyền lợi của người thứ ba… đều bị coi là hành vi trái pháp luật và bị xử lý (cả về mặt hình sự hoặc hành chính nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hoặc vi phạm). Pháp lệnh hoà giải cũng quy định phạm vi hoà giải không bao gồm các vụ việc có dấu hiệu hình sự hoặc hành chính. Trong những trường hợp trên, việc chủ sở hữu thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu của mình đã vượt quá giới hạn cần thiết và do vậy, bị coi là bất hợp pháp.
Cơ chế “tự dàn xếp” sẽ không phát huy tác dụng nếu bên vi phạm vẫn cố tình vi phạm mặc dù chủ sở hữu đã yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, các bên đương sự không thoả thuận được với nhau về cách thức, mức bồi thường thiệt hại… Trong các trường hợp này, chủ sở hữu nếu muốn thực hiện việc bảo vệ quyền sở hữu của mình, thì chỉ còn cách yêu cầu Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác can thiệp.
3. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại:
Xét về mức độ can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ pháp luật, thì trong quan hệ pháp luật dân sự, sự can thiệp này ở mức độ thấp nhất, xuất phát từ chính bản thân quan hệ pháp luật dân sự là quan hệ mang tính bình đẳng thoả thuận giữa các bên, Nhà nước chỉ can thiệp khi thật cần thiết. Trong trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, mặc dù chủ sở hữu đã yêu cầu người có hành vi vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại, nhưng không đạt được kết quả như mong muốn, thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác – với tư cách là cơ quan công quyền – buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
3.1. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu:
Xét về mặt khoa học luật, người ta thường gọi đây là phương thức kiện buộc chấm dứt hành vi. Trở lại ví dụ đã dẫn ở phần trên:
Trong thực tế, các tranh chấp có đối tượng là hành vi trái pháp luật như trên chủ yếu liên quan đến bất động sản. Một ví dụ nữa cũng rất điển hình là hành vi xây tường bao hoặc tường rào chắn lối đi của nhà hàng xóm. Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp dạng này tại Toà án hoặc Uỷ ban nhân dân các cấp, có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Hành vi là đối tượng của việc kiện phải là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật ở đây được hiểu không chỉ là trái với các quy định của Bộ luật dân sự, mà còn trái với quy định của các văn bản pháp luật khác (như đất đai, xây dựng…). Đặc điểm chung của các hành vi này là cản trở chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp thực hiện những quyền năng của mình trong khuôn khổ pháp luật.
- Trên thực tế, loại việc này thường liên quan đến bất động sản liền kề như nhà ở, công trình xây dựng, quyền sử dụng đất, lối đi chung…
3.2. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản:
Phương thức kiện này được gọi phổ biến là kiện vật quyền (kiện đòi lại tài sản). Loại việc này diễn ra khá phổ biến tại các Toà án trong những năm vừa qua, đặc biệt là kiện đòi nhà, đất.
Liên quan đến vấn đề này, Bộ luật dân sự đã quy định về nghĩa vụ hoàn trả tài sản do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Theo đó, trong mọi trường hợp, người chiếm hữu, sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật, thì có nghĩa vụ hoàn trả cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó. Điều kiện để thực hiện biện pháp kiện vật quyền là:
+ Vật rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thông qua quan hệ hợp đồng. Ví dụ: bị mất, bị lấy cắp, bị cướp…
+ Người thực tế đang chiếm hữu, sử dụng tài sản là người chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật.
+ Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải chứng minh được vật đang bị chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật là vật thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Trên thực tế, để chứng minh được thì tài sản thường phải là vật đặc định.
+ Vật là đối tượng của việc kiện vẫn chưa bị xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
Liên quan đến vấn đề thời hiệu, Điều 247 BLDS đã quy định rất rõ ràng:
“1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó”.
Vấn đề đặt ra là quan hệ pháp luật dân sự diễn ra trong thực tế rất sinh động, không phải trong trường hợp nào tài sản cũng chỉ rời khỏi chủ sở hữu sang người khác và dừng ở đó, mà có rất nhiều trường hợp người chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật lại chuyển giao tài sản đó cho người thứ ba. Vậy trong trường hợp này, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền đòi lại vật hay không? Liên quan đến vấn đề này, Điều 257 và 258 BLDS quy định:
- Điều 257: Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
- Điều 258: Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.
Qua hai điều luật trên có thể thấy BLDS nghiêng về trường phái bảo vệ quyền sở hữu một cách tuyệt đối. Người thứ ba dù ngay tình hay không ngay tình khi chiếm hữu vật do người chiếm hữu, sử dụng tài sản mà không có căn cứ pháp luật đã chuyển giao cho mình, thì trong mọi trường hợp, khi bị chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp kiện vật quyền, đều phải có nghĩa vụ hoàn trả tài sản (tất nhiên trừ trường hợp xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu).
3.3. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải bồi thường thiệt hại: (Phương thức này còn được gọi là kiện trái quyền).
Vậy phải chăng người thứ ba ngay tình không được pháp luật bảo vệ? Họ vẫn được pháp luật bảo vệ, nhưng theo một phương thức khác, đó là kiện đòi bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền) mà chúng tôi sẽ trình bày tiếp ở phần sau.
Có thể thấy rằng việc pháp luật quy định người thứ ba ngay tình phải hoàn trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp sẽ là một bất lợi lớn đối với họ trong rất nhiều trường hợp. Nếu đó là tài sản mà người này đã đầu tư vào kinh doanh (ví dụ máy móc, trang thiết bị kỹ thuật…), thì khi phải trả lại, họ sẽ phải chịu những xáo trộn nhất định trong công việc của mình. Hoặc nếu đó là những tài sản quý hiếm (tranh quý, đồ mỹ nghệ, đồ trang sức…) mà họ đã bỏ tiền ra mua để sưu tập, làm kỷ niệm… nay dù không muốn trả lại thì họ vẫn buộc phải trả lại nếu chủ sở hữu có yêu cầu đòi lại tài sản. Tóm lại là dù không muốn trả lại tài sản vì lý do nào đó, nhưng khi bị chủ sở hữu kiện đòi tài sản, thì người thứ ba ngay tình vẫn phải trả lại tài sản. Rồi để thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình, họ lại phải đeo đuổi một vụ kiện khác: kiện người đã giao tài sản cho mình phải bồi thường thiệt hại, mà điều này cũng không phải là dễ dàng nhất là trong trường hợp tài sản đã qua tay nhiều người.
Điều 260 BLDS quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”.
Ngoài chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người thứ ba ngay tình cũng có quyền khởi kiện yêu cầu người đã xác lập giao dịch với mình phải bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền), nếu tài sản bị tịch thu, sung quỹ Nhà nước hoặc trả lại cho người có quyền nhận tài sản đó.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định khá rộng và phức tạp. Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi chỉ xem xét vấn đề dưới góc độ như là một biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, mà không đi sâu phân tích các quy định chi tiết (như năng lực chịu trách nhiệm bồi thường, xác định thiệt hại, bồi thường thiệt hại trong từng trường hợp cụ thể…).
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản phát sinh từ hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, pháp nhân như làm mất, phá huỷ, huỷ hoại tài sản… Ý nghĩa của chế định bồi thường thiệt hại về tài sản là một mặt, nhằm khôi phục những thiệt hại về vật chất mà người gây thiệt hại đã gây ra cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp; mặt khác, giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền sở hữu tài sản của người khác. Các yếu tố phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
+Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật;
+Có thiệt hại thực tế xảy ra;
+Có lỗi của người gây thiệt hại;
+Có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại là phải toàn bộ, kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật, hoặc thực hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
Về cơ bản, các quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại đối với tài sản được đánh giá là tương đối hoàn thiện và đã phát huy tác dụng trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
C. Thực tiễn trong giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu tại Tòa án trong thời gian qua
Theo báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân tối cao, trong những năm vừa qua, các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu có xu hướng ngày càng gia tăng. Năm 1997, Toà án các cấp đã giải quyết 70.832 vụ tranh chấp về dân sự, năm 1998 là 93.266 vụ, năm 1999 là 92.441 vụ, năm 2000 là 111.721 vụ[6]; trong số đó chủ yếu là các tranh chấp liên quan đến tài sản và quyền sở hữu. Trong điều kiện án lệ vẫn chưa được thừa nhận là một nguồn của pháp luật, thì việc vận dụng các quy định của Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan để giải quyết các tranh chấp thuộc loại này đã phát sinh những khó khăn nhất định. Dưới đây, xin đơn cử một số trường hợp điển hình.
*Vụ thứ nhất:
Vụ kiện giữa nguyên đơn: anh Nghiêm Ngọc Q, sinh năm 1961 và bị đơn: ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1942 (ở đây chúng tôi không tiện nêu tên cụ thể).
Gia đình anh Nghiên Ngọc Q ở thửa đất tại xóm Núi, xã Tam Sơn, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh từ năm 1987 đến năm 1991. Do nhu cầu về lối đi nên anh Q đã xin địa phương cho phép mở lối đi ra đường mới liên thôn. Năm 1995, ông H mua quyền sử dụng đất của bà Loan là hàng xóm của anh Q và xây nhà cho con trai là Hà ra ở. Ông H đã đi vào lối đi mà anh Q đã đi từ trước. Đến tháng 2/2000, anh Q cải tạo lại ngõ và không cho ông H đi nhờ nữa, từ đó hai bên xảy ra xô xát, bất hoà. Anh Q cho rằng lối đi này là của riêng gia đình anh vì đã được chính quyền địa phương công nhận và đã được cấp sổ bìa đỏ từ năm 1998. Còn ông H thì cho rằng trong quyết định giao đất cho ông đã ghi rõ phía bắc giáp ngõ nên gia đình ông cứ đi.
Anh Q khởi kiện vụ án. Tại án dân sự sơ thẩm số 35 ngày 20/10/2000, Toà án nhân dân huyện Từ Sơn đã quyết định: xác nhận phần đất làm lối đi là đối tượng của tranh chấp có diện tích 60,3 m2 là thuộc quyền sử dụng của anh Q.
Ông H không đồng ý với bản án sơ thẩm và đã kháng cáo. Tại bản án phúc thẩm dân sự số 90 ngày 15/12/2000, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định y án sơ thẩm. Án có hiệu lực pháp luật, nhưng gia đình ông H không nghiêm túc thực hiện mà thường xuyên có hành vi cản trở anh Q thực hiện quyền của mình. Ngày 6/1/2001, anh Q xây tường trên phần lối đi cũ, ông H cùng các con xông ra ngăn cản, tháo dỡ, chửi bới nên anh Q không xây dựng được. Đến ngày 26/3/2001, Đội thi hành án Từ Sơn ra quyết định cưỡng chế thi hành án đối với gia đình ông H, nên ngày 29/3/2001, gia đình anh Q mới xây dựng được tường ngăn cao 2m.
Trên thực tế loại việc này thường liên quan đến bất động sản liền kề như nhà ở, công trình xây dựng, quyền sử dụng đất, lối đi chung. Trong vụ kiện trên, sở dĩ anh Q thắng kiện là vì anh đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bìa đỏ). Trong đa số các trường hợp tranh chấp thường bên nguyên đơn không chứng minh được nguồn gốc đất mà mình đang sử dụng vì không có bìa đỏ và các giấy tờ cần thiết khác.
* Vụ thứ hai:
Ngày 2/7/1994, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bắc Giang (NHNN&PTNT tỉnh Bắc Giang) – Chi nhánh liên xã số 3, lập khế ước cho anh Nguyễn Minh Hồng, ở thị xã Bắc Giang, vay số tiền 9.000.000 đồng, thời hạn 01 năm, tài sản thế chấp là toàn bộ căn nhà và đất của anh Hồng và vợ là chị Vũ Thị Đoàn. Sau đó, phía Ngân hàng gia hạn cho anh Hồng trong khế ước, thời điểm thanh toán nợ là 2/7/1997. Đến thời hạn, anh Hồng không thanh toán được nợ và lãi phát sinh.
Năm 1999, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu anh Hồng, chị Đoàn phải thanh toán nợ gốc và lãi phát sinh cho Ngân hàng. Trong quá trình thực hiện, tiến hành các thủ tục về việc thế chấp tài sản để vay vốn, anh Hồng đã thế chấp toàn bộ nhà đất thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Theo quy định thì tài sản thế chấp thuộc sở hữu chung của nhiều người hoặc sở hữu chung của hộ gia đình thì phải được cam kết bằng văn bản của những đồng sở hữu hoặc của những thành viên đồng sở hữu trong hộ gia đình, đồng ý giao cho người đại diện vay vốn và ký hợp đồng thế chấp tài sản.
Trong trường hợp vụ kiện cụ thể này, tài sản thế chấp thuộc sở hữu của chung của anh Hồng, chị Đoàn. Khi thế chấp, phía Ngân hàng không yêu cầu anh Hồng phải lấy ý kiến đồng ý của đồng sở hữu, dẫn đến việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn gặp rất nhiều khó khăn. Khi giải quyết vụ án, cơ quan Toà án phải mất nhiều thời gian để điều tra, xác m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phương thức bảo vệ quyền sở hữu – Một só vẫn đề lí luận và thực tiễn(có kèm tình huống).doc